Di sản của người kể chuyện
Nguyên Ngọc
Những người gần gũi anh Tô Hoài thường nhận ra trên khuôn mặt hiền lành của anh một nụ cười mỉm, gần như thường trực, hóm hỉnh, nhìn kỹ hơi mệt mỏi và pha chút mỉa mai. Vì sao? Theo tôi, vì anh biết rất nhiều. Nụ cười mỉm của người biết rất nhiều, nụ cười mỉm mỉa mai của người biết quá nhiều. Quá nhiều “sự đời”. Tôi nghĩ rằng Tô Hoài đã tổ chức cuộc đời mình một cách rất có ý thức để có được hiểu biết như vậy. Thời chống chiến tranh phá họai ở miền Bắc, rồi nhiều chục năm sau chiến tranh, Tô Hoài đã xung phong làm tổ trưởng tổ dân phố ở một phường trung tâm Hà Nội. Có lẽ anh là người tổ trưởng tổ dân phố kỳ cựu nhất nước ta. Lặng lẽ, kiên nhẫn, chăm chỉ, trường kỳ. Quả không còn có vị trí nào hay hơn để quan sát cuộc sống thật của xã hội, thấy, nghe, thở, thậm chí sờ mó được hiện thực cụ thể, biết được muôn nổi thế thái nhân tình, thuộc được vô số chân dung con người trong tất cả các kiểu loại khác nhau, nếm trải tận cùng và rất thật cái mà phần lớn những người cầm bút chúng tôi, lãng mạn và trừu tượng, chúng tôi gọi to tát là “không khi thời đại”. Có lần anh làm đến ủy viên trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; anh đi họp rất đều, chẳng vắng buổi nào, theo tôi đấy cũng là một thứ “tổ dân phố” thú vị nữa của anh. Tô Hoài là một trong những nhà văn hiện thực lớn nhất, chăm chỉ nhất của văn học Việt Nam, và cực kỳ chuyên nghiệp trong tư cách đó. Nhẹ nhàng, thoạt tưởng tự nhiên như không, kỳ thực anh thiết lập trạm quan sát của mình trong cuộc sống hết sức chặt chẽ, chuẩn xác. Từ cái vọng hải đài độc đáo đó, anh soi một cái nhìn chăm chú suốt gần thể kỷ vào bể lớn của xã hội và cuộc đời.
Có lần tôi viết về đôi mắt “nheo nheo đến là tọc mạch” của anh khi trong một trang hồi ký anh hóm hỉnh kể một chuyện riêng đã cũ của tôi mà anh cũng có dính dấp đôi chút - trong vụ này anh và tôi có thể là đồng bệnh tương lân! -, anh đọc và cười bảo: “Giỏi đấy!”. Gần trăm tuổi, đến tận buổi “Chiều chiều” của cuộc đời, anh vẫn còn nguyên cái nhìn tươi rói thuở “Dế mèn phiêu lưu ký”. Đôi mắt Tô Hoài rất lạ: vừa thâm trầm, đến hiền minh, cả mệt mỏi vì từng trải, vừa long lanh tò mò như mắt trẻ con, vừa đạt đến cái bao quát chỉ có được của người đã đủ độ thời gian, đủ độ sống để có thể lùi lại, đứng ra bên ngoài đôi chút đặng nhìn được rộng và xa, vừa vẫn cực kỳ cụ thể, chăm chú, vẫn còn giữ được sức ngạc nhiên trước từng chi tiết sống động của cuộc đời. Nguyễn Thành Long, người tự coi là học trò nhỏ của Tô Hoài, thường thích kể mỗi lần ba lô lên vai “đi xuống thực tế” thầy Tô Hoài bao giờ cũng chỉ dặn đi dặn lại mỗi câu: “Long, nhớ nhé, chi tiết! chi tiết! chi tiết!...”. Phương châm quan sát cuộc sống và viết của Tô Hoài: chi tiết là tất cả, không có chi tiết cụ thể, độc đáo, thật sắc, thật riêng biệt, thì không có gì hết! Không có cái thời đại to tát chung chung, thời đại là làm bằng những chi tiết cụ thể, riêng biệt, mỗi lần lại riêng biệt, sống động, ít nhất đối với văn học, với nhà văn là như thế, phải là như thế. Như một nhà văn lớn, Tô Hoài là người yêu say đắm cuộc sống cụ thể. Anh khao khát suốt đời được biết tường tận cuộc sống trong từng chi tiết rất riêng, đến nhỏ nhất của nó. Anh tin rằng tinh chất của cuộc sống nằm sâu ở đó.
Và đấy là một người lao động chân chính, có lẽ là một người lao động cần mẫn nhất của nước ta trong suốt gần thế kỷ qua. Bạn bè đều biết câu nói này của anh: “Mình như người thợ mộc, đục đẽo suốt ngày, ngày nào cũng đục đẽo, từ sáng đến tối. Đêm nữa. Ngày nào cũng làm ra đôi thứ đồ gỗ thông thường, khi cái ghế đẩu, khi cái đòn kê, khi cái thước học trò... May ra thỉnh thoảng được một món đồ mỹ nghệ. Và cả đời giỏi lắm trời cho được đôi ba cái có thể gọi là tác phẩm nghệ thuật...”. Tô Hoài là người biết và hiểu tường tận nghề văn, vui và buồn, vinh và nhục của nó. Nên không bao giờ anh to tiếng về cái nghề này. Anh hiểu đây là một nghề thủ công, tỉ mỉ, nhọc nhằn, dù khi đã có những phương tiện kỹ thuật hiện đại nhất thì cơ bản vẫn là một nghề thủ công. Mãi mãi là nghề thủ công. Người viết vừa phải có cái phóng khoáng đôi khi đến bất cần của người đứng trên cao và nhìn xa, vừa phải có cái chăm chú đến tận đáy của sự sống cụ thể. Mà anh cũng xuất thân là thợ thủ công, người hiểu đến cùng các vật liệu, suốt đời mân mê nó trong đôi bàn tay đã bị nó làm cho chai sạn, sứt mẻ, sần sùi. Người biết nghe được tiếng nói của vật liệu trong tay mình. Hiểu được quy luật do nó sản sinh ra. Và nghe được, hiểu được, để làm được cái việc quan trọng nhất vì nó mà anh đã sinh ra trên đời này: kể chuyện. Nhà văn được sinh ra là để kể chuyện, thế thôi. Bởi con người biết được nhiều chuyện, có được nhiều chuyện kể, càng nhiều thì càng có nhiều khả năng đến với đồng loại hơn. Sẽ vô cùng đáng sợ nếu cuộc sống không có những câu chuyện của người khác mà ta được nghe kể, được trở thành của chinh ta... Anh cũng là người đã đi qua gần hết tất cả các giai đoạn của văn học Việt Nam hiện đại, biết các bước trầm luân trôi nổi của nó, những mạnh yếu của nó, thân phận và số phận của nó. Cho nên anh rất ít to tiếng. Anh chăm chỉ sống, để chăm chỉ kể. Chăm chỉ kể lại, cố gắng trung thực nhất, cho người đời, cho nhân dân của mình, cho thế giới nữa, về cuộc sống này, con người này, đất nước này...
Vậy đó, Tô Hoài, người kể chuyện Việt Nam hay nhất của thời chúng ta. Câu chuyện Việt Nam. Có người nhận xét, so với một số người cầm bút khác, Tô Hoài ít khi xông pha vào các cuộc đấu tranh xã hội trực tiếp. Vậy mà, nhìn lại kỹ mà xem, con người sống gần như thủ thỉ ấy, thủ thỉ sống và thủ thỉ nói, lại có cái quyết liệt của riêng anh. Cát bụi chân ai, Chiều chiều, Truyện ba người... dấn thân bằng văn học, theo cách của văn học, bằng cách chỉ có văn học mới làm được, dũng cảm trên chính ngòi bút của mình. Cứ như Tô Hoài muốn nói: trang giấy, đấy mới là chiến lũy thật sự của người cầm bút.
Hôm nay người kể chuyện hay nhất của thời chúng ta đã ra đi. Cái chết đã chộp được anh. Cách đây mấy năm nó đã vồ hụt anh một lần. Lần ấy có người báo tin Tô Hoài đã hôn mê, tôi vội chạy vào bệnh viện Hữu Nghị Hà Nội. Tô Hoài vừa tỉnh, anh nắm chặt tay tôi cười: Thoát rồi, thoát được keo nữa rồi. Mấy hôm nữa về mình sẽ viết, nghĩ xong đâu đó trong đầu rồi, chỉ còn viết ra giấy thôi, truyện ngắn nhé - anh khoe -, đặt cả tên rồi, sẽ có tên là Dế mèn tự cứu, thích không?… Hôm ấy anh vui như một đứa trẻ tinh nghịch khoe rằng mình đã đánh lừa được... thần Chết!...
Gabriel Garcia Markez, nhà văn Nobel khổng lồ của Colombia, có lần tâm sự rằng ông rất sợ chết. Đúng hơn, ông nhất thiết không muốn chết. Ông có một cuốn hồi ký tên là Sống để kể chuyện. Cả đời ông chỉ làm mỗi việc ấy: kể chuyện. Ông buồn rầu nói: Chết sẽ là câu chuyện duy nhất tôi không còn kể lại được cùng các bạn!
Lần trước Tô Hoài đã thoát được và đã hóm hỉnh kể lại cho ta vụ Dế Mèn tự cứu. Lần này, vụ này, anh không còn kể được nữa. Tô Hoài ơi, xin anh đừng buồn. Bao nhiêu câu chuyện anh đã chuyên cần, vô cùng hết mình chuyên cần sống, để chuyên cần và tài năng kể lại cho chúng tôi một cách tuyệt diệu, vẫn còn mãi đó, sống động, như một sức mạnh bền bỉ của chúng tôi, trong cuộc xoi đường đi tới gian nan, hiểm trở hôm nay.
Không ai, không gì giết chết được những câu chuyện đã được kể, bằng cả một đời tâm huyết, và bởi một nhà văn tài năng.
07/07/2014
NN
nguoidothi
--------------
Nhà văn Nguyên Ngọc: Vì tôi cần nơi ngồn ngộn sự sống | |||||
Mỗi lần nhà văn Nguyên Ngọc vào TP.HCM, ông thường điện thoại rủ càphê “thông tầm” (nghĩa là ngồi từ sáng đến trưa, ăn trưa xong lại ngồi đến chiều và có khi ăn chiều xong là tranh thủ tiếp khách đến tối). Càng về sau này, ông tuổi ngày càng cao mà cứ Hà Nội – Hội An – Sài Gòn – Tây Nguyên đi mải miết. Cũng biết ông là người con của Tây Nguyên, lại có duyên nợ với Hà Nội và vài ba năm trở lại đây rất trăn trở với giáo dục nên góp sức xây dựng và quản lý đại học Phan Châu Trinh ở Hội An. Nhưng tại sao ông hay vào TP.HCM?
- Thưa ông, đã bát tuần mà vẫn đây đó, đó đây hàng tháng, lại còn có thẻ khách hàng đặc biệt của một hãng máy bay… Có vẻ ông không biết thế nào là ngơi nghỉ?
Trong gia đình Gia Rai (ở Tây Nguyên), người đàn ông là bên ngoại chứ không phải bên nội, họ luôn ở bên ngoài chứ không phải bên trong, ngoài nhà, trên đường, giữa tự nhiên, say mê lang thang, suốt đời làm khách lữ hành. Tôi là người Tây Nguyên mà. Số tôi là số lang thang… Nói đùa mà cũng là nói thật đấy, nhiều lúc tôi có cảm giác ít ra kiếp trước mình cũng là người Tây Nguyên. Đàn ông Tây Nguyên hay lang thang.
Với lại, tôi thấy những người cầm bút thường có cách sống và làm việc, viết khác nhau. Riêng tôi, tôi viết “bằng cách” đi. Đi thật nhiều, gặp thật nhiều, thấy thật nhiều, nghe thật nhiều, biết thật nhiều, trải nghiệm thật nhiều. Trong chuyện này với tôi có ba điều: Một, cứ đi, thế thôi, hầu như không có mục đích gì cả, tôi dị ứng với lối đi cố tình chằm chằm làm cái việc gọi là “lấy tài liệu”. Cứ đi, vậy thôi, cứ như đi chính là mục đích tự thân. Rồi đến một lúc cái đã có được do đi bất ngờ thức dậy dưới ngòi bút, khi ấy sẽ có được một cái gì đó, một trang viết thật sống động. Hai, tôi cũng ghét “tham quan”, đi xem. Tôi đi, đến, và tham gia, làm người trong cuộc đến tối đa có thể. Và ba, tôi nghiệm ra rằng khi viết lên giấy một địa danh nào đó mà mình đã đến đó rồi, thật sự “sống” ở đó rồi, thì chỉ cái địa danh ấy viết ra dưới ngòi bút thôi bỗng sống động khác thường, như thực sự hiện ra, tươi rói, và với không gian ba chiều. Mà hình như ai cũng biết điều này: viết mà không tạo được không gian ba chiều trên mặt giấy vốn chỉ có hai chiều thì chẳng ra văn học gì hết, chữ nghĩa cứ nằm bẹt ra đấy, nhạt phèo!
Tôi khoẻ ra và làm việc “bằng” đi, nên sao còn cần đến dừng lại nghỉ ngơi?
Trong số hàng trăm chuyến đi của ông trong một năm, dễ thấy hành trình Hội An – Sài Gòn dày đặc hơn cả. Vì công việc hay vì một lý do nào khác, chẳng hạn như có một sức hút nào đó ở Sài Gòn – TP.HCM?
Đối với tôi, Sài Gòn vừa đẩy vừa hút. Thú thật, tôi không định sống ở Sài Gòn. Nhưng cũng không thể thiếu Sài Gòn. Sài Gòn ồn ào quá, chen chúc, hối hả quá, lại lắm lôi cuốn quá, mà tôi lại là người ham chơi, tôi sợ không đủ sức cưỡng lại để có lúc trầm ngâm, và ngồi vào bàn. Tôi cần Hội An để lắng lại. Tôi cần Tây Nguyên để nuôi chất hư ảo, mà tôi biết rất cần cho văn chương của tôi. Tôi cần Hà Nội, ở đấy tôi có những người bạn kích thích cho nhau sự suy nghĩ. Tôi cần cái ngồn ngộn sự sống của Sài Gòn, như một cái lò nung, thỉnh thoảng đem tất cả ba cái kia, hư ảo, nghĩ suy, lắng động, đổ vào đấy, nung chảy ra, cho thành cái chất văn chương của riêng tôi, mà theo tôi – hoặc ít ra tôi mong muốn – là hợp chất cố gắng nhuần nhuyễn của hiện thực cay đắng và hy vọng lãng mạn không thể tắt, của mê say và tỉnh táo, trầm tư và hành động. Nếu có lúc bạn thấy những chuyến vào Sài Gòn của tôi nhặt hơn, có lẽ ấy là khi tôi cần nhúng mình vào cái vạc sự sống sôi sục ấy để xua đi cái trì trệ hay buồn nản đang có nguy cơ trì kéo mình.
Quá khứ, hiện tại và tương lai, Sài Gòn với ông như thế nào?
Tôi đã có lần kể rồi, hồi nhỏ tôi có một bà chị họ rất gần bỏ nhà “đi rong” theo một gánh cải lương vào Sài Gòn và lấy một nghệ sĩ cải lương nổi tiếng – tất nhiên làm lẽ thứ mấy của ông. Cả gia đình tôi bấy giờ đau khổ và xấu hổ vì người con gái “hư” đó. Còn tôi thì tôi yêu chị vì chị rất đẹp, càng đẹp với cuộc bỏ trốn và phiêu lưu vĩ đại của chị. Tôi yêu Sài Gòn từ đó, nơi để mà say mê phiêu lưu. Theo một cách nào đó, có lẽ cũng có thể nói về sau tôi lang thang lên Tây Nguyên rồi mê mẩn trên ấy hẳn cũng có “tội” của chị và của Sài Gòn: chị với Sài Gòn đánh thức bản năng phiêu lưu và lãng mạn tiềm ẩn trong tôi. Ra từ rất nhỏ, tôi với Sài Gòn đã có duyên nợ, tuy mãi đến năm 1975 mới gặp được nhau…
Tôi không hình dung được nước mình, văn học mình, cả văn chương của tôi nữa, sẽ ra sao nếu không có Sài Gòn sau 1975? Sẽ chật chội, cũ kỹ, quê mùa biết mấy...
Tôi có cái may mắn gắn bó cuộc đời, tất nhiên theo những cách khác nhau, với cả bốn miền đất ấy: Hà Nội, Sài Gòn, Tây Nguyên, Hội An. Và bây giờ do công việc, đứng ở giữa, để từ Hội An thường xuyên lang thang ra Hà Nội, vô Sài Gòn, lên Tây Nguyên, một cuộc quay vòng còn mãi say mê.
---------------
|
Nguyễn Khải, nhà văn tài năng nhất của thế hệ chúng tôi | |||||||||
Trước hết, tôi muốn nói điều này: đấy là người tài năng nhất trong thế hệ của chúng tôi, thế hệ những người cầm bút vậy mà hóa ra vắt qua cả mấy thời kỳ lịch sử quan trọng: một chút thời Pháp thuộc, đầy đủ Cách mạng Tháng Tám, đẫm mình trong hai cuộc chiến tranh lớn, và cả hòa bình nữa.
Một đận hòa bình cũng chẳng ít khó nhọc - cả hai cuộc, hòa bình một nửa nước miền Bắc từ sau năm 1954 và hòa bình cả nước sau 1975, hòa bình nào cũng xao động bao nhiêu sóng gió.
Rồi lịch sử văn học sẽ có thời gian ngẫm lại mà xem, tất cả những chuyển động bão táp, phức tạp, trăn trở đó của số phận đất nước và nhân dân, ta sẽ được đọc lại hẳn nhiều nhất, sâu nhất trong Nguyễn Khải. Đấy là một trong những nhà văn hàng đầu, quan trọng nhất của văn học ta suốt một thời kỳ cực kỳ sôi động.
Tôi gặp Nguyễn Khải lần đầu, tôi còn nhớ chắc chắn, ngày 19-8-1955. Bấy giờ Đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua quân đội vừa họp ở Hà Nội. Tổng cục Chính trị gọi mỗi sư đoàn một người "biết viết" về Hà Nội để chia nhau viết về các anh hùng vừa được tuyên dương. Hóa ra đấy là cuộc tập hợp để rồi sau đó sẽ hình thành cả một thế hệ những người cầm bút chủ lực được rèn luyện trong kháng chiến chống Pháp và bắt đầu chính thức bước vào văn học sau năm 1954-1955.
Nguyễn Khải từ sư đoàn đồng bằng Bắc bộ lên, Phùng Quán, Nguyễn Khắc Thứ từ sư đoàn 325 Bình Trị Thiên ra, Hồ Phương từ sư đoàn 308 về, Nguyễn Trọng Oánh và Hải Hồ từ sư đoàn 304 Khu 4, Lý Đăng Cao từ phòng không, Hà Mậu Nhai từ sư đoàn 330 Nam bộ... Ít lâu sau, có thêm Hữu Mai từ Điện Biên Phủ, Nguyễn Ngọc Tấn - Nguyễn Thi từ sư đoàn 338 Nam bộ về...
Tôi là người về sau cùng, một cây bút mới tập tò đôi ba bài bút ký vô danh, từ sư đoàn 324 Khu 5 cũng được gọi về vì có ai đó tình cờ giới thiệu. Lính mới toanh, cấp thấp nhất trong nhóm, còn hoàn toàn trắng tay, gặp ai cũng sợ. Bấy giờ Hồ Phương đã có Thư nhà, chúng tôi ở chiến trường Khu 5 xa thế mà cũng từng được đọc và phục lăn. Nguyễn Khắc Thứ đã có cả bộ tiểu thuyết Đất chuyển đồ sộ. Phùng Quán vừa xáo động văn đàn bằng Vượt Côn Đảo. Nguyễn Khải thì từng đoạt giải thưởng Hội Văn nghệ VN, danh tiếng vang đến tận những chiến trường xa trong Nam của chúng tôi...
Những bước đi nhọc nhằn và dũng cảm
Tôi biết có người thường trách các nhân vật của Nguyễn Khải giống anh ấy quá, ai cũng đầy luận lý như anh. Tôi thì tôi nghĩ có hơi khác: mỗi người có một cách sống và một cách viết. Nguyễn Khải là người gửi vào các nhân vật của mình hết mọi trăn trở trên bước đường tư tưởng khó nhọc của anh - mà trên đời này người trung thực thì bao giờ các bước đường tư tưởng cũng vô cùng khó nhọc, chỉ có những anh chàng sống giả mới dễ hơn hớn hời hợt. Vậy nên, rồi bình tĩnh đọc kỹ lại hết anh mà xem, sẽ thấy đấy là người đã ghi lại được cho mai sau gần như toàn vẹn, trung thực những bước đi nhọc nhằn mà dũng cảm của con người chúng ta, cũng là của đất nước, trong suốt những năm tháng dài bão táp bên ngoài và bên trong, vừa hào hùng vừa đau đớn, như một nhà văn tài năng của dân tộc ắt phải làm.
Cái quan định luận, bây giờ thì có thể nói như thế này rồi: Nguyễn Khải đã để lại cho chúng ta một sự nghiệp đồ sộ, một bức tranh toàn cảnh sẽ vô cùng cần thiết để hiểu một thời vào loại quan trọng nhất của đất nước. Và có hiểu được như vậy thì mới đi tới được, ít đau khổ hơn và ít vấp váp hơn.
Nguyễn Khải có viết một câu hết sức ưu ái đối với tôi, anh bảo tôi "là nhà tư tưởng của thế hệ chúng tôi". Anh thương tôi quá mà nói vậy. Anh mới chính là nhà tư tưởng ấy, bởi nhà văn mà là nhà tư tưởng thì phải thể hiện các tư tưởng ấy ra trong tác phẩm của mình. Và anh mới là người làm được xuất sắc điều đó.
Tôi ở chiến trường du kích Khu 5 hẻo lánh, bao nhiêu năm sách vở chẳng có gì, về Tổng cục Chính trị chộp được một cái thư viện đầy sách tiếng Pháp, phần lớn là tiểu thuyết Liên Xô, liền lao vào đọc say mê. Một bữa Nguyễn Khải tình cờ đi qua nhìn thấy, dừng lại kêu lên: Ô, thằng này nó đọc được tiếng Pháp chúng mày ạ!... Và chúng tôi thân nhau từ đấy. Vì sao? Có lẽ vì cả hai ham tò mò mọi chuyện đời và bắt đầu muốn suy nghĩ.
Bấy giờ anh em ở trại sáng tác thường đùa, một thằng cao một thằng lùn - Khải cao lớn nhất, còn tôi thì thấp nhất trong số anh em được gọi về - mà lúc nào cũng cặp kè như vợ chồng, ngày đêm, không biết chúng nó tâm sự với nhau chuyện gì mà lắm thế! Hồi đó còn non nớt lắm, nhưng tôi cũng đã lờ mờ nhận ra điều này: Nguyễn Khải không phải là nhà văn của chủ nghĩa anh hùng, bấy giờ đang là xu thế chính thống của văn học ta. Anh là cây bút của các vấn đề xã hội, đọc kỹ lại xem, tinh một chút có thể thấy ngay ở những sáng tác trong thời chiến của anh đã manh nha những đường nét đầu tiên của xu hướng ấy. Và như vậy, anh đi sớm hơn chúng tôi rất nhiều...
Vậy mà ở trại sáng tác, Nguyễn Khải lại được phân công viết về nữ anh hùng Mạc Thị Bưởi. Thất bại. Không phải cái tạng của anh. Anh không viết được ca ngợi, cái tạng của anh là moi tìm, lục lọi, vặn đi vặn lại vấn đề, luôn đặt câu hỏi, không bằng lòng với những câu trả lời của chính mình, và luận lý, tự luận lý, suy ngẫm.
Rồi chúng tôi, ba anh em, Nguyễn Khải, Nguyễn Trọng Oánh và tôi, được cử đi tham gia cải cách ruộng đất đợt 5 "để có thêm hiểu biết nông thôn", cùng về xã Hưng Nguyên, huyện Thủy Nguyên bên bờ sông Bạch Đằng, đúng nơi Trần Hưng Đạo đánh trận thủy chiến mấy trăm năm trước. Tất nhiên loại "trí thức" mặt trắng chúng tôi thì chỉ được làm đội viên quèn thôi. Mỗi đứa ở một thôn. Cũng hăng hái lắm.
Nhưng có hôm đi họp đoàn gặp nhau, Khải thì thầm vào tai tôi: Mình thấy như có cái gì đó không phải cậu ạ. Sao lại thế này nhỉ? Hay là tại bọn mình non chính trị quá!... Chỉ dám thì thầm. Chuyến ấy đi về, Khải và Oánh bảo: May mà ở đội của mình chưa bắn ai cả. Nhờ có anh đội trưởng rất tốt, dũng cảm và trung thực!...
Rồi đến thời kỳ Đại hội XX Đảng Cộng sản Liên Xô. Khải và tôi thường lén lút đọc các tài liệu về sự kiện chấn động ấy. Và tôi tin rằng những chuyển động dẫu chưa thật hoàn toàn rõ ràng ấy đã ảnh hưởng đến các chuyến đi và các sáng tác của anh.
Có lẽ rồi đến một lúc nào đấy, các nhà nghiên cứu văn học thâm thúy sẽ lần lại các bước đường tư tưởng và sáng tác của Nguyễn Khải. Theo tôi, đấy là con đường rất tiêu biểu của chuyển động văn học ta suốt một thời kỳ lịch sử dài và không hề đơn giản, dễ dàng, tiêu biểu nhất là ở Nguyễn Khải, chính vì đấy đúng là cái tạng của anh và cũng vì anh là người tài năng nhất, cũng trung thực nhất với chính mình.
Tôi muốn nói rõ điều này: sự trung thực, cả điều gọi là dũng khí của nhà văn chủ yếu phải là ở trong sáng tác của anh, chứ không phải là, chỉ là trong ứng xử hằng ngày ở đời của anh. Mỗi người ở đời đều có những ràng buộc riêng mà sự khắc nghiệt chẳng ai giống ai, nên không thể ai cũng phải ứng xử như nhau. Duy đã là người cầm bút thì phải trung thực đến cùng trong sáng tác của mình. Tôi biết, tôi tin Nguyễn Khải là như vậy. Khi anh viết Xung đột, rồi Mùa lạc, có chút bâng khuâng, song vẫn còn khá dè dặt; khi anh viết về chuyện ông Tư Kiền, đọc kỹ lại mà xem, phê phán chuyện không chịu vào hợp tác xã đấy, nhưng là sự phê phán của người cũng đã không tin lắm về sự phê phán của mình. Và sau này Nguyễn Khải đã từng công khai nói về nỗi xấu hổ của anh trước nhân vật ấy...
Càng về sau, tầm nhìn những vấn đề xã hội của anh rộng, sâu và sắc hơn; tiếng nói cũng thẳng thắn và mạnh mẽ hơn, tự cay đắng với mình, thậm chí cả quyết liệt nữa, như trong ngòi bút chính trị gần cuối đời của anh. Anh vẫn trầm tĩnh và khiêm nhường, nhưng tiếng nói và cả bút pháp đã như tiếng kêu cuối của con chim báo bão đối với con người, với đất nước, với xã hội.
Cách đây mấy tháng, lục lại một số tài liệu cũ, tôi tình cờ tìm thấy cái thiếp mời đám cưới của anh Khải và chị Bắc, một cái thiếp thời ấy in mực tím trên một mẩu giấy nhỏ bằng hai ngón tay. Tôi đã định mang tặng lại anh chị, vậy mà không kịp nữa rồi! Khải ơi, còn biết bao nhiêu kỷ niệm giữa chúng ta, cả yêu thương và giận hờn nhau nữa có lúc, đều quí vô cùng, vô cùng. Khải ra đi, hôm nay tôi chỉ viết được có mấy dòng này. Rồi thế nào tôi cũng còn phải viết về nhau nữa, bạn ạ. Mỗi chúng ta chỉ nhỏ nhoi thôi trong lịch sử rộng lớn. Nhưng, tôi tin vậy, những người sống trung thực, bao giờ cũng là một phần dù nhỏ nhưng không thể thiếu trong bức tranh toàn cảnh của cả một thời. Mà sự nghiệp sáng tác, cũng là tư tưởng của Khải, thì không nhỏ chút nào.
NN.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét