20. Những cuộn ký ức -
Mặt nạ giấy trong bộ tranh thờ của người
Dao
Những cuộc di cư và những vết hằn trong ký ức
Dường như dân tộc Dao có cung Thiên Di xung chiếu với Mệnh, cho nên người Dao tứ tán bốn phương kể từ một cuộc chia ly trong khởi nguyên truyền thuyết (xem thêm: Người Dao).
Di
cư và ly tán có lẽ là nỗi ám ảnh thường trực của người Dao. Tâm thức này được
phóng chiếu trong hầu hết cảc hoạt động văn hóa và tâm linh nhằm hướng về tổ
tiên và nguồn cội, như là cách bảo tồn ký ức của họ. Bên cạnh các hình thức diễn
xướng như cách truyền khẩu theo lối dân gian, Người Dao dùng tranh thờ như
kiểu ghi lại ký ức của họ một càch chính thống. Những bức tranh thờ, vì vậy, có
vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống tâm linh của họ.
Người Dao không có nơi thờ phượng cố định như nhà thờ, đình, chùa hay miếu mạo. Họ tổ chức những nghi lễ trong không gian tạm của một ngôi nhà, ban thờ được dựng lên và sau đó bị loại bỏ khi kết thúc nghi lễ. Chính yêu cầu cơ động này làm cho tranh thờ; một vật trung gian bắt buộc phải có giữa con người và thần linh; có vai trò đắc địa do tính chất dễ lưu trữ và vận chuyển của nó.
Do bởi yếu tố tâm linh, các thầy Tào* có những qui tắc bảo vệ sự linh thiêng của bộ tranh thờ rất chặt chẽ:
- Nếu không đủ các nghi lễ trọng thể thì không được mở tranh ra vì như thế các thần tướng âm binh sẽ tràn ra phá hoại. Vì vậy, cúng xong thì phải làm lễ thu hồi âm binh thần tướng trở lại trong tranh, rồi tranh được cuộn lại, cất đi.
- Thầy Tào khi già yếu không còn khả năng đi cúng thì phải làm lễ "kế nghiệp" trang trọng để trao lại tranh cúng và ấn tín cho người kế cận. Nếu không có người kế cận thì phải làm lễ đem tranh cất vào đáy hang sâu, coi như giam hãm thần tướng âm binh vào đó.
- Khi mời họa công đến vẽ
thì phải lập ra một gian riêng, biệt lập với nữ giới. Họa công còn làm các
lễ thu thần chủ của tranh cũ vào gương rồi chuyển các vị sang tranh thờ mới
vẽ xong, rồi lại trang trọng làm lễ tạ rồi mới sử dụng bộ tranh.
(theo: Tranh tho Dao Giao)
Cuộc
di cư của người Dao có lẽ không tư nguyện mà do một biến cố lớn lao nào đó ép
buộc. Vây nên tình cảm vọng cố hương là một nét ký ức thêm
vào niềm đau ly tán của dân tộc này. Trong các nghi lễ, điều đầu
tiên bao giờ người ta cũng mời tổ tiên từ phương xa (Quảng Đông tô, Quảng
Tây tô) về dự. Đặc biệt trong lể Cấp sắc (quá tăng/ kwa tang),
người Dao nhấn mạnh vai trò của tổ tiên: rằng có trải qua lễ này, người
con trai mới biết lẽ phải trái ở đời, mới đích thực là con cháu Bàn Vương, khi
chết hồn mới được đoàn tụ với tổ tiên tại châu Dương, châu Quảng.
Ẩn dụ về tổ tiên có lẽ được thể hiện rõ nhất trong bức tranh Tổ tông (zuzong / thầy bạy / ancestores), bức tranh nằm chính giữa trong bộ Hành say (Hành sư). Bộ Hành Sư gồm ba bức tranh thờ cơ bản nhất, bắt buộc phải có của thầy Tào, gồm Thái Úy (Tai Wei), Tổ tông (Zuzong) và Tiểu Hội Phan (Xiao Hai Phan).
Cần phải nhấn mạnh: "Người dao tin
rằng những thần linh tối cao của Đạo giáo sáng tạo ra thế giới và tiếp tục cai
quản thế giới này, họ quan niệm về những vị thần (đại diện) cho tổ tông từ quan
điểm của tôn giáo hơn từ là quan điểm của bộ tộc hay là từ những mối dây liên hệ
dòng tộc theo kiểu gia đình" (theo How to make universe right,
trang 72)**.
Cho nên tổ tông của người Dao là tập hợp tất cả các vị thần
theo vai trò và thứ bậc phù hợp với nhân sinh quan và vũ trụ quan của họ. Thế
giới tổ tông / thần linh của người Dao được chia làm ba bậc: Trời - Đất - Âm phủ.
Mỗi bậc lại chia nhỏ ra ba mức, ba bậc làm thành chín mức được gọi là cửu
trùng đài, trong cứu trùng đài - chính phủ này các thần
linh vận hành thế giới nhằm giữ cho nó hài hòa và cân bằng.
|
Bộ ba bức tranh thờ cơ bản của người
Dao tên gọi là Hành Sư, Bên trái là bức Thái Úy (Taiwei) đại diện cho cõi
sinh (sinh cung), bên phải là bức Tiểu Hội Phan (Xiao Hai Fan) đại diện cho
cõi tử (tử cung) ở giữa là bức Tổ Tông (Zuzong) đại diện cho cõi người.
Các bức
tranh này được trưng bày tại Bates College Museum of Art trong triễn lãm
có tên How to Make the
Universe Right: The Art of the Shaman in Vietnam and Southern China từ
24.01.2014 đến 21.03.2014. Xin xem chi tiết tại: art-of-the-shaman-from-vietnam-and-china
|
Trong
bức tranh Tổ tông, số lượng thần thánh rất nhiều và đa dạng, từ
các thượng đẳng thần như Thái Thanh, Ngọc Thanh, Thượng thanh, Ngọc
Hoàng, Tinh chủ, Trương Thiên sư và Lý Thiên sư ngự ở cõi Trời đến Thái
Tuế, Thái úy, Bắc Đẩu tinh quân ở cõi đất, ở địa phủ là Long
Phượng tam nương, Bát sứ và Thổ địa cùng Ngũ thương là năm vị thần chuyên
đi trừng phạt những người mắc tội. Thần thánh được người Dao "tin
rằng chịu trách nhiệm trong việc bệnh tật và chữa trị, trong việc thọ yểu, may
mắn, giàu có, mùa màng bội thu và hôn nhân của con dân họ" vì thế "số
phận con người có thể thay đổi nếu như biết cúng tế và thực hiện nghi lễ đúng đắn
và chính xác" (theo How to make universe right, trang
71-72).
Vết
hằn có tên là Tổ tiên trong tâm thức Dao chính là những ký ức
tôn giáo, "những tín ngưỡng cổ xưa của người Dao chưa bao giờ mất
đi, nó là phần hồn của một sắc tộc, nâng đỡ con người từ lúc chào đời đến khi về
trời, không thể thiếu" (xem PhanCam Thuong).
Tranh thờ, mũ và mặt nạ:
từ tổng thể đến sự
cá thể hóa thần thánh trong những lễ nghi.
Tranh thờ, mặt nạ và mũ là ba vật dụng tế lễ bắt buộc phải có của thầy Tào; đây là thế giới thị giác - thế giới trong hình dung được vẽ ra của người Dao; chúng là một thể thống nhất trong tương quan giữa tổng thể và chi tiết.
Nếu coi bộ Hành sư như là trung tâm, một vũ trụ thu nhỏ của người Dao trong tổng thể, thì vũ trụ này đươc chia nhỏ ra thành ba thế giới, gồm Thái Úy (đại diện cho Sinh cung), Tiểu Hội Phan (Tử cung) và Tổ Tông (Cõi hiện tồn). Hiện tồn chia ba thành tầng, đại diện cho Trời, Đất và Địa phủ. Cõi Trời lại chia ra ba cõi do ba vị giáo chủ (Tam Thanh/ Three Pure Ones) cai quản gồm Thái Thanh (To Ta), Ngọc Thanh (Yen Si) và Thượng Thanh (Leng Pu) (xem thêm: Tam Thanh).
Tương
tự, các cá thể Thái Úy (Tai Wei) và Tiền Phong (Xian
Feng/ Hsien Fong) cũng đồng thời xuất hiện trong các tổng thể là Tử cung và Sinh cung tương
ứng với chức năng chính - phụ, bổ trợ, qua lại của mình.
|
Vũ trụ của người Dao trong tương quan
tổng thể - chi tiết với các mặt nạ đầu thần
|
Điều
đặc biệt là các cá thể được tách biệt ra bên ngoài dưới hình thức những chiếc mặt
nạ (Tsien Tao/ Siền tàu) như những bức hình căn cước của từng vị thần
riêng biệt. Những mặt nạ gọi là Đầu thần (Divine
Heads) này được thầy Tào đeo trên trán; chứ không treo
trên tường như tranh; trong khi cử hành những hình thức lễ nghi.
|
3. Từ trái qua là các mặt nạ: Thái Thanh,
Ngọc Thanh, ThượngThanh (xếp theo thứ tự như trong bức Tổ Tông) và Thái Úy,
Tiền Phong.
|
Diễn
tiến cá biệt hóa tương tự cũng xảy ra với mũ (wreath/saeng ngae)
nhưng hệ quy chiếu lại là vị trí của từng bức tranh trong bộ Đại Đường gồm
14 tranh bổ trợ nhằm làm đầy đủ và rõ ràng thế giới của người Dao. Chỉ những thấy
Tào được thụ phong bảy đèn mới có quyền sở hữu một bộ tranh hoàn chỉnh gồm 17
hoặc 18 tranh cùng mặt nạ và mũ.
Mũ chỉ được thầy Tào đã thụ phong đeo trên đầu, tục lệ nghiêm cấm những người không phải thầy Tào sử dụng tại ý nghĩa linh thiêng đặc biệt của nó, do bởi họ đang đại diện cho các thượng đẳng thần ngự trong cõi trời chứng giám lễ nghi. Có hai loại mũ: mũ vuông (mũ phèng) và mũ nhọn (mũ lạy). Mũ nhọn được thiết kế hình rẽ quạt gồm 5 tới 7 cánh, hình chân dung của các vị thần được vẽ riêng lẻ trên từng cánh ở mặt trước, mặt sau được vẽ hổ phù. Bao giờ Tam Thanh cũng ngự ở giữa, Ngọc Hoàng (The Jade Emperor) và Tinh Chủ (Master of the Saint) ngự hai bên, tiếp đó Trương Thiên sư (Master Chang) và Lý Thiên Sư (Master Li) chiếm hai vị trí bìa ngoài.
Mũ chỉ được thầy Tào đã thụ phong đeo trên đầu, tục lệ nghiêm cấm những người không phải thầy Tào sử dụng tại ý nghĩa linh thiêng đặc biệt của nó, do bởi họ đang đại diện cho các thượng đẳng thần ngự trong cõi trời chứng giám lễ nghi. Có hai loại mũ: mũ vuông (mũ phèng) và mũ nhọn (mũ lạy). Mũ nhọn được thiết kế hình rẽ quạt gồm 5 tới 7 cánh, hình chân dung của các vị thần được vẽ riêng lẻ trên từng cánh ở mặt trước, mặt sau được vẽ hổ phù. Bao giờ Tam Thanh cũng ngự ở giữa, Ngọc Hoàng (The Jade Emperor) và Tinh Chủ (Master of the Saint) ngự hai bên, tiếp đó Trương Thiên sư (Master Chang) và Lý Thiên Sư (Master Li) chiếm hai vị trí bìa ngoài.
4.Từ trái qua: Lý Thiên sư, Ngọc Hoàng, Thái Thanh, Ngọc Thanh, Thượng Thanh, Tinh chủ và Trương Thiên Sư. Trên mũ nhọn 5 cánh không thể hiện Lý Thiên Sư và Trương Thiên sư.
Mũ
vuông thường được vẽ hình Tam Thanh ở mặt trước, hai mặt bên vẽ
phượng hoàng và chim hạc, mũ vuông chỉ được đội một mình chứ không đi kèm với mặt
nạ như mũ nhọn (Theo họa công Trần Trọng Âu, chuyên vẽ tranh thờ
cho Người Dao ở Hà Nội)
|
5. Mũ vuông (mặt trước và mặt hông)-
Hình chụp lại từ sách How to make the universe right (2014)
của tác giả Trian Nguyen, trang 160
|
Tranh
thờ, mặt nạ và mũ hiện diện xung quanh thầy Tào như những kết nối thị giác giữa
người thụ lễ, người hành lễ và các đấng thánh thần. Tất cả tạo thành một vũ trụ
tâm linh trực quan, đơn giản và dễ cảm nhận do những thông điệp đưa ra rất rõ
ràng trong một logic chặt chẽ.
Mặt nạ và những câu chuyện xung quanh chúng
|
6. Một bộ tranh hoàn chỉnh gồm: 1- Giỏ đựng tranh, 2- Mặt nạ, 3- Tranh cầu (long painting scroll), 4- Tranh nhỏ, 5- Tranh lớn (Hình chụp từ một bộ sưu tập tư nhân tại Hà Nội, tháng 4/2015) |
"Đầu thần không sinh ra
Mặt nạ không nguồn gốc
Đầu Thần, ai người vẽ?
Người vẽ, ai vẽ khéo?
Tại sao có Đầu Thần?
Sư phụ mời thợ vẽ
Về lưu tại tư gia
Dụng công vẽ đầu khéo
Vẽ cho đầu có mắt
Vẽ cho đẩu có tai
Vẽ cho có mũi miệng
Dẫu chẵng có thân hình
Cái đầu thuộc về Thần
Thân thể của chúng sinh
Người thế gian đeo nó
Để phụng sự thần linh
Nếu đã xong việc rồi
Thần an nơi các Điện
Nếu có việc cần mời
Trán thầy Tào Thần hiện
Mặt nạ còn được dùng
Trong Tết Nhảy tạ ơn
Và dùng trong tang lễ
Kết thúc cùng đời người
Khi nghi lễ xong rồi
Phải cất đầu thần đi
Sự trang nghiêm trân trọng
Nhớ luôn luôn giữ gìn.
Mặt nạ không nguồn gốc
Đầu Thần, ai người vẽ?
Người vẽ, ai vẽ khéo?
Tại sao có Đầu Thần?
Sư phụ mời thợ vẽ
Về lưu tại tư gia
Dụng công vẽ đầu khéo
Vẽ cho đầu có mắt
Vẽ cho đẩu có tai
Vẽ cho có mũi miệng
Dẫu chẵng có thân hình
Cái đầu thuộc về Thần
Thân thể của chúng sinh
Người thế gian đeo nó
Để phụng sự thần linh
Nếu đã xong việc rồi
Thần an nơi các Điện
Nếu có việc cần mời
Trán thầy Tào Thần hiện
Mặt nạ còn được dùng
Trong Tết Nhảy tạ ơn
Và dùng trong tang lễ
Kết thúc cùng đời người
Khi nghi lễ xong rồi
Phải cất đầu thần đi
Sự trang nghiêm trân trọng
Nhớ luôn luôn giữ gìn.
Trên đây là bản tạm dịch từ tiếng Anh của bài dân ca được lưu truyền trong dân tộc Dao nói về những điều liên quan tới mặt nạ, trích từ sách Yao Ceremonial Panting, chương 20, trang 154 của tác giả Jacque Lemoine, do White Lotus Co., Thailand. xuất bản năm 1982.
Cũng theo tác giả Jacque Lemoine, có thể có tất cả 5 cái mặt nạ (đi chung với bộ tranh thờ) miêu tả năm vị thần là Thái Thanh (To Ta), Ngọc Thanh (Yen Si),Thượng Thanh (Leng Pu), Thái Úy (Tai Wei) và Tiền Phong (Xian Feng/ Hsien Fong). Trong thực tế rất khó sưu tập đầy đủ năm bức tranh thuộc cùng một bộ, do mặt nạ bị rách nát phải được thay thế hay do một trong số chúng được đắp trên mặt và chôn cùng thầy Tào khi thầy chết.
|
7. Bốn tranh còn lại trong bộ sưu tập tại
Hà Nội gồm Thái Thanh, Thượng Thanh, Thái Úy và Tiền Phong(?)
|
Trong một đoạn khác, bài dân
ca của người Dao nói rằng:
Thái Úy bạch diện thần
Mời Ngài xuất hiện trước
Tiền Phong hồng diện thần
Mời Ngài vào theo sau
Bạch diện, hồng diện thần
Hai Thần đăng đàn trước
An tọa rồi cung nghinh
Bề trên cùng về chứng.
Thái Úy bạch diện thần
Mời Ngài xuất hiện trước
Tiền Phong hồng diện thần
Mời Ngài vào theo sau
Bạch diện, hồng diện thần
Hai Thần đăng đàn trước
An tọa rồi cung nghinh
Bề trên cùng về chứng.
|
8. Mặt nạ Thái Úy và Tiền Phong trong bộ
sưu tập của tôi
|
Chức
Thái úy là quan võ, tổng quản binh lực quốc gia. Trong Đạo Giáo, Thái Úy quản
lý thần tướng và âm binh. Tiền Phong là đồ đệ, giúp việc cho vị Thái Úy này.
Đây chính là lý do vì sao Thái úy và Tiền Phong xuất hiện trước, hai vị thần
này làm nhiệm vụ xua đổi âm binh và bảo vệ đàn lễ ngay từ đầu.
|
Mặt nạ
được dùng trong nhiều thời điểm của lễ cấp sắc, sau khi nhận mặt nạ, người thọ
sắc sẽ cầm mặt nạ trên tay để nhảy múa. Sau đó họ sẽ giắt mặt nạ trên đầu hoặc
che trước mặt cho đến khi hết buổi lễ (theo Tranh Đạo Giáo ở bắc Việt
Nam, Phan Ngọc Khuê, 2008, trang 203)
|
10. Nhảy múa trong lễ cấp sắc (Theo sách
đã dẫn)
|
Hai
thời điểm quan trọng nhất mà mặt nạ được dùng trong lễ cấp sắc là khi người thọ
sắc bước vào giấc ngủ đồng thiếp (catalepstic sleep) và lúc họ
thực hiện nghi lễ rơi ở Ngũ Đài.
|
11. Đồng thiếp trong lễ cấp sắc của người
Dao Lô Giang ở Lạng Sơn (theo sách đã dẫn)
|
"Đệ
tử được các sư phụ đánh đồng thiếp để truyền pháp lực và dẫn "hồn"
lên Thiên Cung. Sau khi tỉnh lại được coi như "tái sinh" trở thành
"người lớn"- tín đồ thực thụ của Đạo Giáo đã được thánh thần công nhận.
Khi đệ tử ngủ thiếp (như chết), dùng mặt nạ và tấu chương gởi lên Kim Loan Điện
của Ngọc Hoàng Thượng Đế, để che mặt" (theo Tranh
Đạo Giáo ở bắc Việt Nam, Phan Ngọc Khuê, 2008, trang 203)
Cũng trong ý nghĩa "tái sinh", một số ngành Dao thực hiện nghi lễ này ở Ngũ Đài (Ma đài). Ngũ Đài tượng trưng cho lưng con rồng, người thụ lễ ngồi trên Đàn nghĩa là ngồi trên lưng rồng để giáng sinh xuống trần gian.
12. Nghi
lễ ở Ma Đài, Hình bìa trái: Vừa trèo lên Ma Đài các thầy mo vừa khuyên dặn đứa
bé cách trèo núi, đi rừng. Hình giữa: Thầy mo truyền cho đứa bé lòng can đảm
trước khi vượt qua thử thách. Hình bìa phải: Rơi Ma Đài – thử thách quan trọng
và cuối cùng để đứa trẻ được thần linh, tổ tiên và bản làng công nhận là đàn
ông. (theo: http://www.sgu.edu.vn)
|
Sau
khi rơi xuống, cái võng như bào thai bọc kín người thụ lễ ở tư thế co quắp tự
nhiên của thai nhi trong bụng mẹ, hàm ý một sự tái sinh, sự khai sáng cho phần
trí tuệ để từ một con người bản năng thành con người có nhận thức. Đây là mốc
quan trọng, bởi sau mốc này người thanh niên Dao được công nhận trưởng thành,
có thể làm thầy cúng và có thể học hỏi thêm để trở thành thầy có chức sắc cao
hơn, qua việc được thụ phong các lễ cấp sắc bảy đèn hay mười hai đèn sau đó.
Những thầy Tào theo Đạo Giáo chính thống chỉ dùng khoảng 4-5 cái mặt nạ đi kèm theo bộ tranh thờ trong các nghi lễ***. Công năng của mặt nạ trong những nghi lễ này thiên về ý nghĩa biểu tượng hơn là ý nghĩa đại diện.
Tác giả Jacque
Lemoine cho rằng "sự biện minh cho việc dùng mặt nạ trong
các nghi lễ là (rằng): "người ta phải đeo mặt nạ của thần để gặp các vị thần
của mình và để phụng sự các đấng tối cao". Nói cách khác, con người chỉ có
thể gần gũi với thánh thần khi họ mang khuôn mặt đặc thù và quen thuộc (với thần
thánh), vì thế sử dụng mặt nạ như một chỉ dấu về một mối liên hệ thân tình nhất
định nào đó với thần thánh" (trang 154).
Lập luận này giải thích rất hợp
lý cho phần lớn các trường hợp người Dao dùng mặt nạ hiện nay, họ chỉ sử dụng mặt
nạ Thái Úy và Tiền Phong trong sự phân biệt giữa thần mặt đỏ và thần mặt trắng
một cách đơn giản, mặt nạ là phương tiện có tính biểu tượng nhằm giúp họ đến được
với thánh thần.
Phía sau mặt nạ và những câu chuyện còn lại
Thầy Tào là thành phần có học thức trong cộng đồng, được học tiếng Hoa và chữ nôm Dao để hiểu và thực hành nghi lễ. Đây có lẽ là lý do tại sao tranh thờ thường có phần ghi lại nguồn gốc, xuất xứ, người sở hữu, tên họa công... một cách rõ ràng. Mặt nạ cũng vậy, thường phía trước ghi thụy hiệu của vị thần và mặt sau ghi tên người sở hữu. Cũng nhờ đặc điểm này mà người sưu tập có thể biết được các tranh có cùng bộ với nhau không.
|
13. Mặt trước và sau của một mặt nạ trong
bộ sưu tập của tôi: mặt trước ghi tên thần, mặt sau ghi tên thần và người sở
hữu.
|
Có
những bộ mặt nạ không do cùng một người vẽ, điều này cũng dễ hiểu bởi sự hiện
diện đầy đủ của thần linh trong bộ tranh thờ quan trọng hơn là ai làm nên bộ
tranh thờ đó. Mặt nạ sau khi được khai quang đã trở thành linh hồn của thần
linh và thoát ra ngoài ý nghĩa vật chất của nó.
|
14. Nội dung phía sau của hai mặt nạ này
trong bộ sưu tập của tôi cho biết chúng được cùng một người
|
Cách
đối xử với linh vật thể hiện sự thịnh suy của một tôn giáo. Dường như vầng hào
quang thần thánh của tranh thờ và mặt nạ của người Dao đang tàn lụi. Sự tàn lụi
do ngu muội và lòng tham của con người. Bối cảnh chính trị của những cuộc
"cách mạng" văn hóa khùng điên tại Trung Quốc và Việt Nam thế kỷ trước
đã bức tử rất nhiều những tác phẩm tranh thờ cổ. Rồi sự phát hiện dòng tranh
này dưới nhãn quan của người phương Tây lại đẩy người ta tới một cuộc tận diệt
có tên là "sưu tập / collection". Tâm linh không thắng nổi kim tiền
là một thực tế đắng lòng luôn gõ của những bộ tranh thở cổ xưa còn lại. Các thầy
Tào ngậm ngùi chia tay thần linh cố cựu của mình, để đổi lấy một khoản tiền lớn
cùng một bộ tranh thờ mới có chất lượng thẩm mỹ nhạt nhòa. Lòng tham từ cả hai
phía đang đang làm muc ruỗng những giá trị độc đáo của loại tài sản đặc biệt
này. Bây giờ người ta có thể thấy cả tranh thờ và mặt nạ được in offset, những
phiên bản được làm ra hàng loạt và có lẽ disposable (sử dụng một lần). Liệu còn
thần linh nào cư ngụ trong chúng chăng?
|
15. Một bộ tranh thờ được treo trong nhà
hàng Vân Nam tại Trung tâm Thượng Hải
(tháng 04/2015)
|
Cho
dẫu những đổi thay xấu hay tốt, tôi vẫn yêu cái cách người Dao sử dụng tranh thờ
và mặt nạ. Họ lưu giữ, rồi bày ra ký ức bằng những thủ pháp đồng hiện: cả thế
giới truyền đời của họ hiện ra cùng thực tại, sống cùng con cháu, để dạy con
cháu họ những câu chuyện cổ xưa trong những nghi lễ truyền thống. Rồi tất cả chấm
dứt, con cháu lại trở về với cuộc sống thường nhật. Những bức tranh được cuộn lại,
cuộn lại những ký ức truyền thừa. Cuộn lại để giữ gìn có lẽ là mong mỏi lớn lao
nhất mà những đấng thần linh trông chờ ở con dân họ.
Chú thích:
(*):
Thầy cúng của các dân tộc miền núi phía Bắc. Trong đó thầy tào là khái niệm của
người Dao, thầy then là của dân tộc Tày, Nùng. Thầy mo là của người Mường (then
và mo đều có nghĩa là trời). Ba loại thầy này không phân cao thấp, vì hoàn toàn
của ba dân tộc khác nhau. Tín ngưỡng của người Dao, người Tày, Nùng, người Cao
Lan, Sán Chỉ... chịu ảnh hưởng của Đạo giáo từ Trung Quốc, sau có pha trộn đạo
Phật chút ít và tất nhiên mang màu sắc dân tộc và địa phương. Trong quá trình
tín ngưỡng, các sắc tộc Tày, Nùng, Dao, Cao Lan, Sán Chỉ... có ảnh hưởng lẫn
nhau và đôi khi, gọi là thầy cúng, thầy then, thầy tào, ông thầy, bà thầy, thậm
chí gọi là thầy mo người ta cũng chấp nhận.
(**) Xem thêm Kết cấu gia đình tâm linh của người Dao đỏ Phú thọ để hiểu quan niệm về con cái và huyết thống của người Dao Tiền:
"Các thành
viên trong gia đình được kết cấu bền chặt với nhau không vì huyết thống mà vì
tâm linh. Hỏi một anh chồng về đứa con do vợ anh ta nằm với người đàn ông khác
đẻ ra thì anh ta nói: vợ ta là ma nhà ta thì nó phải đẻ
ra con ta chứ. Người Dao Tiền vốn quý con người. Mọi đứa con của
mình dù là con do vợ ngoại tình, con nuôi, con mày họ đều quý như con đẻ. Miễn
là chúng đã được cúng ma, nhập hộ khẩu làm ma nhà
mình.
Trẻ con đàn ông từ chín tuổi đổ lên đều phải qua lễ cấp sắc, hay lập tịnh,
ta quen gọi là lễ lập tĩnh để đứa bé trở thành người trưởng thành, có địa vị tư
cách với họ mạc, cộng đồng. Sau lễ cấp sắc chúng mới chính thức được công nhận
là con cháu của Bàn Vương (tổ tiên của người Dao theo quan niệm tô tem giáo). Đứa
con nuôi gia đình người Dao chỉ gắn bó thân thiết với gia đình cha mẹ nuôi vì
chúng là ma một nhà với họ. Lớn lên dù biết cha mẹ đẻ nhưng
khác ma nên chúng không bao giờ gần gũi nhau thân mật với nhau. Thậm chí vì sợ
ma nhà mình quở phạt nên chúng cố ý tránh mặt, không muốn gặp gỡ họ.
(***) Theo tác giả Jess. G. Pourret trong The Yao - The Mien and Mun Yao in China, Viet nam, Laos and Thailand (River book 2002). Những thầy Tào (Dao Gong / Master of the Tao) chỉ thực hiện nghi lễ Đạo giáo trong khi những thầy Mo (Shi Gong) thực nhiều nghi lễ liên quan tới cuộc sống ngày thường mang tính chất địa phương, cùng với số lượng thần linh đa dạng hơn nhiều. Thầy mo thực hiện nghi lễ của họ bằng cảm tính do hiểu rõ cộng đồng hơn là qua sư học tập từ việc thấu hiểu tiếng Trung Quốc như thầy Tào.
Trong cộng đồng Mien Yao chỉ có
thầy Tào (Dao Gong) trong khi cả Dao Gong và Shi Gong đều tồn tại trong cộng đồng
Mun Yao. Đây là lý do tại sao tranh thờ của người Mun Yao đa dạng hơn và đặc biệt
số lượng mặt nạ của họ nhiều hơn hẳn, khoảng chừng 25 cái đại diện cho rất
nhiều loại thần linh.
Posted
by Hoang Thong
rat hay
Trả lờiXóaChào bác ạ, em có thể trích dẫn bài viết của bác trong sách của em về tranh dân gian của người Dao được không ạ
Trả lờiXóaTác giả là Ông Hoàng Thông, em nhé.
Xóa