Ma
ha ca diếp còn
gọi là Tôn giả Ca Diếp hay Đại Ca Diếp là một
người Bà la môn xứ Ma Kiệt Đà, cha tên Ẩm Trạch, mẹ tên Hương Chí.
ông là một trong thập đại đệ tử của Tất đạt đa Cồ đàm và là
người tổ chức và chỉ đạo đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ
nhất. Ma ha ca diếp nổi tiếng có hạnh Ðầu đà (tu khổ hạnh)
nghiêm túc nhất và là người đứng đầu Tăng già sau khi Tất đạt đa Cồ
đàm mất.
Ma-ha-ca-diếp
là sơ tổ của Thiền tông Ấn Ðộ, được đứcTất đạt đa Cồ đàm truyền tâm
ấn. Trong tranh tượng, Ma-ha-ca-diếp cùng với A-nan-đà thường được
thể hiện đứng hai bên Tất đạt đa Cồ đàm.
Theo
tư liệu, Ma-ha-ca-diếp sinh năm 616 TCN. Ông gia nhập Phật giáo năm 30 tuổi -
lúc đó Tất-đạt-đa Cồ-đàm đã đắc đạo được 3 năm (38 tuổi, năm 586 TCN). Chỉ 8
ngày sau, ông đạt quả A la hán. Ông kế tục Tất đạt đa Cồ đàm quản lý tăng
chúng cho đến năm 525 TCN thì truyền lại cho A-nan. Lúc đó ông đã rất già (có
lẽ khoảng 90 - 100 tuổi). Ông mất năm 496 TCN, thọ 120 tuổi, chôn cất tại
Gurupada giri.
Về nguồn gốc gia tộc thì Tôn giả Ca Diếp, cũng như
hai đại tôn giả là ngài Xá Lợi Phất (Sàrìputta) và ngài Mục Kiền Liên
(Moggallàna) của Đức Phật. Ông xuất thân từ giai cấp Bà-la-môn (Brahamin). Ông
sinh ra trong xứ Ma Kiệt Ðà (Magadha), tại một làng gọi là Mahàtittha (tạm dịch
là làng Giao Lưu, nghĩa là nơi đó là ngã tư của các trục giao thông, dân chúng
tứ phương có thể qua lại thường xuyên bằng đường bộ lần đường thủy).
Ông là con của đại bá hộ Bà-la-môn tên Kapila, và thân mẫu là bà
Sumanadevì. Khi sinh ra, ông được đặt tên là Pipphali (tạm dịch là Thường Tịnh)
vì tính khí luôn luôn yên tĩnh ngay từ lúc lọt lòng mẹ của ông. Và thân phụ ông
có thể xem như một vị tiểu vương, vì làm chủ một lãnh thổ bao trùm đến mười sáu
ngôi làng. Chính vì sinh ra trong một gia đình giàu có, Đại Ca Diếp rất được
cha mẹ cưng chiều. Khi Đại Ca Diếp lên tám, theo luật lệ của Bà la môn, cậu bé
được người cha giàu có của mình mời danh sư về nhà dạy học. Với trí thông minh
thiên bẩm, Đại Ca Diếp tiếp thu các môn học rất nhanh và môn nào cũng rất giỏi.
Có điều, ngay từ khi còn rất nhỏ, Đại Ca Diếp đã tỏ ra rất khác so với
những đứa trẻ đồng trang lứa, không thích các trò hoan lạc, ghét những chỗ ồn
ào và thường chỉ muốn ở một mình. Và sự khác biệt ấy bộc lộ đến cực điểm khi Đại
Ca Diếp đến tuổi thành thân.
Trước khi xuất gia
Khi thấy Đại Ca Diếp đã lớn khôn, trở thành một thanh niên tuấn
tú, cha mẹ gọi Đại Ca Diếp đến và nói rằng, ông đã đến tuổi kết hôn và cha mẹ
ông sẽ chọn cho ông một cô gái thật xinh đẹp, thùy mị nết na về làm vợ. Nhưng
ngay khi nghe đến chuyện lấy vợ, Đại Ca Diếp đã vội vã xua tay nói: “Thưa cha
mẹ, con muốn sống một mình để được phụng dưỡng cha mẹ. Và nếu được cha mẹ cho
phép con chỉ muốn xuất gia đi tu mà thôi. Nếu như lấy vợ thì sự tu hành của con
sẽ không thành”.
Lúc đầu để không phải kết hôn Đại Ca Diếp đã đưa ra các tiêu
chuẩn khắt khe và tạc ra bức chân dung một người phụ nữ thật đẹp, nhưng không
ngờ rằng với bức tượng đó, cha mẹ ông đã tìm được cô gái ấy và ông buộc phải
thành thân. Tên nàng là Bhaddà Kàpilànì có thể tạm dịch là Mỹ
Hạnh! (Vì Bhaddà có nghĩa là may mắn, hữu hạnh, còn chữ Kàpilànì ám chỉ một màu
sắc thâm trầm giống như màu thẩm chu).
Nhưng một điều trùng hợp lạ lùng, là nàng Bhaddà Kàpilànì (Mỹ
Hạnh) cũng không muốn lấy chồng. Nàng chỉ ước ao được xuất gia, sống đời sống
phạm hạnh của một nữ đạo sĩ. Vì thế, 2 người tuy mang danh nghĩa là vợ chồng
nhưng chỉ xem nhau là bạn, 2 vị sống chung với nhau như thế cho đến ngày xuất
gia cầu đạo.
Xuất gia theo Phật
Năm ấy, Đại Ca Diếp đã trên ba mươi tuổi. Người ta nói rằng,
ngày ngài rời nhà tìm thầy học cũng là ngày Đức Phật Bổn Sư Thích Ca
Mâu Ni thành đạo nơi gốc cây bồ đề. Đại Ca Diếp đi nhiều nơi, học qua
nhiều thầy nhưng vẫn chưa tìm được thầy ưng ý. Cho tới một hôm, ông nghe có
người mách Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni mới thực sự là bậc đại giác ngộ hiện
thời.
Nghe theo lời đồn đại, Đại Ca Diếp tìm đến đạo tràng Trúc Lâm
(Venuvana) nơi Phật Thích Ca cùng các đệ tử đang mở đạo tràng giảng về Phật
pháp. Ban đầu, Đại Ca Diếp không đến gặp Đức Phật ngay mà chỉ đi theo những
người mộ đạo đến nghe giảng để thử xem có thực Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni
là một thầy giỏi như lời đồn hay không. Cho tới một hôm, sau khi đến nghe giảng
về, giữa đường, Đại Ca Diếp nhìn thấy Đức Phật Thích Ca ngồi dưới một tán cây
cổ thụ.
Tự nhiên, Đại Ca Diếp thấy có một sức hút kỳ lạ, ông vội quỳ
xuống xin bái Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni làm thầy. Phật Thích Ca lúc này
mới nói: “Như Lai nghe nói về ông đã lâu. Như Lai biết rằng, rồi đây thế nào
ông cũng đến đây xin theo Như Lai tu học, và hôm nay chính là ngày ông được mãn
nguyện. Sự lưu truyền Phật pháp trong tương lai sẽ cần tới ông rất nhiều”.
Ma-ha-ca-diếp -chùa Tây Phương |
Chứng quả vị A la hán
Sau 7 ngày đến ngày thứ 8 từ khi gia nhập đạo Phật, Ma
ha ca diếp đắc quả A la hán, một phẩm Thánh cao nhất, đã giải
thoát ông khỏi mọi phiền não thô thiển lẫn vi tế.
Rồi một thời gian khá lâu sau nầy, nhân trong một cuộc nói
chuyện với A Nan Ðà, Ma ha ca diếp đã thuật lại giai đoạn
"vỡ lòng" tu Phật của ông như sau:
"Bảy ngày đầu, bần đạo thọ dụng sự cúng dường của chư tín
thí mà thân tâm chưa được giải thoát. Nhưng qua ngày thứ tám, Thánh quả A
la hán đã hiện hữu trong tâm!"
Nhập diệt
Mới ngày nào mà Đức Phật nhập diệt đã trên hai mươi năm. Càng
nghĩ, Đại Ca Diếp càng nhớ lại ân sâu như trời biển của Đức Thế Tôn đã vì đời
sau mà lưu truyền đại pháp. Lúc bấy giờ Đại Ca Diếp đã ngoài trăm tuổi, tuy trí
tuệ sáng suốt nhưng sắc thân tứ đại thì mỏi mòn theo năm tháng. Ngài biết không
còn bao lâu nữa thì sẽ nhập diệt nên cố gắng củng cố tăng đoàn và phú chúc cho
người thừa kế để khỏi phụ lòng của Đức Phật. Ngài liền đến nơi A Nan đang hoằng
pháp, phó chúc pháp tạng và yêu cầu A Nan tiếp nối sứ mạng lãnh đạo tăng đoàn.
Đây là một trách nhiệm rất quan trọng cho sự hưng thịnh của Phật giáo ngày sau
nên ngoài A Nan ra không ai có thể đảm đương nổi. Lúc đó ông đã rất già (có lẽ
khoảng 90 - 100 tuổi).
Ông mất năm 496 TCN, thọ 120 tuổi, chôn cất tại Gurupada giri.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét