Khoa học thực nghiệm và khoa học chiêm tinh thần bí.
Sudeih Babu,
nhà chiêm tinh giỏi nhất Ấn Ðộ
--------------------
Giáo sư
Olivers hỏi.
-"Nhưng
tại sao các tinh tú ở xa lại ảnh hưởng đến từng cá nhân được?"
Babu thong thả
trả lời:
"Nếu
tinh tú ở xa quá thì khoa học thực nghiệm giải thích thế nào về ảnh hưởng của mặt
trăng đối với nước thủy triều lên xuống hoặc chu kỳ trong thân thể đàn
bà?"
"Nhưng nếu
tôi bị tai nạn thì điều đó ăn nhập gì đến các hành tinh?"
Babu lắc đầu
mỉm cười:
"Các ông
nên nghĩ thế này, tinh tú chỉ là biểu tượng mà thôi. Tự nó không ăn nhập gì đến
chúng ta hết mà chính cái dĩ vãng của ta đã ảnh hưởng đến đời sống hiện tại.
Tinh tú chỉ phản chiếu lại cái ảnh hưởng này mà thôi. Không ai có thể hiểu khoa
chiêm tinh nếu họ không tin luật Luân Hồi (Reincarnation). Con người chết và
tái sinh trở lại trong nhiều kiếp. Ðịnh mệnh của y theo dõi và ảnh hưởng lên đời
sống của y theo luật Nhân Quả (Karma of cause and effect). Nếu ta không tin con
người chết đi và đầu thai lại để học hỏi, để tiến hóa, để trở nên một người
toàn thiện thì mọi sự đều là ngẫu nhiên hay sao? Một Thượng Ðế công bình, bác
ái có lẽ nào dung túng điều này?
Khi qua đời
thể xác hư thối tan rã nhưng tính tình, dục vọng, ý chí vẫn còn nguyên cho đến
khi ta đầu thai vào một kiếp sống mới thì những tính này sẽ trở nên cá tính
(personality) của kiếp sau. Các hành tinh chỉ là tấm gương ghi nhận các nguyên
nhân này và phản chiếu trở lại. Bất cứ một hành động nào cũng tạo nên một
nguyên nhân dù xấu hay tốt ví như ta ném một trái bóng lên không trung. Trước
sau gì nó cũng rơi xuống vì trọng lượng và ảnh hưởng của sức hút trái đất,
nhưng đến khi nào nó rơi xuống còn tùy sức ném của ta nặng nhẹ ra sao. Khoa
Chiêm tinh nghiên cứu các vũ trụ tuyến này để đoán được khi nào cái nguyên nhân
trước sẽ trở lại. Babu im lặng một lúc và thong thả giải thích thêm:
"Trước
khi đi xa hơn, tôi muốn các ông hiểu lịch sử chiêm tinh để có một cái nhìn thật
đứng đắn. Từ ngàn xưa, Chiêm tinh học vẫn được coi là một khoa học quan trọng.
Chiêm tinh gia chỉ đứng ở địa vị thứ hai sau Giáo Sĩ mà thôi. Ðối tượng của
khoa chiêm tinh là vũ trụ. Tiếc thay phần này đã bị thất truyền chỉ còn phần nhỏ
nói về sự liên hệ giữa con người và các bầu tinh tú còn được lưu truyền đến nay
và được xem là khoa bói toán. Khoa chiêm tinh có từ lúc nào không ai biết nhưng
hiền triết Bhrigu đã truyền dạy các môn đồ của ông vào khoảng 6000 năm trước.
Nòng cốt của nó nằm trong bộ sách Brahma Chinta do ông soạn ra. Bhrigu có bốn đệ
tử: Người thứ nhất rất giỏi về khoa học đã đi sang Ba Tư lập nghiệp, từ đó
ngành Chiêm tinh đi về hướng Tây và ảnh hưởng đến Hy Lạp và La Mã sau này. Người
thứ hai rất giỏi về triết học đi về phương Ðông sang Trung Hoa truyền bá ngành
này ở đây. Người thứ ba thích nghiên cứu những hiện tượng siêu hình đã lên Tuyết
Sơn nhập thất và sau truyền môn này cho dân chúng Tây Tạng. Người thứ tư ở lại
xứ Ấn và làm đến chức quốc sư. Bộ sách Brahma Chinta được coi là quốc bảo cất
trong cung điện.
Sau này, các
hoàng tử tranh cướp ngôi vua đã giành nhau bộ sách quý. Sau mấy chục năm chinh
chiến, bộ sách được phân chia làm nhiều phần, mỗi ông Hoàng giữ một mảnh và từ
đó khoa Chiêm tinh trở nên thất truyền--- Các mẫu vụn này đã được các thầy bói
sưu tầm, ghi chép lại để kiếm ăn nhưng họ chỉ nắm một vài then chốt chứ không
sao hiểu hết. Như các ông thấy, căn nhà này rất lớn, gồm có 49 phòng, mỗi phòng
đều chứa đầy các sách vở do tôi sưu tầm. Tất cả gia tài sự nghiệp của tôi đều
được sử dụng để sưu tầm các sách cổ--- Tôi xuất thân từ một gia đình Hoàng tộc
nhưng tôi chỉ ham mê khoa Chiêm Tinh. Tôi bỏ ra mấy chục năm nghiên cứu, theo học
các vị Chiêm Tinh Gia nổi tiếng cho đến khi sưu tầm được bộ Brahma Chinta. Dĩ
nhiên, bộ sách này nguyên bản mấy ngàn trang nhưng tôi chỉ sưu tầm được có vài
trăm trang và tốn gần 20 năm nghiên cứu nó.
Babu mỉm cười
nhìn giáo sư Olivers:
"Bạn
Olivers thân mến, lá số tôi lấy cho ông rất khác thường so với người Âu. Tin
hay không tùy ý bạn, đúng hay sai chỉ bạn biết nhưng tôi muốn nói thêm rằng các
nghiệp quả đã trả xong. Ðời bạn đã bước vào một khúc quanh quan trọng. Lá số
cho thấy bạn đã đến bên thềm Ðạo và sẽ được một sự dìu dắt của một hiền giả."
Giáo sư
Olivers cảm động xiết chặt đôi tay gầy guộc của nhà Chiêm Tinh. Toàn thể phái
đoàn cũng xúc động không kém. Khi trước họ đã nghi ngờ khoa bói toán nhưng sự
kiện vừa xảy ra đã thay đổi tất cả. Không ai ngờ giáo sư Olivers lại có một đời
sống cá nhân bất hạnh như thế.
"Chúng
ta chỉ mới ở vào một buổi bình minh của khoa học nhưng mỗi khám phá mới, mỗi kiến
thức mới đều đem lại cho chúng ta một bằng chứng rằng vũ trụ nầy là công trình
của một Ðấng Hóa Công.
Hãy lấy một
thí dụ Toán học cho dễ hiểu: Nếu ta bỏ vào túi 10 thẻ nhỏ, mỗi thẻ có ghi từ số
1 đến 10 và tuần tự rút ra tùng cái một. Sau khi rút xong ta lại bỏ thẻ vào
túi, trộn đều và rút ra lần nữa. Làm sao ta có thể rút tuần tự từ số 1 dến số
10? Theo toán học ta phải rút mười lần mới có một lần rút được thẻ mang số 1.
Phải rút 100 lần mới có một lần rút được số 1 và 2. Phải rút 1000 lần mới được
số 1,2,3 liên tiếp. Nếu muốn rút theo thứ tự từ 1 đến 10 thì trường hợp đặc biệt
này chỉ có thể xẩy ra một lần trong mười tỷ lần có đúng không? Nếu áp dụng Toán
Học vào các điều kiện tạo đời sống ở quả đất này thì ta thấy nguyên lý ngẫu
nhiên không sao hội đủ các điều kiện cần thiết. Vậy thì ai đã tạo ra nó?
Trái đất quay
quanh trục của nó với vận tốc 1600 cây số một giờ ở giữa đường xích đạo. Nếu nó
quay chậm 10 lần thì ngày sẽ dài gấp 10 và dĩ nhiên sức nóng cuả mặt trời cũng
gia tăng gấp 10 lần. Thế thì cây cối, sinh vật đều bị thiêu sống hết còn gì. Nếu
cái gì chống được sức nóng cũng chết lạnh vì đêm cũng dài ra gấp 10 và sức lạnh
cũng tăng lên gấp 10 lần kia mà. Ai đã làm trái đất quay trong một điều kiện tốt
đẹp như thế?
Mặt trời là
nguồn sống của quả đất phải không? Mặt trời nóng khoảng 5500 độ bách phân. Quả
địa cầu ở đúng một vị trí tốt đẹp không xa quá mà cũng không gần quá. Vừa vặn đủ
để đón nhận sức nóng của mặt trời. Nếu sức nóng mặt trời gia tăng một chút, ta
sẽ chết thiêu và ngược lại nếu sức nóng mặt trời giảm đi một chút, ta sẽ chết
rét. Tại sao trái đất nằm ở điều kiện thuận lợi như vậy? Trục trái đất nghiêng
theo một tà độ là 23 độ. Nếu trái đất đứng thẳng không nghiêng theo bên nào thì
sẽ không có thời tiết bốn mùa. Nước sẽ bốc hơi hết về hai cực và đông thành băng
giá cả.
Mặt trăng là
một vệ tinh của trái đất điều khiển thủy triều biển cả. Nếu nó không cách xa
trái đất 380000 cây số mà xích lại gần hơn 80000 cây số thì một cuộc hồng thủy
sẽ xảy ra. Nước sẽ bị sức hút dâng lên ngập tất cả các lục địa mỗi ngày hai lần.
Tóm lại tất cả mọi đời sống trên mặt địa cầu sẽ biến mất nếu các điều kiện trên
sai lệch đi một ly. Nếu nói rằng đời sống chỉ là một sự ngẫu nhiên thì trong tỷ
tỷ lần may ra mới có một điều kiện tốt đẹp hoàn toàn để có sự sống như thế được."
Babu yên lặng
nhìn mọi người. Không ai có thể ngờ nhà chiêm tinh xứ Ấn lại có thể sang sảng
chứng minh một cách khoa học và hùng biện trước một cử tọa toàn những khoa học
gia nổi tiếng nhất ở Âu Châu.
Babu quay
sang nhìn giáo sư Allen, một nhà sinh vật học của trường Havard:
"Nếu toán học xem có vẽ trừu tượng quá hãy thử quan sát thiên nhiên dưới cái nhìn của khoa Sinh Vật Học (Biology) xem sao:
"Nếu toán học xem có vẽ trừu tượng quá hãy thử quan sát thiên nhiên dưới cái nhìn của khoa Sinh Vật Học (Biology) xem sao:
Với khả năng
sinh tồn của mọi vật, ta thấy sự hiện diện của tạo hóa rất chu đáo. Sự sống
không có sức nặng hay bề đo mà mạnh mẽ làm sao? Bạn hãy nhìn một rễ cây non nớt,
mềm yếu, vậy mà nó có thể soi nứt một tảng đá cứng rắn. Sự sống chinh phục
không khí, đất, nước. Nó thống trị mọi nguyên tố, nó bắt buộc vật chất tan rã rồi
lại kết hợp thành các hình thể mới. Sự sống là nhà điêu khắc nặn thành những
hình thể mới lạ, là họa sĩ vẽ những cảnh vật thiên nhiên tô điểm cho tạo hóa. Sự
sống cũng là nhạc sĩ dạy chim hót thánh thót, dạy côn trùng ngân nga, là nhà
hóa học chế các hương thơm, quả ngọt. Sự sống từ các loài thảo mộc thu hút thán
khí biến thành dưỡng khí nuôi muôn loài. Hãy nhìn những giọt Nguyên sinh chất
(Protoplasm) trong suốt gần như vô hình, mắt ta không thể nhìn thấy mà nó di động
nhờ hấp thụ sinh khí thái dương. Chính cái tế bào đơn độc này chứa mầm sống của
muôn loài và là cội nguồn của toàn sự sống theo khoa học thực nghiệm. Tự nó
không tạo ra sự sống vậy thì sự sống ở đâu đã đến?
Này các ông bạn,
cá hồi (Salmon) sinh ra ở nước ngọt, theo dòng nước ra biển và sống ở đây cho đến
khi trưởng thành rồi lại trở về nguồn. Hãy nhìn nó lội ngược dòng về sinh quán,
nó bơi một mạch đâu hề phân vân lưỡng lự. Nếu ta bắt nó đem đến một chỗ khác,
nó vẫn trở lại nơi xưa. Ai đã dạy cho nó phân biệt một cách chắc chắn như vậy?
Loài lươn biển cũng thế, chúng rời sinh quán từ các ao hồ, sông lạch khắp nơi
trên thế giới để bắt đầu một cuộc du hành đến tận ngoài khơi quần đảo Bermuda.
Muốn đến đây một con lươn Âu Châu phải đi gần 4000 cây số, lươn Á Châu phải đi
xa hơn có khi gần 8000 cây số. Chỉ tại đây chúng mới sinh sản và chết. Các con
lươn con sinh ra tại đây không biết gì về sinh quán mà vẫn trở về quê hương xa
xôi của cha mẹ chúng nó. Biết tìm về một cái lạch ở Pháp hay một cái hồ ở Nam
Dương. Giống nào về nhà giống đó, một con lươn Pháp không bao giờ bị bắt ở Ấn Ðộ
và một con lươn giống Thái Lan không bao giờ đi lạc sang Phi Châu. Ai đã ban
cho loài lươn nguồn cảm kích phân biệt như thế? Ai đã hướng dẫn những con lươn
bé bỏng trên đường phiêu du ngàn dặm như vậy? Chắc chắn không thể do ngẫu nhiên
phải không các bạn?
Toàn thể phái
đoàn kinh ngạc trước kiến thức quảng bác của nhà chiêm tinh gầy gò, bé nhỏ.
Không ai ngờ một xứ chậm tiến như Ấn lại có một nhà bác học uyên thâm như vậy.
Babu mỉm cười nói tiếp:
"Có lẽ
các ông còn nhiều phân vân, thôi được hãy nói về yếu tố di truyền cho thực tế
hơn. Yếu tố này là một mầm sống nguyên thủy rất nhỏ chứa đựng trong tất cả các
tế bào. Mọi sinh vật đều có đặc điểm di truyền khác nhau. Yếu tố này cho ta thấy
rõ sự sống đã được trù định từ trước vì một cái cây sẽ tạo ra một cái cây chứ
không phải con vật. Từ các loại sinh vật bé nhỏ như con kiến đến các loài sinh
vật to lớn như cá voi đều chịu sự chi phối của yếu tố này.
Ðiều này chắc chắn không phải ai nghĩ ra hay ngẫu nhiên phải không? Chỉ có Ðấng Sáng Tạo mới có đủ quyền năng làm các việc đó. Này các bạn, khắp nơi trong vũ trụ đâu đâu cũng có một sự quân bình tuyệt đối, không loài nào lấn át loài nào. Hãy nhìn loài côn trùng, chúng sinh sản rất nhanh mà sao không chiếm quả đất? ấy là vì chúng không có bộ phổi như loài có vú (Mamma). Vì chúng thở bằng khí quản (Trachea) và khi chúng lột xác lớn lên, khí quản không lớn lên theo nên thân thể chúng bị giới hạn trong khuôn khổ nhất định. Con người hơn loài thú ở điểm lý trí. Bản năng con thú tuy kỳ diệu nhưng bị giới hạn. Bộ óc con người tuyệt vời ở chỗ nó có thể vượt xa tầm giới hạn của nó. Muốn quan niệm sự hiện hữu của Thượng Ðế, cần phải có một năng khiếu mà chỉ loài người mới có. Ta có thể gọi nó là trí tưởng tuợng cũng được nhưng nhờ nó mà con người mới thu nhận các sự kiện vô hình, vô ảnh. Trí tưởng tượng mở cho ta một chân trời bao la và nhờ thế ta mới ý thức một thực tại tuyệt diệu rằng Thượng Ðế là tất cả, ngài ở khắp mọi nơi nhưng không ở đâu Ngài hiện rõ như trong tâm hồn chúng ta."
Toàn thể phái
đoàn yên lặng, thán phục những dẫn chứng hoàn toàn khoa học và giản dị của nhà
chiêm tinh. Vài giờ trước đây, ai cũng nghi ngờ khả năng của "Gã thầy
bói" nhưng hiện giờ mọi người đều công nhận y là một nhà bác học với kiến
thức uyên bác không thua ai.
Babu mỉm cười
nhìn tất cả mọi nguời và nói:
"Là khoa
học gia, các ông hãy suy nghĩ về những điều tôi vừa trình bày. Hãy quan sát vũ
trụ, hãy dẹp bỏ các thành kiến sẵn có và sự ngông cuồng của khoa học thực nghiệm
rồi các ông sẽ thấy tất cả đều diễn ra trong một trật tự, mỹ lệ và điều hòa.
Các ông sẽ ý thức sự bé nhỏ của con người trước vũ trụ bao la vì khoa học xây dựng
trên căn bản của giác quan vốn rất giới hạn, sao có thể cảm xúc vũ trụ được? Nếu
ta cứ khăng khăng cho rằng những cái gì không nghe được, không nhìn được đều
không hiện hữu thì thật là một sai lầm tai hại. Có biết bao nhiêu sự kiện xảy
ra mà giác quan giới hạn không thể cảm nhận cho đến một ngày nào họ khai mở các
giác quan khác..."
Từ xưa đến
nay khoa Chiêm tinh vẫn bị người đời hiểu lầm và diễn tả sai lạc rất nhiều. Nhờ
nghiên cứu bộ sách nguyên thủy Brahma Chinta nên tôi có thể nói cho các ông biết
chút ít về khoa học này với hy vọng sẽ đánh đổ phần nào thành kiến sai lầm của
người Âu.
Khi sinh ra đời,
mỗi cá nhân đều mang sẵn một tài sản khác nhau đó là Nghiệp Báo. Tài sản này có
thể tốt đẹp do các nguyên nhân hợp với Thiên Ý hoặc xấu xa bởi các lỗi lầm
trong tiền kiếp. Tất cả nguyên nhân này đều chứa chấp trong Tàng Thức (A Lại Da
thức) và trở nên một động lực chi phối đời ta. Ðộng lực này được phân phối bởi
các mãnh lực trong vũ trụ một cách vô cùng phức tạp và biến thành một thứ gọi
là Vũ Trụ Tuyến (Cosmic rays). Những vũ trụ tuyến này không ồ ạt ảnh hưởng đến
ta ngay mà tùy theo sự thay đổi của tinh tú để phản chiếu xuống trần gian. Ðiều
này rất hợp lý vì trải qua vô lượng kiếp sống, con người đã làm biết bao điều xấu
xa, đâu thể nào trong vài ba kiếp mà trả hết được. Ðó cũng là lý do con người cứ
trầm luân trong luân hồi sinh tử.
Chiêm tinh học
nghiên cứu sự xê dịch, vận hà của tinh tú mà đoán biết được các ảnh hưởng con người
trong kiếp sống này. Nhờ nghiên cứu Chiêm Tinh mà người ta hiểu rõ rằng không hề
có một Ðấng Thần Linh thưởng phạt hay kiểm soát các hành động của ta. Tất cả chỉ
là hậu quả của những gì do ta tạo nên và phải gánh chịu."
"Nhưng
chính ông đã đề cập đến Thượng Ðế và sự hiện hữu của Ngài kia mà?" Babu bật
cười:
"Các ông
vẫn còn quan niệm rằng Thượng Ðế là một ông già ngồi trên cao nắm quyền sinh
sát, định đoạt số phận con người - đó là một quan niệm rất ấu trĩ. Thượng Ðế
cao cả hơn nhiều - Ngài sáng tạo và đặt tất cả vào một trật tự trong vũ trụ.
Làm gì có việc ngài định đoạt số phận từng người như các ông nghĩ. Tất cả diễn
tiến theo luật vũ trụ - nhân nào quả nấy, một lực nào cũng có một phản lực đi
kèm đó là khoa vật lý chứ đâu phải gì xa lạ? Làm gì có việc số mệnh đã định sẵn,
nếu thế ta cứ tiêu cực, bất động mặc cho số phận run rủi hay sao? Này các ông bạn,
Chiêm Tinh Học là một khoa học thực tiễn và tiến bộ không thể có vấn đề mê tín.
Lá số tử vi không có nghĩa là con người chỉ là nô lệ của quá khứ mà chỉ cho ta
thấy rõ sự tuần hoàn của vũ trụ mà trong đó con người có thể thay đổi tính mạng.
Chiêm Tinh Học
nghiên cứu phản ứng của con người dưới ảnh hưởng tinh tú. Các tinh tú chỉ là những
khí cụ trung gian biểu lộ một cách trung thực các tác động quân bình của nghiệp
quả gây nên trong quá khứ. Mỗi người sinh ra đời vào một ngày giờ mà ảnh hưởng
của tinh tú hòa hợp với nghiệp quả cá nhân của y. Các vũ trụ tuyến được tinh tú
phản chiếu xuống làm mạch máu di chuyển, tế bào thay đổi dĩ nhiên ảnh hưởng đến
cuộc đời con người. Mặc dù con người không thể thay đổi việc đã xảy ra trong
quá khứ nhưng nhờ ý chí tự do, y có thể vượt khỏi tầm ảnh hưởng này và chiến thắng
ảnh hưởng tinh tú.
Tôi lấy một
thí dụ như thương gia Keymakers bạn của các ông. Ðáng lý theo số mạng thì ông
ta phải chết trong cuộc chiến vừa qua. Nhưng vì một mầm thiện nẩy sinh, thấy
chiến tranh quá ư tàn khốc ông động lòng trắc ẩn mang tài sản ra giúp đỡ rất
nhiều nạn nhân chiến cuộc. Dĩ nhiên, khi đó ông ta không hề biết gì về số mạng
của mình nhưng hành vi bác ái này đã tạo một phản lực mạnh mẽ thúc đẩy các vũ
trụ tuyến xê dịch sang một bên và nhờ thế ông ta thoát chết. Số mạng của ông ta
hoàn toàn thay đổi từ đó. Các ông hiểu rằng hoán cải số mạng không có nghĩa việc
quá khứ sẽ bị xóa bỏ nhưng đáng lý một biến cố lớn sẽ xẩy ra trong kiếp này lại
không xảy ra. Khi ta phát tâm làm một việc hợp với Thiên Ý thì một ảnh hưởng
tinh tú bỗng chói sáng và các từ điện mạnh mẽ đẩy ngược luồng vũ trụ tuyến sang
hướng khác. Do đó, con người có thể cải mệnh số dễ dàng nếu biết làm các việc tốt
lành, đẹp đẽ. Dĩ nhiên, ảnh hưởng xấu không mất đi nhưng sẽ tiềm ẩn, chờ một cơ
hội khác sẽ phát hiện lại. Nói một cách khoa học thì đời người có thể ví như một
phương trình toán học A * B equals C. A và B là nguyên nhân và C là hậu quả
nhưng nếu ta thêm vào đó một nguyên nhân X thì A * B * X sẽ không thể bằng C nữa
vì đã có thêm nguyên tố X. Ðó là nguyên lý hoán cải số mạng mà tôi vừa trình
bày.
Ðời người thực
ra đã ghi khắc trên tinh tú nhưng các tinh tú khi sáng khi mờ và sự mờ tỏ do
chính ta quyết định. Khi ta có các hành vi xấu xa nó tạo ra những động lực xấu
và sẽ thu hút các điều xấu ghi khắc trên tinh tú phản chiếu xuống mau lẹ hơn.
Dĩ nhiên hậu quả không thể lường. Trái lại, nếu ta ý thức điều này, phát tâm
làm việc hữu ích tự nhiên phát sinh các động lực tốt đánh bật các ảnh hưởng xấu
sang một bên. Nhờ nghiên cứu Chiêm Tinh Học một cách đứng đắn, khoa học, con
người sẽ hiểu biết mệnh trời, biết tin tưởng ở mình và sống cuộc đời thoải mái,
không bi quan, không lạc quan, an vui tự tại."
"Như thế
người đi trên đường Ðạo sẽ gặp gì khi đã có nghiệp quả xấu?"
"Nghiệp
quả xấu ví như một án treo, bất động - nhưng không ai có thể tránh được nó. Ðối
với những người đã vào cửa Ðạo, đã hiểu biết thì họ lại cầu xin được trả quả
cho lẹ. Tuy họ không gây các nhân xấu nữa nhưng họ đủ can đảm để chịu đựng nghiệp
quả. Có thế họ mới rút ngắn thời gian trong sinh tử luân hồi. Hiểu biết mệnh trời
để sống thoải mái chính là mục đích khoa Chiêm Tinh chân chính."
"Vạn vật
trong vũ trụ dù ở cõi vô hình hay hữu hình đều được sắp hạng và phân loại theo
quy mô của số 7. Tất cả mọi hình thức sinh hoạt trong dãy hành tinh hiện tại đều
thuộc một trong 7 cung. Mỗi cung có 7 phân bộ hay 49 nhóm.
Toàn thể Thái
Dương hệ của chúng ta đều là sự biểu lộ của Thượng Ðế, mỗi phần tử trong đó đều
là một phần của Ngài. Ngoài ra có 7 vị tinh quân (Logoi) mỗi vị kiểm soát một
cung. Thật ra các vị này chỉ là những trung tâm thần lực những con đường vận hà
để thần lực Thượng Ðế ban rãi ra. Con người có ba thể chính là thể xác, thể vía
và thể trí tương ứng với ba cõi giới Hạ Giới, Trung Giới và Thượng Giới. Thượng
Ðế cũng thế. Tất cả vật chất trong Hạ Giới hợp thân thể xác của Ngài. Tất cả vật
chất cõi Trung Giới hợp thành Vía của Ngài và tất cả vật chất cõi Thượng Giới hợp
thành thể Trí của Ngài. Tóm lại, tất cả đều là thành phần của Thượng Ðế từ hạt
bụi đến các dãy Thiên Hà. Mọi nguyên tử vật chất cấu tạo nên chúng ta đều là một
phần của Thượng Ðế xuyên qua 7 cung - khi qua đây nó bị thay đổi ít nhiều tùy ảnh
hưởng các cung. Khoa chiêm tinh có thể phân biệt người nào chịu ảnh hưởng cung
nào tùy số lượng nguyên tử cấu tạo xuất phát từ cung liên hệ."
Babu nhìn mọi
người thấy cũng có vẻ ngơ ngác. Y mỉm cười giải thích:
"Ðề tài
này rất khó hiểu, thôi để tôi giải thích rộng ra vậy. Nói theo danh từ Thiên
Chúa Giáo thì Bảy vị Tinh Quân (Logoi) này đã xuất hiện trong linh ảnh (Vision)
của Thánh Jean. Sách Khải Huyền 4.5 nói rõ: "Có 7 ngọn đèn thắp trước
Ngài, đó là 7 vị Ðại Thiên Thần của Chúa Trời." Lúc khởi thủy mọi người
chúng ta đều là thành phần của Thượng Ðế nghĩa là cùng bắt nguồn từ một nơi.
Sau đó, chúng ta tách rời ra xuyên qua 7 con đường vận hà này. Theo sự hiểu biết
của tôi thì 7 con đường biểu lộ 7 đức tính của Thượng Ðế qua 7 vị Tinh quân: Vị
thứ nhất là Thiên Thần Michael (Sức mạnh) liên hệ đến Hỏa Tinh. Vị thứ hai là
Gabriel (Toàn tri) liên quan đến Thủy Tinh. Vị thứ ba là Raphael (Quyền năng)
liên quan đến Thái Dương. Vị thứ tư là Uriel (Ánh sáng) liên quan đến Mặt
Trăng. Vị thứ năm là Zakiel (Hảo ý) liên quan đến Mộc Tinh còn hai vị kia là
Jophiel và Chamuel thì tôi không biết rõ hành tinh liên hệ.
Khoa học thực
nghiệm tin rằng các hành tinh đều là sự kết hợp ngẫu nhiên của vật chất. Nếu là
ngẫu nhiên tại sao chúng nằm ở các vị trí nhất định trong vũ trụ và di chuyển
theo một quỹ đạo cố định? Mọi vật dường như tuân theo một định luật thiên nhiên
nhưng đằng sau định luật đó luôn luôn có một sức mạnh thiêng liêng cai quản.
Tôi cố gắng dùng tên các vị thiên thần và danh từ Thiên Chúa Giáo để giải thích
cho các ông. Ðiều này có thể được diễn tả khác đi tùy quan niện tôn giáo, văn
hóa nhưng sự thật vẫn là một. Muốn hiểu khoa Chiêm Tinh phải đi ngược về nguồn
cội. Con người từ một chốn nguyên thủy ví như nước cùng một nguồn chảy theo bảy
dòng suối khác nhau để ra biển. Mỗi dòng suối sẽ mang một tính chất khác nhau,
do đó nước trong suối cũng chịu ảnh hưởng ít nhiều.
Loài người có
thể phân biệt ra 7 đức tính rõ rệt tùy theo con đường vận hà mà họ trải qua.
Khoa Chiêm Tinh nghiên cứu con người và ảnh hưởng hành tinh đến các tính nết nhất
định. Cũng như khoa Sinh Lý Học phân biệt con người qua tính chất nồng nhiệt, lạnh
nhạt, Bạch Huyết chất hay Ða Huyết chất. Thực ra đó chỉ là các phương pháp khác
nhau để trình bày tính chất con người.
Dĩ nhiên,
không dễ gì tìm ra cung của mỗi người vì y đã đi sâu trong luân hồi sinh tử, tạo
các nghiệp quả phức tạp và những nguyên nhân này chế ngự, ảnh hưởng đến tính
tình y rất nhiều. Chỉ với sự khai mở các giác quan như Thần Nhãn hay có một
kinh nghiệm sâu xa về huyền môn ta mới có thể biết rõ họ thuộc cung nào.
Nếu một người
biết rõ cung của mình và tiếp tục trau dồi bản tính sẵn có thì y sẽ tiến rất
nhanh vì khí cụ hữu hiệu nhất là phương pháp thuộc về cung liên hệ. Thí dụ như
người có khiếu về âm nhạc lại cứ học Toán. Không phải y sẽ không tiến bộ gì
nhưng nếu đi về âm nhạc y sẽ tiến nhanh hơn vì hợp với khả năng hơn. Sự hiểu biết
mình là ai, có những khả năng tiềm ẩn nào sẽ giúp ta định hướng đi cho chính
xác. Ðó mới là mục đích của khoa Chiêm Tinh.
Ða số con người
hành động không ý thức, chịu ảnh hưởng ngoại cảnh nên luôn bất mãn, không thoải
mái. Họ tự đóng kịch với chính mình hoặc sống theo một lề lối khuôn khổ không
thích hợp. Trong Kinh Thánh có câu: "Nếu các ngươi không hồn nhiên như trẻ
con, các ngươi không thể vào nước Thiên Ðàng". Ðiều này khuyên ta nên sống
thật với chính mình. Chiêm Tinh Học có thể giúp ta biết ta là ai, thích hợp với
những công việc gì? Sự nghiên cứu Chiêm Tinh như thế mới gọi là đứng đắn chứ
không phải chỉ xem quá khứ, vị lai, may rủi.
"Làm sao
con người có thể biết họ thích hợp với cung nào?"
"Một nhà
Chiêm Tinh giỏi có thể lấy lá số tử vi để xem cá nhân liên hệ với cung nào, điều
này đòi hỏi rất nhiều thời giờ, kinh nghiệm. Một phương pháp khác là hãy nhìn
hành động mỗi người: Người thuộc cung 1 sẽ đạt đến mục đích bằng sức mạnh ý
chí. Người thuộc cung 2 phân tích kỹ lưỡng vấn đề để lựa chọn phương pháp nào hữu
hiệu nhất. Người thuộc cung 3 nghiên cứu rất kỹ về thời gian, giờ khắc thuận lợi
nhất v.v... Một thí dụ khác như trong việc chữa bệnh, người thuộc cung 2 sẽ tìm
hiểu nguyên nhân và phương pháp nào thích hợp nhất để chữa khi người thuộc cung
3 sẽ nghiên cứu thời gian nào thuận lợi để chữa. Người thuộc cung 6 sẽ tìm cách
chữa bệnh bằng đức tin. Người thuộc cung 7 sẽ chữa bằng các nghi lễ, cúng tế
v.v... Tuy nhiên, cách tốt hơn hết là tự mình, xét lấy mình. Hãy dẹp bỏ những
điều mình vẫn khoác lên bản ngã như danh vọng, địa vị, ham muốn. Hãy thành thật
với chính mình thì ta có thể xem được mình thuộc về cung nào. Nếu ta là người
có ý chí mạnh mẽ, cương quyết làm việc trong tinh thần khoa học thì có lẽ ta
thuộc cung 1. Nếu ta là người khôn khéo, thích lý luận và làm việc một cách hiệu
quả thì có lẽ ta thuộc cung 2. Nếu ta là người nhạy cảm, thích hoạt động xã hội,
từ thiện thì có lẽ ta thuộc cung 5. Nếu ta là người có đức tin mạnh mẽ, cẩn thận,
có thể ta thuộc cung 7 v.v...
Ðề tài các
cung rất khó giải thích trong một thời gian ngắn. Tôi chỉ có thể nói vắn tắt
thôi: Cái vật chất sơ khai nguyên thủy bắt đầu tiến hóa qua 7 con đường vận hà
hay 7 đức tính quan trọng. Chỉ khi nào con người phát triển toàn vẹn cả 7 đức
tính này y sẽ trở nên toàn thiện. Dĩ nhiên, chúng ta đều bất toàn dù mỗi cá
nhân đã nẩy nở các đức tính cần thiết căn bản.
Người Âu Tây
đã khai mở rất nhiều khả năng suy luận, khoa học nhưng thiếu khả năng sùng tín,
bác ái. Vì lý trí nẩy nở nhiều hơn tình cảm nên họ có vẻ thiếu thiện cảm, lạnh
lùng thích chống báng thay vì dung hòa. Trong khi đó, người Á Châu phát triển mạnh
về sùng tín và bác ái nhưng thiếu khả năng suy luận, để tình cảm chi phối nên họ
có vẻ chịu đựng, nhượng bộ, khoan dung, dễ dãi. Cả hai đều không quân bình tuyệt
đối nên trong tương lai sẽ có các biến chuyển mạnh mẽ, xáo trộn để cả hai dân tộc
có dịp học hỏi, hòa hợp với nhau."
Babu im lặng
suy nghĩ một lúc rồi trầm giọng:
"Trong
cuộc đời nghiên cứu sách vở bí truyền của các tôn giáo, tôi không hề thấy có sự
khác biệt giữa các giáo lý nếu không nói là giống hệt nhau. Tiếc thay, con người
chỉ thích đi tìm sự khác biệt để chỉ trích, phê bình và càng ngày càng đi xa đến
chỗ vô minh cùng cực."
"Nhưng
các tôn giáo có khác biệt nhau chứ?"
Babu nhẹ
nhàng:
"Này các
bạn, mỗi quốc gia có phong tục, tập quán riêng biệt. Mỗi thời buổi đều có các
thay đổi, giá trị khác nhau do đó, một chân lý cũng có thể được giảng dạy bằng
các phương pháp khác nhau. Phương pháp, ngôn ngữ có thể khác nhưng chân lý vẫn
là một cũng như Thượng Ðế có 7 con đường vận hà khác nhau qua bảy cung. Nguyên
tử mỗi cung có các rung động khác nhau, có màu sắc khác nhau, tính chất khác
nhau nhưng nó đều là nguyên tử xuất phát từ Thượng Ðế. Nếu bạn thay đổi áo mặc
khác nhau thì bạn đâu có thay đổi, chiếc áo có thể khác nhưng người mặc áo vẫn
chỉ là một. Nếu các ông đi ngược về cội nguồn các ông sẽ hiểu sự thay đổi từng
thời kỳ qua ảnh hưởng tinh tú."
Giáo sư Allen
thắc mắc:
"Xin ông
giải thích thêm về việc này."
Babu trầm
ngâm suy nghĩ một lúc rồi trả lời:
"Trong 7
vị Tinh Quân có những biến đổi diễn ra từng thời kỳ giống như sự tuần hoàn của
hơi thở trong bộ máy hô hấp hay sự vận động của trái tim. Các sự biến đổi này
diễn ra vô cùng phức tạp dưới thiên hình vạn trạng. Vì lẽ thể vía con người được
cấu tạo cùng một nguyên tử với thể vía các vị Tinh Quân nên khi vị Tinh quân
thay đổi tự nhiên mọi người trên thế gian cũng ít nhiều ảnh hưởng theo. Nói một
cách khác, khi vị Tinh Quân cai quản một cung thay đổi thì những người đã đi
qua cung đó, nguyên tử cấu tạo có chứa đựng nhiều tỷ lệ của cung đó sẽ thay đổi
theo. Trong lịch trình tiến hóa, đã có những sự thay đổi trong đầu óc loài người
từng thời kỳ và do đó, văn minh nhân loại cũng đổi thay. Theo sự nghiên cứu của
tôi thì mỗi chu kỳ kéo dài khoảng 100 năm, nhưng cứ 25 năm cuối lại có các biến
chuyển gây ảnh hưởng cho chu kỳ kế tiếp.
"Như vậy
thì sự biến chuyển kỳ này sẽ bắt đầu vào khoảng 1975 cho đến năm 2000 và ảnh hưởng
đến thế kỷ 21?"
Babu gật đầu:
"Thật ra
chu kỳ không hoàn toàn trùng hợp từng năm, từng tháng vì niên lịch thông thường
không chính xác. Khoa Chiêm tinh xử dụng một thứ lịch khác theo sự vận chuyển của
các tinh tú. Tuy nhiên, để giản dị hóa vấn đề này ta có thể nói rằng cứ 25 năm
cuối của mỗi thế kỷ là buổi giao thời có nhiều sự thay đổi mãnh liệt."
Giáo sư
Mortimer buột miệng:
"Nhưng
đã có bằng chứng nào rằng cuối thế kỷ này sẽ có các thay đổi lớn?"
Babu mỉm cười
nhìn tất cả mọi người:
"Các ông
đều là người Âu, tôi xin dẫn chứng bằng lịch sử Âu Châu cho dễ hiểu. Các ông có
thể coi nó là sự trùng hợp ngẫu nhiên cũng được:
Năm 1275,
Roger Bacon phát động phong trào phục hưng văn hóa rồi suốt 100 năm sau toàn thể
Âu Châu đều thay đổi. Năm 1375, Christian Rosenkreuz phổ biến nền văn hóa này
khắp từng lớp dân chúng đưa Âu Châu thoát khỏi nền tảng hắc ám của thời kỳ
Trung Cổ. Năm 1275 và 1375 chả là 25 năm chót của thế kỷ 13 và 14 hay
sao?"
Giáo sư
Mortimer, một nhà bác học về Cổ ngữ và Lịch sử Âu Châu suy nghĩ:
"Quả thế,
phong trào phổ thông văn hóa bằng đường lối phục hưng đã cứu nguy cho sự suy đồi
của Âu Châu nhưng đó chỉ là hai trường hợp. Tôi thiết nghĩ muốn kết luận ta cần
nhiều dữ kiện rõ ràng hơn."
Babu mỉm một
nụ cười bí mật và xác định:
"Thế thì
ông nghĩ sao về việc phát minh ra máy in, kỹ thuật ấn loát vào năm 1473? Nhờ thế
tư tưởng các triết gia, giáo sĩ mới phổ thông khắp quần chúng, nâng cao dân trí
Âu Châu? Ông nghĩ sao về Francis Bacon và cao trào nghiên cứu khoa học năm
1578, xử dụng Anh Ngữ thay vì Latin để phổ biến kiến thức khoa học. Có phải những
việc này đã đem khoa học vào xã hội để cải thiện cuộc sống hay không? Việc này
xảy ra vào 25 năm cuối của thế kỷ 15 và 16.
Phải phục
hưng văn hóa, đưa Âu Châu khỏi các thành kiến bảo thủ đã rồi cải cách, phát triển
khoa học để mọi người biết suy luận sau đó, mới thay đổi xã hội được chứ. Văn
hóa đi trước phổ biến tư tưởng để dọn đường cho các thay đổi chính trị, xã hội
về sau.
Năm 1675, các
Hội kín bất đầu mọc lên kêu gọi san bằng giai cấp, dẹp tan bất công xã hội gây
nên bởi chế độ Bảo Hoàng. Năm 1789, cuộc cách mạng Pháp đã bùng nổ và thay đổi
hẳn lịch sử Âu Châu. Hai biến cố này đều xảy ra trong vòng 25 năm cuối của thế
kỷ 17 và 18. Từ đó đến nay chắc các ông đã thấy?"
Giáo sư
Mortimer toát mồ hôi trán, lịch sử Âu Châu đối với ông nào có xa lạ gì nhưng sự
giải thích của Babu đã làm ông bừng tỉnh.
Toàn thể phái
đoàn đều bàng hoàng khâm phục Babu. Trong một buổi chiều nhà Chiêm Tinh xứ Ấn
đã hùng biện dẫn chứng về Toán Học, Sinh vật Học, Triết Học, Tôn Giáo và cả lịch
sử Âu Châu như một học giả uyên bác nhất. Kiến thức của y đã chinh phục tất cả
mọi người.
Giáo sư
Mortimer run giọng:
"Vậy thì
theo ông việc gì sẽ xảy ra cho thế kỷ 20 này?"
Babu im lặng
suy nghĩ một lúc rồi trả lời:
"Năm
1875 đánh dấu một bước tiến quan trọng, đó là sự phát triển khoa học văn minh
cơ giới cùng thuyết "Tiến Hóa" của Darwin và phong trào Thiên Chúa
giáo tự do. Từ đây bắt đầu một cuộc tranh chấp giữa tinh thần và vật chất. Có
hai mãnh lực rất mạnh phát xuất từ hai bầu tinh tú đói cực gây nên phong trào
Duy Tâm và Duy Vật. Thế kỷ 20 bắt đầu với sự phát triển cực thịnh của thuyết
Duy Vật. Con người sẽ bị thúc đẩy vào các sự kiện vật chất, họ sẽ gặp các thử
thách mà nhu cầu bao tử, khoái cảm xác thân tranh đấu với nhu cầu tâm linh một
cách mãnh liệt. Ðến khoảng 25 năm cuối, từ 1975 trở đi thì phong trào Duy Tâm sẽ
phát triển mạnh mẽ và được phổ biến sâu rộng để thúc đẩy sự tiến hóa tâm linh.
Cuối thế kỷ 20 phong trào Duy Vật sẽ sụp đổ, hiện tượng nghiên cứu các giáo lý
bí truyền sẽ bắt đầu.
Này các ông bạn,
các bạn đều là những người tiền phong. Trước khi một sự phổ thông Bí Giáo được
thực hiện phải có những hạt giống gieo sẵn và nẩy mầm.
Ðó là lý do
các bạn được thúc đẩy để nghiên cứu các hiện tượng huyền bí Phương Ðông. Tôi
không thể tiết lộ thêm điều gì nhưng qua lá số tử vi của Olivers tôi qủa quyết
những điều tiên đoán đều sẽ thành sự thật.
Chắc chắn
trong 25 năm cuối của thế kỷ này sẽ có nhiều thay đổi và có những cố gắng giúp
cho sự tiến bộ của nhân loại, giai đoạn này rất quan trọng. Có hai loại người
trên thế gian: Một loại đã thấy ánh sáng rực rỡ nơi cuối chân trời và định hướng
để tiến tới đó. Dĩ nhiên, họ sẽ phải chiến đấu cam go với các cám dỗ, các hoàn
cảnh bất lợi xảy ra chung quanh nhưng ở họ, hy vọng luôn luôn sáng rỡ. Hạng thứ
hai không cảm xúc được các tư tưởng thanh cao, không tin tưởng những điều cao
thượng. Họ là những người lạc lõng, đáng thương vì họ sẽ phải học các bài học hết
sức đau khổ cho đến khi họ hiểu biết và quay đầu về phía ánh sáng. Ðiều này đã
và đang xảy ra."
"Chuyện
gì sẽ xảy ra cho những người không hiểu biết này?"
Babu bật cười:
"Các ông
nghĩ rằng Thượng Ðế sẽ trừng phạt họ ư? Không đâu, họ sẽ phải tự học lấy những
bài học trong lầm lỗi, trong đau khổ. Thí dụ như một người muốn đi từ quê lên tỉnh.
Y có thể đi theo các đường lộ xây cất sẵn sàng, theo bản đồ chỉ dẫn. Nhưng có
người cứ khăng khăng đi theo ý mình bất tuân theo luật lệ, đường dọn sẵn không
đi, bản đồ có sẵn không thèm nhìn. Y sẽ đi vào rừng, dẫm lên gai góc, đau đớn,
lạc lối lung tung sau đó mới ý thức sự ngu xuẩn của mình. Ðời là một bài học vô
cùng qúy giá mà ai cũng phải học. Cõi đời đầy những vô thường, khi thế này, lúc
thế khác chứ đâu êm xuôi bằng phẳng.
Babu ngưng
nói đưa mắt nhìn về sông Hằng. Bên kia bờ sông là một câu lạc bộ với những ánh
đèn màu cùng tiếng nhạc dập dìu. Y thở dài:
"Ðó là
nơi hội họp của một hội đồng thương mại. Hội này quy tụ toàn các thương gia,
các bậc thượng lưu trí thức giàu có bật nhất thành phố này. Tuần nào họ cũng hội
họp ăn uống. Ða số đều đã ngoài 60 mà vẫn còn ham vui. Cơ thể họ đã suy nhược
ngưng lòng hưởng thụ vật chất còn mãnh liệt. Họ tụ tập nhau để nói chuyện mưa
gió, thời tiết, thú vui đời người. Không ai ý thức được rằng chỉ ít lâu nữa, ai
cũng phải từ giã cõi trần. Nghe họ vui đùa, tưởng như họ có thể lột da như giống
rắn để sống mãi mãi như thế."
Babu nhìn lên
bầu trời đầy sao trầm ngâm:
"Mọi vật
trong vũ trụ đều quân bình tuyệt đối, không dư, không thiếu, từ hạt bụi bé nhỏ
đến những dãy Thiên Hà vĩ đại. Ðời người quá ngắn và luôn bị lôi cuốn vào sinh
hoạt quay cuồng. Ðâu mấy ai ý thức được sự phung phí hôm nay dọn đường cho sự
đau khổ ngày mai. Tất cả chỉ là những ảo ảnh chập chờn thế mà người ta cứ coi
như thật. Nếu biết thức tỉnh quan sát ta có thể học hỏi biết bao điều hay. Tiếc
rằng khi đắc thời người ta quên đi quá khứ rất nhanh, chỉ trong đau khổ, nhục
nhã ê chề mới chịu học. Có thể đó cũng là lý do luôn luôn có các biến động vô
thường, thúc dục con người học hỏi."
"Ông
nghĩ rằng con người sẽ học hỏi trong đau khổ?"
Babu thở dài:
"Ðúng thế,
chúng ta có tính hay quên nên cứ phải học đi học lại các bài học khổ. Chỉ khi bị
khổ sở, bị đàn áp, tự do bị chà đạp con người mới quay về với niềm hy vọng cuối
cùng là đức tin. Khi sung sướng ít ai nghĩ đến việc tu thân cầu giải thoát. Khi
cơ thể bệnh hoạn ta mới thấy khỏe mạnh là hạnh phúc. Khi bị tù đày ta mới thấy
giá trị của tự do. Tiếc rằng khi khỏi bệnh, ta không ý thức nguyên nhân đã gây
nên bệnh đó mà lại tiếp tục một đời sống như trước do đó, ta cứ bị bệnh hoài.
"Nhưng
con người cũng học hỏi rất nhiều và đã có tiến bộ lớn lao."
Babu ngắt lời:
"Các ông
gọi như thế nào là tiến bộ? Trên phương diện vật chất con người ta đã tiến bộ
chút ít so với ngững thế kỷ trước nhưng phương diện tinh thần vẫn nghèo nàn như
xưa, chả tiến được chút nào, bằng cớ là họ vẫn tiếp tục các lỗi lầm quá khứ."
"Ông muốn
nói đến chiến tranh ư?"
Babu im lặng
nhìn lên bầu trời đầy tinh tú ngẫm nghĩ một điều gì. Toàn thể mọi người im lặng
chờ dợi. Sau cùng, giáo sư Allen lên tiếng:
"Theo
ông thì hòa bình có thể thực hiện một ngày gần đây không?"
Babu mỉm cười
trả lời:
"Các ông
nghĩ rằng với khả năng bé nhỏ của tôi mà có thể biết hết được ư? Từ khi con người
có mặt trên trái đất này đã có hết cuộc chiến này đến cuộc chiến khác. Chiến
tranh có bao giờ chấm dứt được? Thực ra chiến tranh chỉ là sự biểu lộ trạng
thái bên trong chúng ta, là sự phóng đại các động tác hằng ngày của chúng ta. Sở
dĩ mỗi ngày nó một trầm trọng hơn là do kết quả các hoạt động kỹ nghệ và óc
sáng tạo của con người. Chiến tranh không thể chấm dứt nếu các nguyên nhân gây
nên cuộc chiến vẫn còn. Nếu có một cây cổ thụ thật lớn và ta muốn chặt nó. Ta
không thể leo lên vặt hết lá cây được, vặt lá này nó lại mọc lá khác phải không
các bạn? Cách duy nhất là đốn tận gốc rễ. Nguyên nhân chiến tranh bắt nguồn từ
các tham vọng, giận dữ, oán hận, đầu óc quốc gia, bộ lạc, tinh thần phe phái, đố
kỵ, ganh ghét. v.v... Tận diệt được các thói xấu này là chấm dứt chiến tranh.
Phương pháp duy nhất là làm một cuộc cách mạng trong tâm hồn. Chỉ khi nào loài
người ý thức điều này và thay đổi quan niệm sống, xóa bỏ lòng thù hận thì họ sẽ
thấy bình an. Tiếc rằng ai cũng chỉ nhìn thấy sự sai quấy nơi người khác nên mới
có tình trạng ngày nay.
Hòa bình và
thiện chí cần đi đôi với nhau nên không ai có thể thực hiện hòa bình khi lòng
còn đầy oán thù, ghen ghét muốn bốc lột kẻ khác để mưu lợi cho cá nhân mình hay
phe phái mình. Tất cả các hội nghị, các mưu tính để mang lại hòa bình cho nhân
loại đều thất bại vì con người không chịu thực hiện hòa bình ở chính
mình."
Babu mỉm cười
nhìn tất cả mọi người một lúc rồi trầm giọng:
"Các ông
đều biết Ðại Ðế Alexandre, người đã chinh phục thế giới. Trong việc xây dựng
hòa bình cho Hy Lạp, ông đã càn quét, tiêu diệt tất cả những nước láng giềng có
thể đe dọa xứ ông, rồi cứ thắng xong trận này lại phải lo đến trận khác và cuộc
chiến tranh để mang lại hòa bình cứ thế kéo dài. Alexandre là một người thông
minh theo học với hiền triết Aristotle.
Khi lên ngôi
Hoàng Ðế ông đã tâm sự với Thầy:
"Con sẽ
chiến thắng Ai Cập và Thổ Nhĩ Kỳ."
Aristotle hỏi:
"Rồi sao
nữa?"
Alexandre trả
lời:
"Rồi con
sẽ đem binh đánh Ba Tư nêu cao ngọn cờ Hy Lạp. Sau đó con sẽ đem quân chinh phục
tất cả các quốc gia Trung Ðông."
"Rồi sao
nữa?"
Alexandre suy
nghĩ:
"Sau đó
thì con có thể ngủ một cách bình an."
(Ghi chú: Thời
đó người Hy Lạp chỉ biết đến Ấn Ðộ mà thôi chưa biết đến các nước khác ở Á
Châu)
Aristotle mỉm
cười:
"Con hỡi,
tại sao con không ngủ bình an ngay đêm nay có hơn không?"
Babu kết luận:
"Tôi
nghĩ con người cần đặt cho mình một câu hỏi tương tự. Hãy quan sát lòng mình một
cách thành thật xem mình muốn gì? Chúng ta muốn bình an hay kích động? Phải
chăng chúng ta đều náo nức muốn cái gì? Mỗi buổi sáng, chúng ta vội vã cầm lấy
tờ báo để tìm các tin tức sôi nổi nhất. Nếu không có tin gì về chiến tranh,
thiên tai, xáo trộn, khó khăn kinh tế - thì chúng ta vứt tờ báo xuống đất và
than rằng chả có gì đáng xem. Có phải thế không?
Chúng ta muốn
sống yên ổn, không thích xáo trộn nhưng rất thích thú nghe nói về các sự xáo trộn
của kẻ khác. Chúng ta dành nhiều giờ để bàn cãi sôi nổi về người này, người nọ,
chê bai ông này, diễu cợt bà kia. Phải chăng chúng ta vẫn làm thế? Có bao giờ
chúng ta đặt câu hỏi tại sao ta lại làm thế không?
Lòng ta còn
ham tiền bạc, danh vọng, địa vị, sức khỏe và chỉ cầu bình an cho chính mình
thôi nên chẳng bao giờ thỏa mãn. Nếu ai có hỏi thì ta cũng sẽ chối quanh như Ðại
Ðế Alexandre chỉ xin một giấc ngủ bình an mà thôi.
Giấc ngủ bình
an nào có khó, nào xa xôi diệu vợi, tốn công nhọc sức mới có. Làm sao ta có thể
lao đầu vào vật chất phù du, xây dựng dang vọng địa vị, thỏa mãn cái phàm ngã hữu
hình hữu hoại đồng thời tìm sự bình an, êm tĩnh? Chính các điều trên đã phá vỡ
sự yên tĩnh xung mãn của nội tâm ta. Phiền não là do chính ta tạo nên chứ đâu
phải hoàn cảnh phải không các bạn?
Ngày hôm nay
chúng ta đã nói chuyện rất lâu rồi, các bạn sẽ còn trải qua một hành trình dài,
gặp gỡ nhiều bậc danh sư, hiền triết. Tôi chúc các bạn tìm được niềm an tĩnh của
tâm hồn."
Babu mỉm cười
dơ tay tiễn khách, vầng trăng đã lên cao, lấp loáng phản chiếu trên sông Hằng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét