Thích Nhất Hạnh
Giới thiệu: Bài nầy do Chân Văn dịch từ Chương Bốn trong quyển "Living Buddha, Living Christ" của Thích Nhất Hạnh, Riverheads Book xuất bản 1995. Quyển sách gồm nhiều bài giảng bằng Anh ngữ của Thầy, được ghi âm, chép lại và nhuận sắc. Đây là một quyển sách đã bán được rất nhiều trong loại sách về tôn giáo và tâm linh ở Hoa Kỳ. Theo lối quen dùng trong các sách Việt ngữ của Thầy, từ "Buddha" được dịch là "Bụt", một từ trong tiếng Việt cổ dùng để phiên âm "Buddha" khi đạo Phật được truyền vào Việt Nam vào đầu kỷ nguyên Tây lịch. Về sau, từ khi người Việt dùng kinh sách chữ Hán, từ "Phật" hay "Phật Đà" (tiếng Hán Việt) được dùng thay từ "Bụt". Bài dịch nầy đã được đăng trên tạp chí Thế Kỷ 21, California, Hoa Kỳ, tháng 11-1995
Cuộc đời Ngài
là Giáo Lý
Có một khoa học gọi
là Phật học, đó là học về cuộc đời của Bụt. Bụt là một nhân vật
có thật trong lịch sử. Bụt sinh ra ở thành Kapilavatsu (Ca Tì La Vệ), gần biên
giới Ấn Độ và Nepal. Ngài thành hôn, có một con, xuất gia, giác
ngộ, và chia sẻ giáo pháp của Ngài cho đến năm tám mươi tuổi
Ngài tịch. Nhưng cũng có một vị Bụt ở trong mỗi người chúng ta,
không tùy thuộc vào thời gian và không gian. Đó là Đức
Bụt Sống, vị Bụt của sự thật sau cùng, vượt trên các ý nghĩ và
khái niệm, và lúc nào chúng ta cũng gặp được. Vị Bụt Sống đó không
sinh ra ở Kapilavatsu và cũng không tạ thế ở Kushinagar.
Ki Tô Học là môn
học về cuộc đời Chúa Ki Tô. Khi nói Chúa Ki Tô, chúng ta cũng
cần biết đang nói về Chúa Giêsu trong lịch sử hay Đức Ki Tô Hằng Sống.
Chúa Ki Tô trong lịch sử sinh tại Bê Lem, con của một người thợ mộc.
Ngài rời quê hương xa, trở thành một đạo sư, và bị đóng đinh
trên thập tự vào năm ba mươi ba tuổi. Đức Ki Tô Hằng Sống là Con của Thượng
Đế, đã phục sinh, và nay vẫn còn tiếp tục sống. Trong Ki Tô
Giáo, bạn phải tin vào sự Phục Sinh, nếu không thì bạn không phải tín
đồ. Tôi e rằng điều kiện nầy làm nhiều người e ngại, không chịu nhìn
sâu vào cuộc đời Chúa Giêsu. Thật đáng tiếc, vì chúng ta có
thể học hỏi cả nơi Chúa Giêsu trong lịch sử lẫn Chúa Giêsu
như một cánh cửa tuyệt đối.
Khi chúng ta theo
dõi và tiếp xúc một cách sâu sắc với cuộc đời và giáo
lý của Chúa Giêsu, chúng ta có thể thâm nhập vào sự
thật của Thượng Đế. Tình yêu, sự hiểu biết, lòng can đảm, sự bao
dung, là những biểu hiện của cuộc đời Chúa Giêsu. Thượng Đế xuất
hiện với chúng ta qua Giêsu Ki Tô. Với Thánh Linh và
Nước Chúa ở trong Ngài, Giêsu đã tiếp xúc với mọi người sống
cùng thời của Ngài. Ngài đã nói chuyện với những cô gái điếm, những người thâu
thuế, Ngài có can đảm làm bất cứ việc gì cần thiết để chữa
các căn bệnh của thời đại Ngài. Như là đứa con của mẹ Maria và thánh
Giuse, Giêsu là Con của Người, Người Nam và Người Nữ. Như một người sống với Thánh
Linh, Ngài là Con của Thượng Đế. Nói rằng Chúa Giêsu vừa là Con của Người,
vừa là Con của Thượng Đế, các Phật tử có thể chấp nhận không
khó gì. Chúng ta có thể thấy Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con là một, bất
nhị, vì nếu không có Đức Chúa Cha ở trong Ngài thì không có Đức Chúa
Con. Tuy nhiên, trong Ki Tô Giáo, Giêsu thường được gọi là Con Một của Thượng
Đế. Tôi thấy chúng ta phải quán chiếu mọi hành động và mọi
lời dạy của Chúa Giêsu trong cuộc đời Ngài, như một mẫu mực để chúng
ta tu tập. Giêsu sống đúng như lời dạy của Ngài, cho nên suy gẫm cuộc
đời Chúa Giêsu là điều tối cần thiết để hiểu giáo lý của
Ngài. Tôi nghĩ cuộc đời Chúa Giêsu là bài học căn bản nhất
của Ngài, quan trọng hơn cả sự phục sinh và tính vĩnh cữu.
Sống tỉnh thức là
Bụt
Bụt là người giác
ngộ, nghĩa là không còn bị ràng buộc vào thế tục. Nhưng khi nhiều
người nói rằng họ tin Bụt, họ đang nói về niềm tin vào vị Bụt thần
thông, huyền diệu, không phải niềm tin vào giáo lý hay cuộc
đời của vị Bụt lịch sử. Họ tin vào sự mầu nhiệm của Bụt, và
thấy như vậy là đủ. Nhưng các thí dụ trong cuộc đời thật của
Bụt và Chúa Giêsu quan trọng hơn, vì khi các Ngài sống như những con người thật, chúng
ta có thể bắt chước, sống theo mẫu đời sống của các Ngài.
Khi chúng ta đọc,
"Cửa trời mở rộng và Thánh Linh giáng xuống Ngài như một
con chim bồ câu," chúng ta có thể thấy hình ảnh Chúa
Giêsu đã giác ngộ. Ngài đã tiếp xúc được với sự thật của đời
sống, nguồn suối của tỉnh thức, của minh triết và trí tuệ ở
trong Ngài. Đó là điều phân biệt Ngài với người phàm tục. Khi
Ngài sinh ra trong một gia đình người thợ mộc, Ngài là Con của Người.
Khi Ngài mở rộng trái tim, cánh cửa thiên đường đã mở ra
cho Ngài. Thánh Linh đã ngự xuống Ngài như một con chim bồ câu,
và Ngài biểu hiện như là Con của Thượng Đế - rất thiêng liêng,
sâu sắc, và vĩ đại.
Nhưng Thánh Linh không
phải chỉ ngự xuống Giêsu không thôi, mà cho tất cả chúng ta. Trong
nhãn quan Phật Giáo, ai không phải là con của Thượng Đế? Ngồi dưới
gốc cây bồ đề, những hạt giống thiêng liêng và huyền
diệu ở trong Bụt bừng nở. Ngài là một người, nhưng đồng thời Ngài
cũng thị hiện tâm linh nhân loại đến mức cao nhất.
Khi chúng ta tiếp xúc được với tâm linh tối thượng trong chúng
ta, chúng ta là Bụt. Chúng ta mang ơn Thánh Linh,
và chúng ta trở nên rất bao dung, rất cởi mở, sâu xa,
và thông cảm.
Những cánh cửa mở ra
cho các thế hệ sau
Kinh Thánh Mathiơ tả
Nước Chúa giống như một hạt cải nhỏ xíu. Điều đó có nghĩa là hạt giống của
Nước Chúa ở sẵn trong chúng ta. Nếu chúng ta biết vun trồng hạt
giống đó trong mảnh đất mầu của cuộc sống hằng ngày, nó sẽ lớn lên và
thành một cây cao cho chim chóc đến trú ẩn. Chúng ta không cần
phải chết đi mới tới được cửa thiên đàng. Thật ra chúng ta cần
phải sống đích thực. Việc tu tập là tiếp xúc sâu xa với
sự sống để Nước Chúa trở thành sự thật. Đây không phải là chuyện sùng
tín. Đây là chuyện thực tập. Có thể vào Nước Chúa bây giờ và ở đây. Nhiều
đoạn trong Phúc Âm cũng có cách nhìn nầy. Chúng ta đọc Kinh Lạy
Cha, rằng chúng ta không đi tới Nước Chúa, nhưng Nước Chúa sẽ đến với chúng
ta: "Nước Ngài sẽ tới ..." Giêsu nói, "Ta là cánh cửa vào."
Ngài tự mô tả là cánh cửa của Nước Chúa. Vì Đức Chúa Con được tạo nên
bằng Đức Thánh Linh, Ngài là cánh cửa để chúng ta vào Nước Chúa.
Bụt cũng được mô
tả như là một cánh cửa, là vị đạo sư chỉ đường cho ta
sống trong đời. Phật tử tu học con đường đó một
cách sâu xa để giúp ta sống trong chánh niệm, từ bi,
và an lạc. Kinh sách nói có 84 ngàn pháp môn, cánh cửa của sự tu
học. Nếu bạn may mắn tìm thấy một cánh cửa, và cho rằng cánh cửa
của bạn là cánh cửa duy nhất, thì đó không phải là tinh thần đạo
Bụt. Thật ra, chúng ta phải mở ra thêm nhiều cánh cửa mới cho
các thế hệ tương lai. Chúng ta đừng sợ có quá nhiều
cánh cửa - đúng ra, ta nên lo ngại không có thêm những cánh cửa mới. Thật tội
nghiệp cho con cháu chúng ta, và con cháu của họ, nếu chúng ta hài
lòng với 84 ngàn cánh cửa hiện có. Mỗi người chúng ta, với sự tu
tập và tâm từ bi, có thể mở ra những Cánh Cửa Pháp mới.
Xã hội đang biến
đổi, con người thay đổi, đời sống chính trị và kinh tế ngày
nay không còn giống như thời Bụt và Chúa nữa. Bụt trông cậy nơi chúng
ta để Giáo Pháp tiếp tục phát triển như một thực thể sống
động - không phải một giáo pháp cứng đọng, mà là một Pháp
Thân (Dharmakaya), một thực thể giáo lý thiêng liêng.
Bà mẹ sinh ra các vị
Bụt
Bụt dạy Pháp
thân của Ngài quan trọng hơn nhục thân. Ngài muốn dạy chúng ta phải thực
hành Giáo Pháp để đạt tới Niết Bàn ở đây và bây giờ. Giáo
Pháp sinh động không phải là những thư viện chứa kinh điển hay
các băng thâu những bài giảng hay. Pháp sinh động là sống tỉnh
thức trong chánh niệm, biểu hiện trong cuộc sống hằng ngày của
Bụt cũng như của quý vị. Khi tôi nhìn thấy quý vị bước đi với chánh
niệm, tôi tiếp xúc được với sự an lạc, với sự hiện diện của
quý vị một cách sâu xa. Khi quý vị săn sóc các anh chị em
của mình, tôi nhìn thấy Giáo Pháp sống động trong quý vị. Nếu
có chánh niệm, quý vị có thể tiếp xúc với Pháp thân của
Bụt.
Bụt mô tả những hạt
giống của tỉnh thức trong mỗi chúng ta là "Như
Lai Mẫu" (tathagatagarbha). Chúng ta đều là "mẹ của Như
Lai" vì trong lòng chúng ta đều mang sẵn hạt giống của tỉnh
thức. Nếu chúng ta đều săn sóc vị Bụt sơ sinh trong mình bằng
sự thực tập tỉnh thức mỗi ngày, một ngày nào đó Đấng Giác
Ngộ sẽ đến với chúng ta. Các Phật tử nhìn Bụt như một vị thầy
và một người anh, không phải là một thần linh. Chúng ta đều
là Pháp huynh Pháp đệ của Bụt. Chúng ta cũng nói Trí
Tuệ Bát Nhã (Prajnaparamita) là mẹ của tất cả các vị Bụt. Trong lịch
sử, các giáo phái Tin Lành giảm bớt hình ảnh Mẹ
trong Thượng Đế và đề cao vai trò Cha của Ngài, nhưng
trong Giáo hội Công Giáo có sự sùng kính Maria, Đức Mẹ Chúa
Trời.
Thật ra Mẹ và Cha là
hai phương diện của cùng một thực thể. Hình ảnh người
cha hiện rõ hơn trong Trí Tuệ và Hiểu Biết, người Mẹ trong Tình
Thương và Từ Bi. Trong đạo Bụt, hiểu biết (prajna) là căn
bản của thương yêu (maitri). Nếu không có hiểu biết thì
không có tình thương đích thực, và không có tình thương thì
không có hiểu biết đích thực.
Người con gái của Thượng
Đế
Người ta gọi Bụt bằng mười
danh hiệu, mỗi danh hiệu biểu lộ một phẩm chất. Danh hiệu thứ
nhất, Như Lai (Tagatatha), tức là "vị đến với chúng ta trên
đường chánh", "vị đến từ sự thật mầu nhiệm của sự sống
và sẽ trở về sự thật mầu nhiệm đó", hay "vị đến từ
cõi như vậy, ở trong cõi như vậy, và quay về cõi như vậy". Như
là danh từ Phật giáo nói đến Chân Như, bản chất của sự
vật, hay sự thật tối hậu. Đó là bản thể hay nền tảng của sự hiện
hữu, ví như nước là bản thể của sự sống. Cũng như Bụt, chúng
ta cũng tới từ Chân Như, ở tại Chân Như, và sẽ quay về Chân
Như. Chúng ta từ cõi Không mà đến và sẽ trở về cõi Không.
Trong một bài
kinh, Phật nói rằng hình sắc chúng ta thấy là do các nhân
duyên tạo thành, khi không đủ nhân duyên thì chúng ta không
thấy. Khi có đủ nhân duyên thì chúng ta nhận ra một hiện
tượng, chúng ta thấy hiện tượng là có thật. Nhưng khi một
trong các nhân duyên vắng mặt, chúng ta không nhận ra hiện
tượng đó nữa. Ta không thấy nên nói là nó không hiện hữu. Nhưng điều
đó không đúng. Vào mỗi tháng Tư ở Làng Hồng, chúng ta không nhìn thấy
hoa hướng dương nở, chúng ta có thể nói hoa hướng
dương không hiện hữu. Nhưng các nông dân ở ngôi làng tại miền
Nam nước Pháp này đã gieo hàng ngàn hạt giống xuống đất. Khi nhìn ngọn
đồi trơ trọi, họ có thể thấy các hoa hướng dương rồi. Hoa hướng
dương đã có mặt ở đó. Chúng chỉ còn thiếu các nhân duyên của mặt
trời, sức nóng, mưa, và thời gian. Không phải vì ta không thấy mà
hoa hướng dương không hiện hữu.
Cũng theo cách
đó, chúng ta nói Đức Như Lai không từ đâu tới mà cũng không
đi về đâu cả. Ngài tới từ cõi Chân Như và trở về Chân Như,
không phụ thuộc vào thời gian và không gian. Nếu quý vị
đi qua thửa ruộng bên Làng Hồng vào tháng Tư, và xin cánh đồng cho quý vị thấy Chân
Như, thấy Nước Chúa, các thửa ruộng bỗng nhiên sẽ phủ đầy hoa hướng dương vàng
chói rực rỡ. Khi Thánh Phan Xi Cô (St Francis) nhìn quán chiếu sâu
xa một cây hạnh nhân vào giữa mùa đông và bảo cây hãy nói cho
ngài nghe về Thượng Đế, cây bỗng bừng nở đầy hoa.
Danh hiệu thứ
hai của Bụt là A La Hán, vị xứng đáng được tôn kính. Danh hiệu thứ
ba là Thiện Thệ, vị hoàn toàn tỉnh thức. Thứ tư là Minh Hạnh
Túc, vị có trí tuệ và đức hạnh đầy đủ. Thứ năm là Vô
Thượng Sĩ, vị dẫn đường không ai hơn. Thứ sáu là Thế Gian Giải,
người biết rõ thế giới nầy. Thứ bảy là Điều Ngự Trượng Phu, người
đi trên con đường tự tại. Thứ tám là Thiên Nhân Sư, thầy của thần
linh và người. Danh hiệu thứ chín của Ngài là Bụt (Buddha, Phật
Đà), bậc giác ngộ. Danh hiệu thứ mười là Đức Thế Tôn, bậc đầy
phúc báu.
Mỗi khi chúng ta quy
y, quay về nương tựa Bụt, chúng ta tìm nương tựa vào một vị
có đủ mười đức tính trên, đó cũng là hạt nhân có sẵn trong mỗi người. Thái
tử Tất Đạt Đa (Siddharta) không phải là vị Bụt duy nhất. Mọi
vật trong thế giới cây cỏ, muông thú và khoáng chất đều là các vị
Bụt tương lai. Tất cả chúng ta đều chứa sẵn mười đức tính của Bụt
trong thâm căn của mình. Nếu chúng ta thể hiện được mười đức
tính đó thì sẽ được tôn kính.
Tôi thấy trong Phép
Rửa Tội là sự công nhận của mỗi người, khi mở lòng ra
đón Thánh Linh, đều có khả năng thể hiện mười đức tính trên, đó
cũng là những đức tính để trở thành các người con của Chúa. Trong đạo
Bụt, chúng ta không nói đến Tội Tổ Tông, nhưng nói đến các
Chủng Tử Bất Thiện, là những hạt giống có sẵn trong mỗi người
- hạt giống của tham lam, hận thù, giận dữ, ngu
si, cố chấp, v.v... - và chúng ta nói đến các hạt giống trên
có thể được chuyển hóa khi chúng ta tiếp xúc với các đức
tính của Bụt. Các đức tính đó cũng có sẵn hạt giống trong chúng
ta. Tội tổ tông cũng có thể được chuyển hóa khi một
người tiếp xúc với Thánh Linh. Giêsu là con của Thượng
Đế và con của Người. Chúng ta cũng là con của Thượng Đế và
của song thân chúng ta. Nghĩa là chúng ta thuộc về cùng một thực
tại như Giêsu. Điều này có thể coi như là tà thuyết đối với một
số người Ki Tô Giáo. Nhưng tôi tin những nhà thần học đã nói là
không cần phải nghĩ như vậy. Giêsu không phải chỉ là Chúa của chúng
ta. Ngài còn là Cha, là Thầy, là Anh, và là Chính chúng ta. Nơi duy
nhất chúng ta có thể tiếp xúc với Giêsu và Nước Chúa là ở
trong nột tâm mình.
Chúng ta tiếp tục ra
đời
Khi chúng ta làm
lễ Chúa Giáng Sinh hay lễ Phật Đản, chúng ta mừng sự
ra đời của những hài nhi đặc biệt. Sự giáng sinh của Chúa và đản
sinh của Bụt là các biến cố quan trọng trong lịch sử loài
người. Mấy ngày sau khi Bụt ra đời, nhiều người ở Kapilavatsu đến kính thăm,
trong đó có một đạo sĩ già tên là Asita. Sau khi nhìn ngắm Bụt sơ
sinh, Asita bật khóc. Vua cha kinh ngạc hỏi: "Thưa đạo sĩ,
tại sao ông lại khóc? Con tôi sẽ có số phận không may chăng?" Đạo sĩ trả
lời: "Thưa Đức Vua, không phải vậy. Việc ra đời của Thái tử Tất
Đạt Đa thật là mầu nhiệm. Con trai hoàng thượng sẽ thành một vị thầy
quan trọng của thế giới. Nhưng tôi bây giờ đã già quá rồi, chắc không sống
được đến ngày đó nữa. Đó là lý do tại sao tôi khóc."
Trong Kinh Thánh cũng
có một câu chuyện tương tự. Tám ngày sau khi sinh ra, Chúa Hài Đồng
được đưa đến đền thờ để làm lễ cắt bì. Khi một người tên Simeon nhìn thấy Chúa,
Ông ta thấy là Ngài sẽ thay đổi cuộc sống nhân loại một cách lớn lao.
"Khi đến ngày
làm lễ thánh tẩy theo luật của Mai Sen (Moses), người ta bế Ngài đến Giê Ru Sa
Lem để trình Ngài lên Thượng Đế ... và người ta theo luật của Thượng
Đế làm lễ hiến sinh hai bồ câu nhỏ. Lúc đó có một người ở Giê Ru
Sa Lem tên là Simeon. Người đó là một người công chính và sùng
tín, đi tìm đường cứu rỗi dân Israel, đưa Thánh Linh ở cùng
người đó. Đức Thánh Linh đã báo cho Simeon biết rằng ông ta sẽ được
nhìn thấy Messiah (Đấng Cứu Thế) trước khi chết. Theo hướng dẫn của Thánh
Linh, Simeon đi tới đền thờ, và khi cha mẹ Chúa Hài Đồng bế Chúa tới
trao cho ông theo luật thánh, Simeon bế Chúa trong hai tay, và ca ngợi Thiên
Chúa rằng: 'Lạy Chúa, nay Ngài có thể cho tôi tớ Ngài được yên nghỉ theo lời
Ngài đã phán, vì nay tôi đã thấy được sự cứu rỗi mà Ngài đã chuẩn bị trước sự chứng
kiến của mọi người, ánh sáng mạc khải cho dân ngoại và vinh
quang cho dân Chúa, dân tộc Israel.' Cha và mẹ của hài nhi kinh ngạc khi
nghe Simeon nói thế."
Mỗi khi tôi đọc chuyệm
Asita và Simeon, tôi lại ước chi khi mỗi người chúng ta sinh ra lại
có một vị hiền giả đến thăm viếng. Mỗi trẻ sơ sinh ra đời đều
quan trọng, không kém gì việc đản sinh của Bụt. Chúng ta cũng là Bụt,
một vị Bụt tương lai, và chúng ta tiếp tục ra đời trong mỗi giây
phút. Chúng ta cũng đều là Con của Thiên Chúa và là con của cha
mẹ ta. Chúng ta phải chăm sóc mỗi đứa trẻ mới ra đời.
Tiếp xúc với tổ
tiên
Tôi không biết tôi là
chính tôi hay tôi cũng là anh ruột tôi. Trước khi tôi ra đời, một em bé trai
khác đã định sinh ra, nhưng mẹ tôi bị xẩy thai. Nếu người con trai đó còn sống,
chắc tôi đã có một người anh. Hay tôi đã là anh tôi. Từ nhỏ tôi vẫn nghĩ
ngợi về điều này.
Những bậc cha mẹ sắp
có con nên cẩn trọng vì họ đang mang một hài nhi có thể trở
thành một Đức Bụt hay một Chúa Giêsu. Họ phải tỉnh táo biết những
thứ gì họ đang ăn, uống, điều họ nghĩ, việc họ làm. Cách thức họ chăm sóc thân
thể và cảm thọ của họ ảnh hưởng đến sự an lạc của
đứa trẻ trong bụng mẹ. Cha mẹ chúng ta cho chúng ta được
ra đời và hiện giờ vẫn tiếp tục ban sự sống cho chúng
ta. Mỗi khi gặp khó khăn, tôi đều khấn cha mẹ tôi và lúc nào tôi cũng
được phù hộ.
Các tổ tiên về tâm
linh của chúng ta cũng ban cho chúng ta sự sống
và cũng vẫn còn tiếp tục mãi. Ở nước tôi, chúng tôi thường
nói một vị thầy đích thật có thể cho môn đệ sự sống. Nếu quý vị có đủ
bản lãnh, quý vị sẽ tạo nên sự sống của những đứa con tinh thần, và qua sự tu
tập và cuộc sống, quý vị sẽ tiếp tục ban sự sống cho nhiều người,
cả sau khi đã qua đời. Chúng ta có thể nói các người con từ miệng Bụt
ra đời vì Bụt đã ban cho họ các lời dạy, tức là Pháp. Có nhiều cách để
mang Pháp tới cho cuộc sống tinh thần của một đứa trẻ sắp ra đời. Cách
thông thường nhất là dùng lời nói. Mỗi ngày tôi vẫn tu tập để tiếp
xúc với các tổ tiên huyết thống và các tổ tiên tâm
linh của tôi. Mỗi khi tôi thấy mình yếu đuối, tôi lại kêu gọi họ phù
trợ, và bao giờ các ngài cũng tới giúp.
Khổ và con đường dứt
khổ
Ngay từ khi còn nhỏ, Tất
Đạt Đa và Giêsu đều nhận thấy đời nhiều nỗi khổ. Bụt đã thấy rất
sớm nỗi khổ của mọi loài. Chúa Giêsu cũng phải nhìn thấy như vậy, vì các Ngài đều tìm
đường giúp nhân loại dứt khổ đau. Chúng ta cũng phải
tìm một lối sống giúp cho đời vơi khổ. Sự thật về khổ lúc
nào cũng có mặt, ở chung quanh và ở trong ta, và chúng ta phải tìm
đường giảm bớt nỗi khổ, biến khổ đau thành an lạc, hòa bình.
Chư tăng ni tu
tập theo truyền thống của họ, đã tụng kinh, ngồi thiền, đi
thiền hành, thọ trai trong yên lặng, và tu tập nhiều phương pháp khác
để diệt khổ. Sống cuộc đời của một vị tăng hay ni, có thể ngồi im
lặng quán chiếu về sự khổ và đường diệt khổ, là một điều quý
báu hiếm có. Quý vị có thể ngồi quán chiếu sâu xa về thân
và tâm của mình, như gà mẹ đang ấp trứng. Một ngày nào đó, trứng sẽ nở ra một
gà con. Nếu quý vị không tôn quý những giờ thực tập, thì dù là tăng
ni, quý vị cũng không cống hiến gì được cuộc đời.
Năm hai mươi chín tuổi
Bụt xuất gia, tuổi tương đối còn trẻ, đến năm ba mươi lăm
Ngài thành đạo. Chúc Giêsu cũng sống nhiều ngày một mình trong
sa mạc. Chúng ta đều cần những giờ phút suy ngẫm và làm mới lại mình.
Những người không phải tăng ni sẽ thấy khó kiếm được thì giờ thiền
quán hay cầu nguyện, nhưng đó là một việc quan trọng phải làm. Trong
những khóa tu, chúng ta tập sống ý thức về mỗi việc mình
làm, rồi tiếp tục áp dụng điều đó trong cuộc sống hằng ngày. Thực
hành như thế, chúng ta có thể quán chiếu sâu xa về bản
chất của khổ và tìm ra đường thoát khổ. Đó là bài giảng thứ nhất
của Bụt tại Vườn Nai ở Sanarth: "Hãy quán chiếu sâu xa bản
chất của khổ để tìm nguyên nhân gây ra khổ và con đường diệt
khổ." Người đi tu hay người tại gia đều có thể thực tập điều
đó.
Ta là con đường
Đạo Bụt trong truyền
thống Theravada (Nam Tông) nhấn mạnh vào các bài giảng của vị Bụt lịch
sử, vị Bụt đã sống và đã qua đời. Sau nầy ý niệm về Bụt sinh động phát
triển trong truyền thống Mahayana (Bắc Tông). Khi Bụt sắp nhập
diệt, nhiều vị đệ tử buồn rầu vì sắp phải xa Ngài. Ngài đã trấn
an họ rằng: "Nhục thân của ta sẽ không còn nữa, nhưng Pháp thân của
ta vẫn luôn luôn ở bên các con. Hãy quy y Pháp để làm hòn đảo cho các
con nương tựa." Lời Bụt dạy rất rõ ràng. Giáo Pháp của Ngài
là hải đảo cho chúng ta nương tựa, là bó đuốc soi đường
cho chúng ta. Khi Giáo Pháp còn tồn tại, thì chúng ta không cần
phải lo buồn. Một vị sa môn lúc đó đang bệnh, ngỏ ý tiếc
không thể đến gặp Bụt, Bụt nhắn với thầy đó rằng: "Nhục thân của Ta không
quan trọng. Nếu thầy có Pháp thân với thầy, nếu thầy tin Pháp, thực
tập Giáo Pháp, thì ta luôn luôn ở bên thầy." Chúa Giêsu cũng từng
nói: "Khi có hai, hay ba người họp nhau trong tên ta, ta ở đó cùng họ."
Ta luôn luôn ở đó
cùng người
Sau khi Bụt nhập
diệt, người ta yêu và sùng kính Ngài quá nên ý niệm Pháp
thân vốn bắt đầu là các giáo lý đã biến thành một vị Bụt
huy hoàng, bất diệt, lúc nào cũng giảng Giáo Pháp. Trong truyền
thống Bắc Tông, Bụt lúc nào cũng còn sống, vẫn tiếp tục giảng Giáo
Pháp. Nếu quý vị chú ý lắng nghe, quý vị có thể nghe tiếng nói của Pháp từ một
hòn sỏi, một lá cây, một đám mây bay. Đức Bụt thường tồn đã trở
thành Bụt sống, vị Bụt của niềm tin. Cũng giống như Chúa Ki Tô của đức
tin, Chúa Ki Tô sống. Nhà thần học Paul Tillich mô tả Thiên
Chúa như là nền tảng của hiện hữu. Người ta cũng có khi mô tả Bụt
như vậy.
Thấy Đạo là thấy ta
Gặp một vị minh sư
cũng có giá trị như học ngài hàng thế kỷ, vì trong ngài chúng
ta thấy tấm gương sống của sự giác ngộ. Làm sao chúng ta được
gặp Bụt hay Chúa? Điều đó tùy thuộc chính ta. Nhiều người nhìn vào mắt
Bụt hay Chúa mà không thấy. Có một thầy kia hối hả đi tìm gặp Bụt, vội
quá đến nỗi dọc đường nhìn mà không thấy một người đàn bà đang đau
khổ cần giúp đỡ. Khi vị đó tới tu viện gặp Bụt, ông ta cũng
không nhìn thấy Bụt. Quý vị thấy Bụt hay không là do quý vị đang sống
trong trạng thái nào.
Ta là trí tuệ,
là từ bi
Bụt tỏa ra hào
quang cũng như các nhân vật siêu phàm khác. Khi chúng ta gặp
các nhân vật đó chúng ta cảm thấy bình yên, tình thương, thấy sức
mạnh nơi họ và trong chúng ta. Có câu ngạn ngữ Trung Hoa rằng:
"Thánh hiền ở đâu thì nước suối ở đó trong hơn, cây cối ở đó cũng xanh
hơn." Câu đó mô tả không khí bao quanh bậc thánh nhân. Khi
quý vị đến bên một hiền giả, quý vị cảm thấy bình an và
sáng láng. Khi quý vị đến gần Chúa Giêsu và nhìn thẳng vào mắt Ngài -
dù quý vị có thấy hay không - quý vị có nhiều hy vọng được cứu rỗi
hơn là chỉ đọc lời nói của Ngài. Nhưng khi quý vị không thể đích thân
gặp Chúa, thì còn những bài học của Chúa, đặc biệt là những bài học về cuộc
đời của Ngài.
Thoát khỏi những
khái niệm
Mỗi khi tôi đọc
kinh điển, dù là kinh đạo Chúa hay đạo Bụt, tôi luôn luôn ghi nhớ
rằng những điều các Ngài nói là nói cho một người hay một thính chúng nào
đó, trong một hoàn cảnh nào đó. Tôi cố suy ngẫm sâu xa về
khung cảnh của lời dạy để hiểu cho đúng hơn. Điều các Ngài nói có khi không
quan trọng bằng cách nói. Khi chúng ta biết như vậy, chúng ta gần
Chúa và Bụt hơn. Còn nếu như chúng ta phân tích kỹ lưỡng lời dạy của
các Ngài mà không hiểu tương quan giừa người nói và người nghe thì có thể chúng
ta đã hiểu lầm. Nhiều nhà thần học cũng có khi mắc lỗi nầy.
Khi đọc Kinh Thánh, chúng
ta thấy sự can đảm vô cùng của Chúa Giêsu khi Ngài cố thay
đổi xã hội chung quanh. Khi đọc kinh Phật, chúng ta cũng
thấy Bụt có một nhân cách rất mạnh. Xã hội Ấn Độ thời Bụt không
nhiều bạo lực bằng xã hội trong đó Chúa Giêsu sinh ra, cho nên chúng
ta có cảm tưởng các phản ứng của Bụt không quyết liệt
bằng, nhưng điều đó là vì trong xã hội của Bụt khả dĩ có thể tìm
ra phương cách khác. Hãy xem phản ứng của Bụt đối với sự sa
đọa của các tu sĩ theo phái Vệ Đà chẳng hạn, cũng rất quyết
liệt. Thí dụ khái niệm về Tự Ngã (Atman), một trọng điểm của giáo
lý Vệ Đà, là một nguyên nhân của tình trạng bất
công xã hội thời đó - như hệ thống đẳng cấp, cách đối xử bất
nhẫn với những người vô đẳng cấp, và sự độc quyền về giáo
điều của những người không chắc có giá trị tinh thần nhưng
lại hưởng những cuộc sống sung túc nhất. Phản ứng lại, Bụt
đã nhấn mạnh đến giáo lý Vô Ngã. Ngài nói: "Mọi sự vật
không có tự tánh riêng biệt, độc lập. Nhìn vào tự tánh của
một bông hoa, quý vị thấy đó là sự trống rỗng." Đến khi các đồ đệ bắt
đầu sùng bái giáo lý Vô Ngã, Ngài lại nói: "Thà rằng tin ở
tự ngã của một bông hoa còn hơn là vướng mắc vào tính vô ngã của
bông hoa."
Bụt không trình bày một học
thuyết có tính cách tuyệt đối. Ngài dạy về vô ngã để đối
trị với vấn đề của thời đại đó. Đó là một đề tài thiền
quán. Nhưng nhiều Phật tử về sau bị vướng mắc vào ý niệm vô
ngã. Họ lầm phương tiện với cứu cánh, lầm cái bè qua sông với bờ
sông bên kia, lầm ngón tay chỉ mặt trăng với mặt trăng. Có điều
quan trọng hơn cả thuyết vô ngã. Đó là sự giải thoát khỏi khái
niệm về Ngã và về Vô Ngã. Một người theo đạo Bụt mà để bị vướng mắc vào
một lý thuyết, dù là lý thuyết Phật giáo, là làm ngược lời Bụt dạy. Lời
nói và khái niệm không quan trọng. Điều quan trọng là sự khai ngộ của
chính chúng ta về bản chất của sự vật và cách thức
chúng ta đối trị với sự thật đó. Nếu Bụt sinh ra ở xã hội mà
chúa Giêsu đã sinh ra, tôi nghĩ chắc Ngài cũng bị đóng đinh trên thập tự.
Thấy Đạo, lên đường
Khi Chúa Giêsu nói:
"Ta là con đường" Ngài muốn bảo nếu muốn gần Thiên Chúa chúng ta phải tu
tập con đường của Ngài. Trong Tân Ước, ta thấy các người theo Thiên
Chúa Giáo đầu tiên, như tả trong sách Tông Đồ Mục Vụ, thường nói
đến đức tin của họ như là "Con Đường - Đạo." Tôi nghe câu
nói "Ta là Con Đường" hay hơn câu "Ta biết Con Đường."
Đây không phải là một con đường trải nhựa. Nhưng chúng ta phải phân
biệt chữ "Ta" trong lời Chúa và chữ "Ta" mà người nghe
vẫn nghĩ. Chúa nói "Ta" là nói về Đời Sống, đời sống của
Ngài, đó là Đạo. Nếu quý vị không nhìn vào đời sống của Ngài, quý vị
không thấy Đạo của Ngài. Nếu quý vị chỉ ca ngợi một danh hiệu,
dù là danh hiệu Chúa, đó chưa phải là tu học theo cuộc
đời của Chúa. Nếu muốn sáng danh Chúa Giêsu chúng ta phải tập sống sâu
xa, thương yêu và hành động bác ái. Đạo, Con Đường, chính
là Chúa chứ không phải là một vài ý Chúa nói ra. Giáo lý đích thực có
tính động. Đó không phải là lời nói mà thôi nhưng là đời sống thật.
Nhiều người không có đạo lẫn đời sống mà vẫn bắt ép mọi người theo
cái mà họ tưởng là đạo. Nhưng đó chỉ là lời nói mà không dính dấp gì
đến đời sống thật hay con đường thật.
Khi chúng ta hiểu
và thực hành sâu xa cuộc đời và giáo pháp của Bụt, cuộc
đời và tín lý của Chúa Giêsu, chúng ta bước được vào trong cánh
cửa của căn nhà Bụt sống và Chúa sống, và đời sống hằng cửu sẽ đến
với ta.
Thân ta là mình Chúa
Khi một vị mục
sư nói tôi là người không biết ơn (vì không tạ ơn Chúa
khi ăn cơm), ông đang nói một ngôn ngữ khác với ngôn ngữ người
theo đạo Bụt. Ông nghĩ tình thương yêu chỉ có thể biểu tượng vào
một người. Vì vậy, sự Phục Sinh là một tín lý rất quan trọng
trong Ki Tô Giáo. Nếu Giêsu chết đi rồi không phục sinh, ai sẽ mang
tình yêu thương vĩnh cữu của Ngài tới cho chúng ta? Nhưng Thượng
Đế có cần phải biểu hiện thành một người không? Do
Thái Giáo và Thiên Chúa Giáo luôn luôn dùng hình ảnh của
một người.
Trong đạo Bụt, chúng
ta cũng hay diễn tả các điều thệ nguyện của mình bằng hình
ảnh của một người, như sự tỉnh thức (Bụt Thích Ca), trí
tuệ (Bồ tát Văn Thù Sư Lợi), và tình yêu (Bụt Di Lặc), nhưng ngay cả
khi không có Thích Ca Mâu Ni, Văn Thù Sư Lợi, Di Lặc, chúng
ta vẫn tiếp xúc được với tỉnh thức, trí tuệ và yêu
thương. Đệ tử Bụt là sự tiếp nối của Bụt. Chúng ta có
thể biểu hiện tỉnh thức, trí tuệ và thương yêu qua các
nhân vật thời đại của mình, ngay cả qua chính mình. Chúng ta không
cần tin Bụt hay Bồ tát sẽ sống lại bằng sự thực hành tỉnh
thức, trí tuệ và thương yêu trong chúng ta.
Chúa Ki Tô sống là Đức
Ki Tô của Tình Yêu, mỗi lúc đều tạo dựng nên tình yêu. Khi giáo hội biểu
hiện sự hiểu biết, bao dung, và từ bi, Chúa Giêsu đang ở đó. Những tín
đồ Thiên Chúa Giáo cần giúp thể hiện Chúa Giêsu trong
đời sống của họ, cho những người chung quanh thấy rằng ta có thể đạt tới tình
thương, sự hiểu biết và bao dung. Điều đó không thể làm đầy đủ
qua sách vở và bài giảng. Phải thể hiện trong đời sống. Trong đạo
Bụt cũng vậy, đức Bụt sống Ngài dạy chúng ta từ bi chỉ có thể thể
hiện bằng cách chúng ta sống.
Nhờ công phu hành
trì của nhiều thế hệ người theo đạo Bụt và đạo Chúa, sức mạnh từ
Bụt và từ Chúa đã được truyền tới đời chúng ta. Nhờ thế chúng ta có
thể tiếp xúc với Bụt sống và Chúa sống. Chúng ta biết ta là
biến thân của thân Bụt và một phần của thân huyền nhiệm của Chúa. Chúng ta có
cơ hội tuyệt vời làm cho Bụt và Chúa tiếp tục sống mãi. Nhờ thân
thể và đời sống của chúng ta mà ta có thể tu tập.
Nếu quý vị ghét thân thể của quý vị, nghĩ rằng đó là nguồn gốc của buồn
phiền, nó chỉ chứa đựng các hạt giống của giận dữ, thù hận
và tham lam, quý vị không hiểu rằng thân thể của quý vị
cũng là thân Bụt, thân thể quý vị cũng là một phần thân Chúa.
Bạn chỉ cần đi bộ trong chánh niệm, thực hiện những bước bình yên, hạnh phúc trên hành tinh của chúng ta. Hít thở sâu, và tận hưởng hơi thở của bạn. Xin lưu ý rằng bầu trời có màu xanh và tiếng hót của những chú chim rất đẹp. Tận hưởng sự sống và bạn sẽ giúp Chúa Kitô sống và Đức Phật sống tiếp tục trong một thời gian dài.
Hãy vui hưởng sự
sống
Thở và biết rằng mình
sống thật là điều tuyệt vời. Vì ta còn sống, nên ta còn bao nhiêu chuyện
có thể làm. Tăng thân, cộng đồng của những người tu tập có
thể tiếp tục. Giáo hội có thể tiếp tục. Xin đừng phí một
giây phút nào. Mỗi giây phút đều là dịp để thở sự sống vào Bụt, Pháp, và Tăng.
Mỗi giây phút đều cho ta cơ hội để thể hiện Cha, Con, và Thánh
Thần.
"Có một người
sinh ra trên trái đất để mang lại bình an hạnh phúc cho muôn
loài. Vị đó là ai vậy?" kinh Anguttara Nikaya hỏi câu đó. Đối với người Phật
tử, vị đó là Bụt. Đối với tín hữu Thiên Chúa Giáo, vị đó là Chúa Giêsu. Bằng
chính đời sống hằng ngày của quý vị, quý vị có thể giúp các
Ngài tiếp tục sống. Quý vị chỉ cần đi trong tỉnh thức, bước từng
bước an hòa và hạnh phúc trên hành tinh của chúng ta. Hãy thở thật
sâu và vui hưởng hơi thở của quý vị. Hãy ý thức về
bầu trời xanh và tiếng chim hót ngọt ngào. Hãy vui hưởng sự sống, quý
vị sẽ giúp Đức Chúa Ki Tô Sống và Đức Bụt Sống tiếp tục lâu dài, mãi
mãi.
Thích Nhất Hạnh (1995)
-----
Đức phật sống, Đức Kitô sống của Thích
Nhất Hạnh
Chúng ta thường nghĩ về hòa bình là sự vắng mặt của chiến tranh,
rằng nếu các quốc gia hùng mạnh sẽ giảm kho vũ khí của họ, chúng ta có thể có
hòa bình. Nhưng nếu chúng ta nhìn sâu vào vũ khí, chúng ta sẽ thấy tâm trí
của chính mình - những định kiến, nỗi sợ hãi và sự thiếu hiểu biết của chính chúng
ta. Ngay cả khi chúng ta vận chuyển tất cả các quả bom lên mặt trăng, gốc
rễ của chiến tranh và gốc rễ của bom vẫn còn đó, trong trái tim và tâm trí của
chúng ta, và sớm hay muộn chúng ta sẽ tạo ra những quả bom mới.
Làm việc vì hòa bình là nhổ bật chiến tranh từ chính chúng ta và
từ trái tim của đàn ông và phụ nữ. Để chuẩn bị cho chiến tranh, để cho
hàng triệu đàn ông và phụ nữ có cơ hội thực hành giết chóc cả ngày lẫn đêm, là
gieo hàng triệu hạt giống bạo lực, giận dữ, thất vọng và sợ hãi sẽ được truyền
qua nhiều thế hệ.
Khi chúng ta tôn trọng tổ tiên máu và tổ tiên tâm linh của chúng
ta, chúng ta cảm thấy bắt nguồn từ đó. Nếu chúng ta tìm cách trân trọng và
phát triển di sản tinh thần của mình, chúng ta sẽ tránh được sự xa lánh đang
hủy hoại xã hội, và chúng ta sẽ trở lại toàn diện. Học cách chạm sâu vào
những viên ngọc quý của truyền thống của chúng ta sẽ cho phép chúng ta hiểu và
đánh giá cao các giá trị của các truyền thống khác, và điều này sẽ có lợi cho
tất cả mọi người.
Chúng tôi khao khát sự trường tồn, nhưng mọi thứ đang thay
đổi. Chúng tôi mong muốn một cách tuyệt đối, nhưng ngay cả những gì chúng
tôi gọi là Tự bản thân của chúng tôi là vô thường. Chúng tôi tìm kiếm một
nơi mà chúng tôi có thể cảm thấy an toàn và an toàn, một nơi mà chúng tôi có
thể dựa vào trong một thời gian dài. Khi chúng ta chạm đất, chúng ta cảm
thấy sự ổn định của trái đất và cảm thấy tự tin. Khi chúng ta quan sát sự
ổn định của ánh nắng mặt trời, không khí và cây cối, chúng ta biết rằng chúng
ta có thể tin tưởng vào mặt trời mọc mỗi ngày và không khí và cây cối sẽ ở đó
vào ngày mai.
Bởi vì bạn còn sống, mọi thứ đều có thể. Sự giác ngộ luôn
luôn có. Sự giác ngộ nhỏ sẽ mang lại sự giác ngộ lớn. Nếu bạn hít vào
và nhận thức được rằng bạn còn sống mà bạn có thể chạm vào phép màu của việc
sống còn thì đó là một sự giác ngộ.
Khi chúng ta bị cuốn vào các ý niệm, nghi lễ và các hình thức
bên ngoài của thực tiễn, chúng ta không chỉ không thể tiếp nhận và thể hiện
tinh thần của truyền thống của chúng ta, chúng ta trở thành một trở ngại cho
các giá trị thực sự của truyền thống được truyền tải. Chúng ta đánh mất
những nhu cầu thực sự và sự đau khổ thực sự của con người, và việc giảng dạy và
thực hành, nhằm mục đích giảm bớt đau khổ, bây giờ gây ra đau khổ. Những
thực hành hẹp hòi, cơ bản và giáo điều luôn khiến mọi người xa lánh, đặc biệt
là những người đang đau khổ.
Chúa Jêsus đã nói, nếu những người dẫn dắt bạn nói với bạn, 'Hãy
nhìn xem, Vương quốc đang ở trên bầu trời', thì những con chim trời sẽ đến đó
trước. Nếu họ nói, 'Nó ở dưới biển', thì cá sẽ đến đó trước. Thay vào
đó, Vương quốc ở trong bạn, và nó ở bên ngoài bạn. Khi bạn biết mình, thì
bạn sẽ được biết đến, và bạn sẽ nhận ra rằng chính bạn là con của Cha
sống. Nhưng nếu bạn không biết chính mình, thì bạn sẽ sống trong nghèo
khổ.
Nó là cần thiết để chết để được tái sinh. Ngay khi bạn trải
nghiệm vô thường, vô ngã và đan xen, bạn được tái sinh. Nhưng nếu cây
không trở nên im lìm vào mùa đông, nó không thể tái sinh vào mùa xuân.
Chúa Giêsu nói rằng trừ khi bạn được tái sinh
khi còn nhỏ, bạn không thể vào Nước Thiên Chúa. Thomas Merton đã
viết, kinh nghiệm sống về tình yêu
thiêng liêng và Chúa Thánh Thần là một nhận thức thực sự rằng một người đã chết
và sống lại trong Chúa Kitô. Đó là một kinh nghiệm về đổi mới thần bí, một
sự biến đổi bên trong hoàn toàn do sức mạnh của tình yêu thương xót của Thiên
Chúa, ngụ ý 'cái chết' của cái tôi tự cho mình là trung tâm và tự cung tự cấp
và sự xuất hiện của một người mới và tự do sống và hành động trong tinh thần
Tất cả mọi thứ, ngay cả cây và mây, đã kết hợp với nhau để mang
lại sự hiện diện của cơ thể bạn. Giữ cho cơ thể bạn khỏe mạnh là cách tốt
nhất để bày tỏ lòng biết ơn của bạn đối với toàn bộ vũ trụ, với tất cả tổ tiên
và cũng không để phản bội các thế hệ tương lai. Bạn thực hành giới luật
này cho tất cả mọi người.
Nếu bạn khỏe mạnh, mọi người đều có thể hưởng lợi từ nó. Khi
bạn có thể thoát ra khỏi vỏ bọc của bản thân nhỏ bé của mình, bạn sẽ thấy rằng
bạn có liên quan đến tất cả mọi người và mọi thứ, rằng mọi hành động của bạn
được liên kết với toàn thể nhân loại và toàn bộ vũ trụ.
Đức tin của chúng ta phải còn sống. Nó không thể chỉ là một
tập hợp của niềm tin và quan niệm cứng nhắc. Đức tin của chúng ta phải
phát triển mỗi ngày và mang lại cho chúng ta niềm vui, hòa bình, tự do và tình
yêu. Đức tin ngụ ý thực hành, sống cuộc sống hàng ngày của chúng ta trong chánh
niệm.
Một số người nghĩ rằng cầu nguyện hoặc thiền chỉ liên quan đến
tâm trí hoặc trái tim của chúng ta. Nhưng chúng ta cũng phải cầu nguyện
với cơ thể của mình, với những hành động của chúng ta trên thế giới. Và
hành động của chúng ta phải được mô phỏng theo những người của Đức Phật sống
hoặc Chúa Kitô hằng sống. Nếu chúng ta sống như họ đã làm, chúng ta sẽ có
sự hiểu biết sâu sắc và hành động thuần khiết, và chúng ta sẽ chia sẻ để giúp
tạo ra một thế giới hòa bình hơn cho con cái chúng ta và tất cả con cái của Chúa.
~ Viết bởi Thích Nhất Hạnh ~
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét