39b. Hai thế giới trong Hồng Lâu Mộng (Kỳ 2)
DƯ ANH THỜI
Trong phần trước,
chúng tôi đã từng chỉ ra, hai thế giới trong Hồng lâu mộng chính là sự
đối sánh mãnh liệt giữa nhơ bẩn và thanh sạch.
Giờ đây chính là lúc
tìm hiểu sâu hơn xem xem thái độ của các nhân vật trong Đại quan viên đối với
hai thế giới đó có chứng thực cho quan sát của chúng tôi hay không? Chúng tôi sẽ
phân tích màn Đại Ngọc chôn hoa trong liên hệ với vấn đề trên. Màn nổi tiếng
này diễn ra ở hồi 23, lúc Bảo Ngọc và các tiểu thư trong thập nhị thoa vừa mới
bắt đầu cuộc sống của họ trong thế giới Đại quan viên lí tưởng. Xin phép được
trích dẫn cả một trường đoạn do tầm quan trọng của câu chuyện:
“Hôm đó đúng trung tuần
thấng ba. Sau bữa sáng, Bảo Ngọc mang theo cuốn Hội chân kí (tức Truyện
Tây Sương của Nguyên Chẩn, đời Đường - ND) đến một tảng đá dưới cây hoa
đào bên cầu Thấm Phương ngồi xem. Bảo Ngọc giở sách đọc từ đầu. Đọc đến đoạn “Lạc
hồng thành trận” (Gió thổi hoa rơi từng trận một), chợt thấy cơn gió lướt qua,
hoa đào rụng quá nửa rơi đầy trên sách, trên đất. Bảo Ngọc toan rũ đi, nhưng lại
sợ bước chân giày xéo lên, đành hứng lấy đem thả xuống ao. Những cánh hoa đào nổi
lênh đênh trên mặt nước rồi trôi qua đập Thấm Phương. Bảo Ngọc quay lại thấy
trên mặt đất còn lại rất nhiều hoa. Đương lúc ngần ngừ chợt nghe có tiếng người
hỏi: “Anh ở đây làm gì thế?” Bảo Ngọc quay đầu thấy Đại Ngọc vai vác một cái cuốc
treo túi the, tay cầm cái chổi quét hoa. Bảo Ngọc cười nói: “Tốt quá, cô quét hết
hoa chỗ này lại, mang thả xuống nước. Tôi mới thả xuống một ít.” Đại Ngọc cười
đáp: “Thả xuống nước không hay. Anh xem nước ở đây sạch, chỉ là chảy ra qua nhà
người ta chỗ làm bẩn chỗ làm hôi cả lên, thì vẫn phũ phàng với hoa kia. Trên
góc gò tôi đã đào sẵn mồ cho hoa. Nay ta quét gom lại cho vào trong túi này,
mang chôn xuống. Lâu ngày hoa hoá đất, như thế chẳng sạch hay sao?”[2]
Đại Ngọc chôn hoa |
Màn “Đại Ngọc táng
hoa” đã được đưa lên sân khấu Kinh kịch ngay từ thời Thanh mạt. Sang năm đầu thời
Trung Hoa dân quốc, nhờ vào việc biên diễn lại của hai diễn viên nổi tiếng Mai
Lan Phương và Âu Dương Dư Sảnh, câu chuyện lại càng trở nên quen thuộc đối với
người Trung Quốc. Thế nhưng mọi người dường như chỉ tập trung sự chú ý vào diễn
tiến của tình yêu của đôi trai gái, nhất là những màn tiếp sau như màn Bảo Ngọc
tìm đến thấy “Đại Ngọc ngồi khóc bên mồ chôn hoa” (Hồi 27, nguyên văn “mai
hương trủng Phi Yến khấp tàn hồng”[3]). Còn các Hồng Học gia thì chỉ để tâm vào
xuất xứ của “táng hoa”.[4] Còn như vì sao Đại Ngọc chôn hoa thì dường như
chưa được trực diện nêu ra như một vấn đề.
Chúng tôi trịnh trọng
cho rằng, tình tiết Đại Ngọc chôn hoa chính là chỗ để tác giả dùng để nói rõ lằn
ranh giữa hai thế giới trong tác phẩm. “Táng hoa” chính là sự cố đầu tiên trong
Đại quan viên kể từ sau khi Bảo Ngọc dọn vào ở trong vườn. Ý của Đại Ngọc đã rất
rõ: Trong Đại quan viên là thanh sạch, nhưng ra khỏi vườn này là hôi thối rồi.
Chôn hoa lại trong vườn, để cho hoa tan vào trong đất vườn, như vậy mới có thể
giữ cho thanh sạch mãi mãi. “Hoa” ở đây lẽ tự nhiên tượng trưng cho các cô gái
trong vườn. Mấy câu cuối trong Táng hoa từ của Đại Ngọc làm chứng cho
khẳng định đó:
Nhất đôi tịnh thổ yểm phong lưu.
Chất bản khiết lai hoàn khiết khứ,
Cường vu ô náo hãm cừ câu.[5]
Cho nên hồi 63 đoạn
quần phương dạ yến có chuyện tửu lệnh mỗi một nàng đều bắt thăm thẻ đề tên các
loài hoa. Ở hồi 42, Lâm Hi Phượng cũng nói: “Trong vườn chẳng phải là các thần
hoa?” Câu chuyện Tình Văn sau khi chết thành hoa thần cũng nên lí giải trên một
mạch chủ đề như vậy. Hoa tượng trưng cho các nhân vật trong Đại Quan Viên, thế
nên các nhân vật muốn giữ được thanh khiết thì cũng chỉ có cách ở lại trong vườn
riêng chứ không thể đưa cắm ra bên ngoài. Trong phần đầu bài này chúng tôi từng
nói rằng đối với Bảo Ngọc và đám nữ nhi trong Đại quan viên thì thế giới bên
ngoài như tuồng không tồn tại. Câu này chủ yếu là nhấn mạnh trong ước muốn chủ
quan - nhóm người trong Đại quan viên mơ cầu một sự vĩnh hằng cho thế giới lí
tưởng, mơ cầu cuộc sống tinh thần thanh triệt, chứ không phải là nói trên
phương diện nhận thức khách quan họ mù mịt vô tri đối với thế giới bên ngoài.
Chị em trong Đại quan viên, nói như chính tác giả “thơ ngây xán lạn”,[6] thế
nhưng họ không ấu trĩ ngốc nghếch. Thực ra họ một mặt phân biệt rất rõ hai thế
giới, mặt khác cũng ý thức được sự đe doạ của thế giới hiện thực đối với thế giới
lí tưởng. Câu chuyện “Đại Ngọc táng hoa” chính là một sự biểu đạt hai tầng ý
nghĩa trên bằng hình tượng ẩn dụ.
Tác giả tiểu thuyết
có lúc cũng biểu đạt một cách trực diện tính chất hiểm ác của thế giới bên
ngoài. Hồi 49 đánh dấu khởi điểm thịnh thời của Đại quan viên, các nhân vật
quan trọng như Tiết Bảo Cầm, Hình Tụ Yên, Lý Văn, Lý Khởi[7] cũng đều dọn
vào ở trong vườn. Cũng trong hồi này Sử Tương Vân cảnh báo Bảo Cầm: “Cô trừ lúc
ở bên cụ, còn thì cứ ở trong vườn. Hai chỗ này nơi nào cũng có thể tha hồ chơi
đùa ăn uống. Còn như có đến nhà bà Hai, nếu bà ở nhà thì cứ chuyện trò vui cười
với bà, có ngồi lâu một chút cũng không ngại. Nhược bằng bà không ở nhà, cô đừng
có vào. Trong nhà đó người ta đều xấu bụng, họ đều muốn làm hại ta cả.”[8] Sử
Tương Vân nói quá thẳng. Cho nên độc giả tinh ý sẽ thấy, ngoài thế giới Đại
quan viên lí tưởng ra chỉ còn chỗ Giả Mẫu là hãy còn an toàn. Còn nữa người ta
đều là muốn xâm hại người trong Đại quan viên. Vì sao chỗ Giả Mẫu còn được an
toàn? Là vì cụ cũng là người trong thập nhị thoa chốn Chẩm Hà Các trước đây.
Trong mắt người ở Đại Quan Viên, vẫn cứ là “người trong nhóm chúng mình”. Sự
phân biệt rõ ràng “chúng mình” và “bọn họ” này chính là tương ứng với sự phân
biệt hai thế giới mà có vậy.
Thế nhưng cái gọi là
“chúng mình” đó trong Đại Quan Viên cũng không phải là bình đẳng đồng loạt, thế
giới lí tưởng vẫn có trật tự của nó. “Đào Nguyên”[9] là một thế giới lí tưởng
đầu tiên trong lịch sử văn học Trung Quốc. Theo như lời Vương An Thạch, chốn đó
“chỉ có phụ tử không quân thần”. Nói cách khác, trong chốn Đào Nguyên tuy không
có trật tự chính trị nhưng vẫn còn trật tự luân lí. Còn như cái trật tự của Đại
Quan Viên thì lấy chữ “tình” làm chủ. Cũng vì vậy mà bộ tiểu thuyết kết bằng tình
bảng.[10] Thế nhưng do chỗ phần tình bảngngày nay không còn thấy nữa,
thành thử việc tìm hiểu cái trật tự đó theo ý của tác giả đã là chuyện
không có thể nữa. Trên đại thể có thể nói tiêu chuẩn để tác giả phân thứ vị
trong tình bảng là không đơn nhất. Cho nên ngoài chữ “tình” ra, chúng ta còn phải
tính đến những tiêu chí khác như dung mạo, tài học, phẩm hạnh cho đến thân phận…[11] Ở
đây chúng tôi muốn nêu lên một manh mối thường hay bị xem nhẹ, đó chính là quan
hệ giữa Bảo Ngọc và chị em (nguyên văn quần phương) trong Đại Quan
Viên. Hồng lâu mộng bản Canh Thìn hồi 46 có một dòng bình điểm như
sau: “Theo dõi tình án trong Hồng lâu mộng, đều phải xét từ chỗ “Thạch
huynh” (Bảo Ngọc - ND), mỗi người có một bản thảo chuyện tình của mình, đan kết
với nhau rất thần diệu”.[12] Lời bình rất quan trọng. “Tình” trong “tình
án” tức cũng là “tình” trong “tình bảng”. Như vậy thì mức độ nông sơ, gần xa
trong quan hệ giữa các nữ nhân vật trong sách với Bảo Ngọc quyết định phần lớn
địa vị của họ trong tình bảng.[13] Mà muốn tìm hiểu cái kết câu nội tại của
Đại Quan Viên thì cũng phải bắt đầu từ chỗ xem xét quan hệ của từng nhân vật với
Giả Bảo Ngọc.
Nói đến kết cấu nội tại
của Đại Quan Viên, chúng ta không thể không chú ý một chút phối trí các kiến
trúc phòng ốc của nó. Việc phối trí này theo chỗ tôi nghĩ, cũng phản ánh kết cấu
nội tại của đại Quan Viên. Tống Kì từng chỉ ra, bố trí vườn và sân cũng như bài
thiết nội thất đều nhằm phù hợp với tính cách của một số nhân vật chính.[14] Nhận
xét này là rất chính xác. Và đây cũng là cách nhìn của phê bình văn học phương
Tây. Bố trí chỗ ở của nhân vật cũng góp phần biểu hiện tính cách nhân vật. “Căn
phòng của một người chính là phần mở rộng của bản thân anh ta”.[15] Tào
Tuyết Cần càng có ý thức hơn trong việc vận dụng bố cảnh để thể hiện con người
nhân vật. Đây chỉ chứng minh sơ bộ trên một số dẫn chứng nổi bật. Chúng ta còn
nhớ hồi 17 Bảo Ngọc đề câu đối và biển bảng cho Đại Quan Viên. Tác giả chỉ kể
chuyện bốn địa điểm theo trình tự như sau: Tiêu Tương Quán, Đạo Hương Thôn,
Hoành Vu Uyển và Di Hồng Viện.[16] Bình luận của các nhân vật đối với từng
nơi chốn đó là rất có ý nghĩa. Trước hết nói Tiêu Tương Quán. Vừa đến nơi mọi
người đều nói: “Một nơi hay biết mấy”. Bảo Ngọc thì cho đây là: “Chỗ đầu tiên
Quý phi đến chơi, nên có những lời chúc tụng mới được”. Cho nên đề bốn chữ “Hữu
phượng lai nghi”.[17] Đủ thấy tác giả rất trịnh trọng đối với Tiêu Tương
Quán. Hồng lâu mộng bản Canh Thìn bên dưới câu “Một nơi hay biết mấy”
có lời bình: “Nơi này mới thích hợp với chỗ ở của cô gái mày chau”.[18] Sau
này ở hồi 23, Bảo Ngọc và Đại Ngọc bàn với nhau về chỗ ở, Đại Ngọc nói: “Em
nghĩ bụng Tiêu Tương Quán là hay”. Bảo Ngọc vỗ tay cười đáp: “Đúng với suy nghĩ
của anh. Anh cũng muốn bảo em ở đó. Anh thì ở chỗ Di Hồng Viện. Chúng mình hai
chỗ gần nhau, mà cũng đều thanh nhã vắng lặng”.[19] Trần thuật đó biểu hiện
quan hệ đặc biệt giữa Đại Ngọc và Bảo Ngọc.
Lại xem Đạo Hương
Thôn. Giả Chính hỏi Bảo Ngọc: “Nơi này thế nào?” Bảo Ngọc lập tức trả lời bố:
“Kém xa chỗ vừa đề Hữu phượng lai nghi”, kế đó bèn nói nào là chỗ này để lộ
dấu vết uốn nắn của con người, nào là tạo cảnh không được “tự nhiên”. Kết cục
làm Giả Chính nổi nóng.[20] Không chỉ có vậy. Về sau có lần Bảo Ngọc vâng
lệnh Nguyên Xuân vịnh bốn bài thơ, riêng đến Đạo Hương Thôn là viết không ra.
Cuối cùng Đại Ngọc phải đứng ra làm thay mới xong được chuyện.[21] Tình tiết
đó biểu hiện Bảo Ngọc không thích chủ nhân Đạo Hương Thôn – Lí Hoàn. Lí Hoàn là
người duy nhất trong đám chị em ở Đại Quan Viên đã từng gả chồng, mà như ta đã
biết bình luận của Bảo Ngọc đối với các cô đã có chồng tệ ra sao.[22] May
mà Lí Hoàn là chị dâu của Bảo Ngọc, vả chăng tính tốt, cho nên đánh giá thấp của
Bảo Ngọc đối Lí Hoàn cũng chỉ kín đáo bộc lộ qua thái độ của Bảo Ngọc đối chỗ ở
của cô ta mà thôi. Trong Kim Lăng thập nhị thoa chính sách[23] Lí
Hoàn xếp ở vị trí 12, chỉ trên Tần Khả Khanh, việc đó không phải là không có
nguyên nhân.
Bây giờ xét đến Hoành
Vu Uyển. Giả Chính nói: “Nhà cửa nơi này trông vô vị quá”.[24] Đây có thể
nói tác giả mượn mồm Giả Chính để biểu hiện thái độ của mình. Du Bình Bá chứng
tỏ đã cảm nhận được điều đó khi nêu vấn đề “phân hạng giá trị người và cảnh”
trong Đại Quan Viên.[25] Lời bình ở đây chắc nói rõ ý đồ của chính tác giả
tiểu thuyết: “Đây là phép chưa khen (bên kia) hẵng chê (bên này) trước đã. Bảo
Thoa với Đại Ngọc chưa so đã thấy hơn kém. Khắc họa cảnh và người trong tiểu
thuyết như vậy không phải là dễ”.[26]
Thập nhị thoa |
Cuối cùng nói đến Di
Hồng Viện. Miêu tả Di Hồng Viện rất tường tận. Chúng ta có thể nhận ra ba điểm
quan trọng trong chương pháp: thứ nhất để Bảo Ngọc đề “Hồng hương lục ngọc” – một
cách gồm toàn lấy vẻ riêng trong cảnh trí Di Hồng Viện.[27] Thứ hai, chuyện
“hồng và ngọc” về sau lại chiếu ứng với tình tiết Nguyên Xuân bảo Bảo Ngọc vịnh
thơ bốn nơi.[28] Trong Di Hồng Viện có đặt tấm gương lớn trong lúc các nơi
khác không có. Chi tiết đó ám thị đến hình tượng “phong nguyệt bảo giám”. Đây
nét quan trọng thứ hai thuộc về chương pháp. Thứ ba, nước ở Di Hồng Viện được
giới thiệu là một chỗ hợp lưu: “…từ cửa đập kia (đập Thấm Phương - ND) chảy đến
cửa hang, theo chỗ trũng ở núi phía đông bắc dẫn đến trang trại. Lại khơi một
nhánh nhỏ chảy ra phía tây nam, cùng chảy đến đây rồi vẫn hợp lại như cũ,
theo tường kia chảy đi”.[29] Lời bình của Chu
Nghiên Trai rất đáng được chú ý: “Nước ở Di Hồng Viện, ngụ ý lớn của bộ sách”.
Tất cả những điều trên đều chứng thực cho luận điểm tác giả mượn việc bố trí
trong Đại Quan Viên kín đáo biểu hiện quan hệ giữa Bảo Ngọc và các kim thoa
trong vườn, biểu hiện kết cấu nội tại của thế giới lí tưởng. Xuất phát từ đây mới
có thể hiểu được ý tứ của Chu Nghiên Trai khi nói: “Theo dõi tình án
trong Hồng lâu mộng, đều phải xét từ chỗ “Thạch huynh”. Hình tượng nước
trong vườn Đại Quan sau khi chảy đến Di Hồng Viện lại theo tường trôi ra ứng hợp
với ý của Đại Ngọc ngỏ cùng Bảo Ngọc khi chôn hoa – nước trong vườn là sạch, chỉ
là khi đã chảy ra là lại nhiễm ô uế của nhà người.
Phần chú thích
[1] Bài này
nguyên là một chương trong cuốn sách cùng tên của Dư Anh Thời, giáo sư đại học
Harvard (Ying-shih Yu, Professor of Chinese History at Harvard University).
Sách do Thượng Hải xã hội khoa học viện xuất bản xã xuất bản năm 2002. Bài trên
được Diana Dư dịch sang tiếng Anh rồi sau đó khi sách xuất bản tại Trung Quốc
thì đem vào làm phụ lục. Các chú thích trừ khi ghi rõ “tác giả chú” còn thì đều
của người dịch. Các trích dẫn từ Hồng lâu mộng trong trường hợp người
dịch bài này dịch lại sẽ chú rõ “tương ứng với Hồng lâu mộng, bản dịch tiếng
Việt, Nxb.Văn Học, tập…, tr. …”
[2] Bát thập hồi
hiệu bản, tr.233-234 (tác giả chú). Tương ứng với Hồng lâu mộng, bản dịch
tiếng Việt, Nxb.Văn Học, tập 1, tr.326-327.
[3] Nguyên đề mục
hồi 27: Trích Thuý Đình, Dương Phi hí thái điệp; Mai Hương Chủng, Phi Yến
khấp tàn hồng. Trong đó Dương Phi chỉ Bảo Thoa, Phi Yến chỉ
Đại Ngọc, tàn hồng chỉ hoa đào rụng, mai hương chủng là mộ
chôn hoa. Trực dịch: Bên mồ chôn hương, Đại Ngọc khóc hoa tàn. Bản dịch tiếng
Việt: “Đình Trích thuý, Dương Phi đùa bườm trắng; Mộ Mai Hương, Phi Yến khóc
hoa tàn”, vô hình trung biến cụm động từ mai hương - chôn hương thành
tên riêng, gây khó hiểu và nhầm lẫn cho bạn đọc (Hồng lâu mộng, Nxb.Văn Học, tập
1, tr.375, bản in năm 2002).
[4] Chẳng hạn
Văn Nhất Đa chỉ ra hai chữ “táng hoa” thấy lần đầu tiên ở Ẩm thuỷ tập của
Nạp Lan Tính Đức. Xin xem Hồng lâu mộng bình luận, Hồng lâu mộng quyển,
tr.263.
[5] Bát thập hồi
hiệu bản, tr.283 (tác giả chú). Bản dịch tiếng Việt:
Sẵn túi gấm ta đành
nhặt lấy,
Chọn nơi cao che đậy
hương tàn.
Thân kia trong sạch
muôn vàn,
Đừng cho rơi xuống ngập
tràn bùn nhơ.
Hồng lâu mộng,
Nxb.Văn Học, bản in năm 2002, tập 1, tr.387.
[6] Bát thập hồi
hiệu bản, tr. 233 (tác giả chú).
[7] Bản dịch tiếng
Việt nhầm Khởi thành Ỷ (Hồng lâu mộng, Nxb. Văn Học, bản in
năm 2002, tập 1, tr.705).
[8] Bát thập hồi
hiệu bản, tr.525 (tác giả chú). Tương ứng với Hồng lâu mộng, bản dịch tiếng
Việt, Nxb.Văn Học, tập 1, tr.709.
[9] Xin xem Đào
Tiềm, Đào Hoa Nguyên Kí.
[10] Nho lâm ngoại
sử cũng có một danh sách các nhà nho được truy phong tiến sĩ mà tục gọi là
“U bảng” ở hồi cuối cùng – hồi 56. Tuy nhiên phần đa các nhà nghiên cứu cho đây
là hồi “thêm vào”. Tại Đại lục bản in phổ biến nhất lưu hành rộng nhất là bản
55 hồi của Nhân dân xuất bản xã không công nhận hồi 56 này. Bản dịch tiếng Việt Chuyện
làng nho dịch dựa vào bản của Nhân dân xuất bản xã nên cũng không có hồi
56.
[11] Xem Tống
Kì, Luận Đại Quan viên, tr.6-7 (tác giả chú).
[12] Đại ý lời
bình nói về việc muốn theo dõi bao quát được câu chuyện tình cảm của các nhân vật
nữ trong tiểu thuyết thì phải bắt đầu xem xét từ đầu mối Bảo Ngọc. Mỗi một nhân
vật đều có câu chuyện tình cảm của mình. Tiểu thuyết đã kết cấu các câu chuyện
tình cảm đó trong một trật tự trần thuật đan xen tài tình.
[13] Vấn đề này
còn phải thảo luận thêm. Cái gọi là “tình” ở đây ít nhất có thể phân thành hai
loại: tình trong tình yêu, và tình trong tình cốt nhục. Vị thứ của Kim Lăng
chính thập nhị thoa có thể xác định khá cụ thể. Sau Lâm Đại Ngọc và Tiết Bảo
Thoa là Nguyên Xuân, Thám Xuân. Ngược lại Nguyên Xuân và Tích Xuân thì lại xếp
sau Diệu Ngọc. Giải thích điều này đều dựa vào các căn cứ trên bản thân văn bản
tác phẩm. Bản thân Bảo Ngọc hàng ngày cho rằng huynh đệ với nhau chẳng qua là
cái tình lí tự nhiên mà thôi (xem Bát thập hồi hiệu bản, tr.204). Có thể
suy luận Bảo Ngọc cũng nghĩ như vậy về tình cảm chị em. Thế nhưng giữa Bảo Ngọc
và Nguyên Xuân, Thám Xuân ngoài tình tình cốt nhục còn có tình bạn. Cho nên vị
thứ (trong Tình bảng - ND) cao hơn Nghênh Xuân và Tích Xuân. Ở đây chỉ
là tạm nêu một ý sơ lược, phân tích bình luận kĩ hơn về vấn đề này xin hẹn với
bạn đọc trong dịp khác (tác giả chú).
[14] Xem Luận
Đại Quan viên, tr.3 (tác giả chú).
[15] Xem Rene
Wellek and Austin Warren, Theory of Literature, A Harvest Book, 1956.
pp.210-21 (tác giả chú).
[16] Tên vườn
cũng như tên bốn nơi quan trọng này được đặt chính thức trong ngày Nguyên Phi về
tỉnh thân. Xin xem hồi 18, Hồng lâu mộng, Nxb.Văn Học, bản in năm 2002, tập
1, tr.252.
[17] Bát thập hồi
hiệu bản, tr.164-165 (tác giả chú).
[18] Du Bình
Bá, Tập bình, tr.261 (tác giả chú). “cô gái mày chau” ý chỉ Lâm Đại
Ngọc. Sau này Tiêu Tương Quán là chỗ ở của Đại Ngọc. Đại Ngọc khó tính lại đa sầu
– ND.
[19] Bát thập hồi
hiệu bản, tr.232 (tác giả chú).
[20] Bát thập hồi
hiệu bản, tr.166-167 (tác giả chú).
[21] Tức là thiếu
bài Hạnh liêm tại vọng. Bài làm hộ này lại là bài được Nguyên Phi
khen hơn cả. Xem Hồng lâu mộng, Nxb.Văn Học, bản in năm 2002, tập 1,
tr.257 và 259.
[22] Xem thêm chú thích
số 71.
[23] Xin
xem Hồng lâu mộng, Nxb.Văn Học, bản in năm 2002, tập 1, tr.75.
[24] Bát thập hồi
hiệu bản, tr.168 (tác giả chú). Tương ứng với Hồng lâu mộng, bản dịch tiếng
Việt, Nxb. Văn Học, bản in năm 2002, tập 1, tr.236.
[25] Hồng lâu mộng
nghiên cứu, tr.235-237 (tác giả chú).
[26] Du Bình
Bá, Tập bình, tr.267 (tác giả chú). Nhân tiện nói thêm, lời bình của các
nhà bình điểm thường súc tích, nhà bình điểm đôi khi như là đang nói chuyện
với một đối tượng độc giả cũng hiểu tác phẩm không kém ông ta. Lại thêm cách
dùng từ cũng đặt trong bối cảnh cùng giới chuyên môn hoặc người trong cuộc,
thành thử khi dịch các lời bình đó chúng tôi không tránh được việc phải diễn giải
thêm ít nhiều. Trong trường hợp lời bình dẫn trên, ta phải biết Đại Ngọc về sau
vào ở Tiêu Tương Quán, còn chỗ của Bảo Thoa là Hoành Vu Uyển. Cảm tình của tác
giả trước sau nghiêng về Đại Ngọc. Hồng lâu mộng, Nxb.Văn Học, bản in năm
2002, tập 1, tr.237 và tr.258 in nhầm đỗ nhược hoành vu thành đỗ
nhược hành vu; hoành chỉ thanh phân thành hành chỉ thanh
phân. Hoành vu, bạch chỉ hay đỗ nhược và đỗ hoành đều
là tên của một số loài hương thảo.
[27] Di Hồng Viện
như lời Bảo Ngọc – “trồng chuối và hải đường… … viết bốn chữ hồng hương lục
ngọc thì mới đủ cả hai nghĩa “ màu xanh của lá chuối và màu đỏ của hoa hải
đường”.
[28] Nét chương
pháp thứ hai chính là cái mà lí luận văn học ngay nay gọi là kết cấu văn bản và
kết cấu hình tượng của tiểu thuyết. Bài vịnh Di Hồng Viện có nhan đề Di
hồng khoái lục. Ta có thể tìm thấy hình bóng chủ đề quan hệ tay ba Đại Ngọc-Bảo
Ngọc-Bảo Thoa ngay trong hình tượng “di hồng khoái lục”. Hồng lâu mộng,
Nxb.Văn Học, bản in năm 2002, tập 1, tr.241 và 258.
[29] Bát thập hồi hiệu
bản, tr.170-172 (tác giả chú). Tương ứng với Hồng lâu mộng, bản dịch tiếng
Việt, Nxb.Văn Học, bản in năm 2002, tập 1, tr.242.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét