Thứ Năm, 3 tháng 10, 2019

nưk lơi nưk đih . . . thơ lục bát chàm




VÕ PHIẾN
nưk lơi nưk đih . . .
thơ lục bát chàm

tản mạn

                 Có nhà phê bình lấy làm lạ: Trong văn học Việt Nam, việc tiếc thương dân tộc Chàm tàn lụi lại dành cho một cậu bé con. Tập “Điêu Tàn”  được xuất bản năm tác giả mười bảy tuổi : vậy những bài thơ đầu tiên Chế Lan Viên viết ra từ năm mười hai, mười ba tuổi chăng ?
                  Thực ra chuyện không đáng lạ. Ở Bình Định quê tôi, Chàm là một dân tộc đã chết, một dân tộc ma. Mà thế giới ma quái kích thích nhất trí tưởng tượng của các cậu bé: lớn lên, Chế Lan Viên không hay nhắc nhở về Chiêm quốc nữa.

bản trên báo Khởi Hành, ký tên Võ Phiến, ở Sài Gòn trước 1975

                   Nơi Đồ bàn đô cũ, người Chàm còn để lại những di tích và nhiều huyền thoại: những ngọn tháp và nhiều câu chuyện  huyền hoặc về vàng Hời, ma Hời v.v.. lưu truyền trong dân chúng:
         Chế Lan Viên tưởng tượng:
          “Muôn ma Hời sờ soạng dắt nhau đi"
 Hời đã là ma, lại là thứ ma kỳ quái : trong đên khuya, nghe tiếng trống cầm canh, mà Hời nhớ lại cảnh dương gian
            “ Rồi lấy ra một khớp xương rợn trắng
               Nút bao dàng huyết đẵm khí tanh hôi
               Tìm những miếng trần gian trong tủy cạn
                Rồi say xưa vang cất tiếng reo cười “
     Ở Bình định, tôi lớn lên giữa những chuyện hoang đường về một dân tộc ma; vào Bình thuận, gặp một dân tộc sống. Và tôi ngạc nhiên về những người bạn Chàm
       Về những câu thơ mà các người bạn ấy vẫn ngâm nga chẳng hạn.
        Anh M.K.H đọc nghe bài hát ru con :
                “ Nư lơi nư đí ca hoanh,
                   Kla mông pat băc pụ pành ten me.
                   Nư lơi nư ranh đi me,
                   Nư hia nư chó ngá kề hưở nư.”
          Biết qua tài liệu, qua sách vở, rằng người Mường, người Chàm có những điệu thơ giống ta, đó là một chuyện. Còn như một hôm, bỗng có dịp bắt gặp điệu thơ lục bát phát ra bằng ngoại ngữ, do một người đang đối diện, quả là một chuyện khác hẳn. Cảm tưởng bỡ ngỡ, bàng hoàng.
           Điệu thơ lục bát phôi thai từ bao giờ ? Đôi ba nghìn năm trước chăng ? Từ thời đại Hùng Vương dựng nước chăng? Từ khi mới có tiếng nói chăng? Con người thích ngêu ngao sớm lắm. Mà người Việt nam chúng ta, đã ngêu ngao là ngêu ngao theo câu lục bát : mấy nghìn điệu dân ca chẳng qua đều quanh quẩn bên câu thơ lục bát. Âm điệu lục bát dính liền với lối cảm xúc của dân tộc trải từ kiếp nọ đến đời kia . . .
              Câu thơ lục bát chắc hẳn phải được kể là một tronng những biểu lộ cá tính thấm thiết nhất của dân tộc Việt Nam : thơ ấy khác hẳn với thơ Tàu, và nhất mực từ chối mọi ảnh hưởng Tàu trải qua mấy nghìn năm gần gũi. Dễ gì tìm thấy một hình thức nghệ thuật khác giữ được bản sắc vững vàng như nó trước sự tấn công trường kỳ của văn hóa Tàu ? Vậy, lục bát là cái gì hết sức thâm thúy đối với tâm hồn Việt nam.
                 Và, lạ lùng thay, điệu lục bát lại cũng thâm thúy đối với dân tộc Chàm !
                  Một thể thơ phổ biến khắp hang cùng ngõ hẻm, đã được mọi tầng lớp dân gian ngâm nga, đã làm cơ sở cho các điệu dân ca v.v. . .một thể thơ như thế nhưng thể được vay mượn, không thể du nhập từ ngoài vào. Nó phải bắt nguồn từ đầu ngay trong cuộc sống dân tộc. Do đó, giữa câu thơ Việt và câu thơ Chàm hẳn nhưng phải có tương quan ảnh hưởng, mà có mối tương quan về nguồn gốc.
                  Nguồn gốc của câu lục bát ? Các nhà khảo cứu văn học nãn lòng trước sự khó khăn xa xôi ấy. Nó thuộc về một thời mờ mịt, tít tắp, mơ hồ. . .Nào ngờ, một hôm, một buổi chiều, trước tách nước mời khách, bỗng dưng bắt gặp một chứng cứ liên quan đến nguồn gốc ấy từ cửa miệng một người vừa bập điếu thuốc vừa nói, một người ngồi trước mặt ta. Bạn cũ cố tri, gốc gác thân thiết từ mấy nghìn năm của câu lục bát Việt nam là đây !
                 Mấy câu thơ trên là tôi phiên âm theo tai nghe. Anh M.K.H viết: Nưk lơi nưk đih ka vành nhưng việc la mã hóa tiếng Chàm chưa thống nhất, tôi chọn lối ghi đại khái, chỉ cốt làm dễ dàng cho độc giả.
   Võ Phiến

Bài “Thơ Lục Bát Chàm” của nhà văn Võ Phiến , đã đăng trên tuần báo Khởi Hành do nhà văn, nhà thơ Viên Linh chủ biên ở Sài Gòn  trước năm 1975.  Không rõ số báo và ngày tháng phát hành, vì sau 30/4/75 bài báo được cắt ra  và lưu, giấu đến hôm nay. Trong các tập tùy bút của nhà văn Võ Phiến  đã in ở Sài Gòn trước 75 không rõ bài nầy có in vào các tập đó hay chưa ?    
Bài viết trên khi in vào tập tùy bút Đất Nước Quê Hương , ông Võ Phiến đã bỏ mấy tiếng Chàm phiên âm ở đầu bài báo do nhà xuất bản Lửa Thiêng  in năm 1973
 Mới đây , trong tháng 6-2012, hai Nhà xuất bản Nhã Nam và Thời Đại đã in lại tạp Đất Nước Quê Hương, nhưng với tựa sách mới : Quê Hương Tôi, và tên tác giả sách không ghi là Võ Phiến mà là Tràng Thiên, dù hai bút hiệu nầy đều của Ông Đoàn Thế Nhơn.
Trong cuốn Quê Hương Tôi, in ở Việt Nam tháng 6-2012,  có  mấy điểm khác như sau:
- Bìa sách ở VN không có hàng chữ ' vinabook.com '
-  Bài Tựa của Nguyễn Hiến Lê bị cắt toàn diện
- Bài Thơ lục bát Chàm  bị cắt mất phần đầu bài có dính dáng đến thơ Chế Lan Viên.
- Tổng số bài trong Quê hương Tôi của Tràng Thiên  gồm 4 phần , tổng cộng 48 bài phân ra ( phần 1 : 17 bài , trong đó có 10 bài in lại của Đất Nước Quê hương thuộc bản 1973 - Lửa Thiêng xuất bản ; phần 2 : 12 bài, trong đó có 10 bài thuộc bản Lửa Thiêng ; phần 3: 12 bài , trong đó có 10 bài thuộc bản Lửa Thiêng; phần 4:7 bài, trong đó toàn bộ lấy từ bản Lửa Thiêng )
Theo bản in ở VN , nơi trang 2 có in : " Xuất bản theo hợp đồng sử dụng tác phẩm giữa Công ty Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam và tác giả Tràng Thiên, 2012 ".  
Nhà tùy bút Tràng Thiên chính là nhà văn Võ Phiến tên thật Đoàn Thế Nhơn sinh ngày 20-10-1925 tại Bình Định. (Chu Ngạn Thư)

bản trong Đất Nước Quê Hương, ký tên Võ Phiến,
nhà xuất bản Lửa Thiêng, Sài Gòn, 1973



bản trong Quê Hương Tôi, ký tên Tràng Thiên,
nhà xuất bản Nhã Nam, 2012

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét