Mục-kiền-liên (sinh khoảng năm 568 - mất khoảng năm 484 TCN ở nước Magadha,
nay thuộc miền Bắc Ấn Độ) là một vị Tỳ-kheo của Phật giáo trong thời kỳ Phật
Thích-ca Mâu-ni tại thế. Cùng với tôn giả Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên
là một trong 2 đệ tử hàng đầu của Phật Thích-ca và được Đức Phật giao trọng
trách Thống Lĩnh Tăng Đoàn sau khi Ngài chứng A
La Hán, quả vị cuối cùng trong Tứ Thánh
Quả. Ông đã đắc quả A-la-hán và trở nên nổi tiếng là bậc "Thần thông đệ nhất"
trong hành Thanh văn đệ tử của Đức Phật.
Trên bước đường cầu đạo, ông cùng Xá-lợi-phất đã thỉnh
giáo nhiều đạo sĩ cao nhân, tiếp thu nhiều tư tưởng triết học khác nhau. Một số
chủ trương hẳn thuyết Vô Ðạo Ðức (đạo đức là sự vô ích) một số khác đề cao
thuyết Ðịnh Mệnh, và một số khác truyền bá tư tưởng Duy vật. Tuy nhiên, cả
hai đều tìm ra những khiếm khuyết của các giáo thuyết, vì vậy không để tâm
nghiên cứu và tiếp tục tìm kiếm.
Vào khi cả Mục-kiền-liên và Xá-lợi-phất đã khoảng bốn
mươi tuổi, bấy giờ, Phật Thích-ca Mâu-ni vừa cho phép đoàn đệ tử đầu
tiên gồm 60 người, đều là những người biết nhiều hiểu rộng, khai môn thực hiện
việc truyền bá giáo lý trong dân chúng. Riêng Đức Phật thì
đích thân đến thành Vương Xá để tiếp độ vị vua nước Ma-kiệt-đà tên
là Tần-bà-sa-la (Bimbisara) và nhận lãnh ngôi Tịnh xá Trúc Lâm do vua
dâng cúng.
Khi Phật đang có mặt tại ngôi chùa này thì Mục-kiền-liên và
Xá-lợi-phất vừa quay về thành Vương Xá, tạm thời ngụ trong viện của Đạo sĩ
Sànjaya. Một lần khi ra phố, Xá-lợi-phất vô tình gặp gỡ với Trưởng
lão A-thuyết-thị một trong những vị đệ tử đầu tiên của
Phật Thích Ca. Được Assaji khai ngộ về khái niệm Tứ diệu đế,
Xá-lợi-phất liền đắc Pháp nhãn trong tâm thức chứng quả Nhập Lưu, Tu Ðà Hườn.
Sau khi về nơi trọ, ông thuật lại cho Mục-kiền-liên nghe.
Cũng như Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên nhanh chóng giác ngộ con
đường đạo mà ông tìm kiếm bấy lâu nay. Từ đó, hai ông kiên định con đường đạo,
gia nhập Tăng đoàn và trở thành một trong những Thánh nhân nổi tiếng bật nhất
được ghi nhận trong Lịch sử Phật giáo.
Theo
các ghi chép Phật giáo, Mục-kiền-liên nhập diệt nửa tháng sau Xá-lợi-phất,
tức là vào ngày mồng 1 sau tháng Kattika theo lịch cổ Ấn Độ (khoảng
giữa tháng 10 Dương lịch).
Cái
chết của Mục-kiền-liên được diễn tả trong Trung bộ kinh (Majjhima
Nikàya) của Phật giáo Nam tông như sau:
” Lúc ấy Nàthaputta, Giáo chủ đạo
Jaina mà trong kinh điển Pàli gọi là Niganthasàsana (Ni kiền giáo) cũng
vừa qua đời.
Có sự tranh luận, xét lại giáo lý của Nàthaputta bỗng xuất hiện
trong hàng ngũ những đạo sĩ tu theo tôn
giáo này. Kết quả đạo
Jaina đã bị mất một số tín đồ và cảm tình viên khá đông, khiến cho các đạo
sĩ cầm đầu đâm ra tức giận.
Nhiều sư trưởng đạo Jaina còn nghe đồn rằng: Ðại đức Mục
Kiền Liên, sau những chuyến Thiên du (lên trời thuyết pháp rồi trở về) đã tiết
lộ rằng: Hầu hết tín đồ Phật giáo đều được sanh lên cõi trên, nhưng
rất hiếm những kẻ tu theo đạo khác được hưởng hạnh phúc ấy. Trái lại, họ còn bị
đoạ vào cảnh khổ và tái sinh thành nhiều sinh vật thấp hơn loài người. Ðây có
lẽ là tin đồn thất thiệt, nhưng là một trong những lý do khiến cho các đạo
khác, kể cả đạo Jaina bị sút giảm hậu thuẫn. Ðặc biệt, một chi giáo cuồng tín
của đạo Jaina ở vương quốc Magadha đã trở nên giận dữ trước sự mất
danh tiếng càng lúc càng trầm trọng ấy, nên họ chủ tâm tiêu diệt Ðại đức Mục
Kiền Liên.
Những đạo sĩ cuồng tín đạo Jaina ấy không chịu điều tra rõ
nguyên nhân suy đồi của tôn giáo mình. Họ chỉ biết âm mưu phỉ báng và trút hết
lên đầu Ðại đức Mục Kiền Liên. Nhiều lần họ mưu tâm ám sát vị Thánh Tăng ấy nữa
nhưng đều thất bại. Về sau, họ phải mướn bọn cướp làm việc đó.
Thuở bấy giờ cũng có bọn chuyên đâm thuê chém mướn, sẵn sàng
sát nhân, nếu được trả nhiều tiền như ngày nay. Họ là những kẻ vô cùng tham lam
và hung bạo. Ðối với họ chỉ có tiền là "cao quý" nhất, nên họ bất
chấp việc giết người nào, dù cho nạn nhân là một vị Thánh Tăng! Do đó, một số
đạo sĩ cuồng tín đạo Jaina liền tìm mướn họ đi giết Ðại đức Mục Kiền Liên.
Khi ấy, Mục Kiền Liên đang ẩn tu một mình trong tịnh cốc
vắng, ven rừng Kàlasikà, thuộc vương quốc Magadha. Sau khi đã cảm thắng Quỷ Mẩ
(đã thuật trong đoạn trước của kinh) Mục Kiền Liên biết rằng "đoạn chót
của đời mình" sắp đến. Một vị Thánh Tăng khi đã được hưởng "hương
vị" giải thoát hằng thấy rằng "xác thân phàm tục này chỉ là một
chướng ngại hay một gánh nặng mà thôi!"
Do đó, Mục Kiền Liên đã không một chút mảy may nghĩ đến việc
dùng thần thông để được sống trường thọ. Ngược lại, khi Mục Kiền Liên thấy bọn
cướp giết mướn lại gần, Ngài chỉ nghĩ "Ta không nỡ để cho các kẻ ấy phạm
trọng tội!". Thế là toàn thân Ngài tự nhiên biến mất (do thần thông của
một cao thủ A La Hán đầy lòng từ bi phát tác, chứ không phải do sự sợ sệt hay
lòng tham sống mà ra).
Bọn sát nhân (có sách gọi là bọn cướp) xông vào tịnh cốc,
không tìm thấy một ai, chúng lục lạo khắp nơi, nhưng vẫn vô hiệu, bèn thất vọng
ra về. Ngày hôm sau, chúng trở lại, và cũng rơi vào tình trạng như cũ. Nghĩa là
từ xa chúng thấy Ðại đức Mahà Moggallàna thấp thoáng, nhưng khi đến gần, chẳng
tìm ra Ðại đức đâu cả, mặc dù càng lúc chúng càng kéo đồng bọn đông hơn và lục
soát kỹ hơn. Chúng cũng khôn ngoan cho bộ hạ mai phục, rình rập xung quanh tịnh
cốc để phát giác sự xuất hiện của Ðại đức Mục Kiền Liên, rồi vẫn không có kết
quả. Sau ngày liên tiếp như thế, sáu lần bọn cướp xông vào hãm hại Mục Kiền
Liên, và sáu lần Mục Kiền Liên vì lòng từ bi, chỉ một niệm "không muốn kẻ
ngu muội phạm trọng tội" thân thể Ngài đã biến mất một cách như nhau.
Ðộng lực của thần thông vốn không phải là để bảo vệ xác thân
ô trược này, mà để cứu độ những tâm hồn hung bạo. Nhưng tiếc thay thần thông ấy
của một vị Ðại Tôn túc A La Hán đã không cảnh tỉnh được bọn người tội lỗi, nên
qua ngày thứ bảy, Ðại đức Mục Kiền Liên đã quán xét bằng Tha tâm thông, thấy
rằng "bọn cướp vì tham tiền quá độ sẽ không bao giờ từ bỏ hành động sát
nhân ấy".
Trong khi Ðại đức Mục Kiền Liên sử dụng Tha tâm thông như
thế, thì "Di Thần" Thần Công của Ngài tự nhiên biến mất, xác thịt Ngài
bất thần hiện lại như cũ, ngồi yên trong tịnh cốc.
Thì ra ác quả một hành động tội lỗi xa xưa (khi tiền kiếp
nọ, Mục Kiền Liên vì sợ vợ, đã nhu nhược đem cha mẹ bỏ vào rừng hoang, đói khát
cho đến chết) nay ác quả đang đuổi kịp. Ðại đức Mahà Mục Kiền Liên phải trả
xong ác quả ấy thì công hạnh mới hoàn toàn! Giống như đức
Phật và Xá-lợi-phất, trước khi nhập Niết Bàn đã trải qua
một cơn bệnh vậy!
Bọn sát nhân tiến vào tịnh cốc thấy vị Thánh Tăng hiền hoà
ngồi đó, liền đâm chết rồi muốn chắc ăn chúng bầm nát tay chân, biến người
thành một khối thịt vụn bất động.
Khi biết chắc nạn nhân chỉ còn là một thây ma, không cách
nào sống lại, và phe mình sắp được lãnh tiền trả công, bọn sát nhân ung dung bỏ
đi không thèm quay lại.
Nhưng Ðại đức Mục Kiền Liên là một Thánh Tăng đại cao thủ
thần thông, người không thể nhập Niết Bàn trong tình trạng như thế. Mục Kiền
Liên trong khi bị đâm chém đã hoàn toàn nhập định, nên mọi đau đớn không chi
phối được Ngài. Bây giờ, Ngài chỉ vận dụng thiền lực tập trung sức mạnh tinh thần
điều hợp với thể chất, rồi tái hiện thành một Sa Môn như cũ. Mục Kiền Liên cố
gắng đem tấm xương thịt đầy thương tích đến yết kiến đức Phật lần chót, khi
hiện diện trước mặt Đức Phật, rồi ngồi yên, nhắm mắt lìa đời, biến địa điểm gặp
gỡ lần cuối của Ngài và đức Phật thành một khung cảnh vô cùng ảm đạm và thánh
thiện.”
Theo công trình "Pháp Cú Sớ Giải" của Phật Âm (Buddhaghoṣa)
– một nhà lý luận Phật giáo Nam Tông thế kỷ thứ 5, vua xứ Ma-kiệt-đà là A-xà-thế sau
khi nghe tin Mục-kiền-liên tử nạn đã huy động quân lính truy lùng, bắt giữ nhóm
cướp sát hại vị A-la-hán và các đạo sĩ chủ mưu. Toàn bộ số phạm nhân này đều bị
thiêu sống.
Theo truyền thuyết Phật giáo Bắc Tông, Mục-kiền-liên được
cho là đã tu luyện thành công nhiều phép thần thông qua đó biết mẹ mình đang
lâm kiếp ngạ
quỷ; ông hỏi Phật tổ về
cách cứu mẹ.
Bát cơm hóa thành lửa than. Mục Kiền Liên cùng bà Thanh Đề, vẽ trên giấy gió |
Phật dạy rằng:
“Dù ông thần thông quảng đại đến đâu cũng không đủ sức cứu mẹ ông đâu. Chỉ có một cách nhờ hợp lực của chư tăng khắp mười phương mới mong giải cứu được. Ngày rằm tháng bảy là ngày thích hợp để vận động chư tăng, hãy sắm sửa lễ cúng vào ngày đó”
Theo lời Phật, mẹ ngài được giải thoát. Phật cũng dạy rằng
chúng sanh ai muốn báo hiếu cho cha mẹ cũng theo cách này (Vu Lan Bồn Pháp). Từ
đó ngày lễ Vu Lan ra
đời
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét