Cao Đỉnh |
1. Cao Đỉnh - Đỉnh đặt ở chính giữa tượng trưng cho sự vĩ đại
TRĨ 稚
tức là con chim
trĩ, là loại chim quí. Do đặc điểm tự nhiên, ngày xưa người ta thường bảo, chỗ
của nó bay hay đậu là chỗ rất sạch, nghĩa là nơi ấy môi trường trong lành; loài
chim trĩ có cá tính rất lạ, nếu chẳng may bị bẫy mắc lưới liền tự tử, nên nó
được xem là loài chim có khí tiết ngay thẳng. Chim trĩ trống có mào, đuôi dài,
thân nhiều màu sắc, hay chọi nhau. Sách Cầm kinh nói: con nào
lông đỏ màu vàng gọi là miết trĩ, lông trắng gọi là hãn trĩ, lông đen gọi là hải
trĩ, lông ở trên lưng có nhiều màu sắc gọi là phỉ thúy trĩ, loài
giống rất nhiều, nhưng giống chim trĩ trắng là quí hơn cả. Sách An Nam chí
chép rằng: Thời vua Thành Vương nhà Chu, người ở xứ Việt Thường sang dâng chim
trĩ trắng; thời vua Quang Vũ nhà Hán, các quận Nhật Nam và Cửu Chân đều có dâng
chim trĩ trắng. Sách Lễ ký chép rằng: “Chim trĩ bay xuống biển
hóa thành con sò”, tức là nói về loài chim này. Xem vậy đủ biết chim trĩ là
loài chim quí hiếm ví như “thần điểu” từ ngàn xưa đã có nhiều ở nước ta.
Năm
Minh Mạng thứ 17, đúc xong Cửu đỉnh, cho chạm hình tượng chim trĩ vào Cao đỉnh.
Theo Sách đỏ Việt Nam, giống chim trĩ có trĩ sao, trĩ đỏ, thuộc bộ gà. Nhìn chung loài chim trĩ có kích thước lớn, đuôi dài, nhất là con đực, bộ lông của nó có nhiều màu sắc đẹp. Cả con mái và con trống đều không có cựa. Chim trĩ sao kiếm ăn và làm tổ ở rừng thường xanh um trên các đỉnh và sườn đồi có độ dốc khác nhau, phổ biến hơn ở dưới 700 mét; chim trĩ đỏ thì chọn nơi thích hợp, quen hơn là vùng đồi núi thấp, không bao xa nương rẫy, không gặp rừng quá rậm.
Chim trĩ là giống chim quí, ở Việt Nam trước đây thường gặp nhiều tại cánh rừng các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Lào Cai, Bắc Cạn, Hòa Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Đắc Lắc, Gia Lai, Kontum, Lâm Đồng...
Chim trĩ là loài chim rất có giá trị khoa học cao, thẩm mỹ đẹp. Nó là một loài chim có “nhan sắc” nổi tiếng, được các nước trên thế giới rất ưa chuộng và nuôi nhiều để làm cảnh. Người xưa thường quan niệm, chim trĩ cũng là loài chim đem lại rất nhiều may mắn tốt lành.
Ngày
nay, có rất nhiều nguyên nhân khiến rừng bị xâm hại, vì thế mà cá thể chim trĩ
ở trên thế giới và Việt Nam còn lại rất ít, có nguy cơ mất giống nòi, nên nó đã
được khẩn cấp đưa vào sách đỏ cần được bảo vệ.
MIẾT 鱉
Miết (鱉), tục
danh con trạnh (25); lại gọi con đoàn ngư, hay con hà
bá tòng sự. Con trạnh nhìn qua tương tự con rùa, bước đi của nó nặng
nề, rù rờ, khập khiễng mà xa đến ngàn dặm cũng tới. Lại có một loại gọi là con
nguyên. Các sách xưa chép rằng: con nguyên gần giống con trạnh mà to, thân rộng
hơn, có con lớn từ 1 đến 2 trượng, đó là con vật đứng đầu các loài có mai vậy,
tục gọi con giải. Sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức chép rằng:
Miết còn có tên nữa là hôn, đầu nhọn mà ở ria có thịt, tính hay cắn, thịt của
nó có vị béo và ngon, con nhỏ càng ngon hơn. Nên tục ngữ có câu: “rùa
dùng cân, trạnh dùng lạng”, ý nói rùa nên dùng con to, còn trạnh (miết)
dùng con nhỏ, thịt mới ngon. Các nhà Đông y xem thịt và máu của con trạnh có
nhiều dược tính, bổ dưỡng, có tác dụng nhanh với người lớn tuổi yếu chân, suy
lực. Vùng sông nước của xứ nào ở Việt Nam hễ có vực sâu thường có trạnh sống.
Lại có giống trạnh (hôn) sống ở biển, giá trị kinh tế rất cao.
Ở
Huế bây giờ, có câu chuyện kể về con trạnh, mang màu sắc thần bí, rằng mấy chục
năm qua, những người dân hành hương hay sang đò sông Hương, đoạn ngang chân núi
Ngọc Trản, để lên điện Hòn Chén dâng hương cầu nguyện Thần nữ Thiên Y A Na và
Mẫu Liễu Hạnh, thỉnh thoảng vẫn gặp con vật này nổi lập lờ trên mặt nước để
thở, thân hình nó to như “tấm phản”, không hiểu là con gì mà hơi giống rùa, lại
trông giống con ba ba. Nên người ta mới có câu: “Đầu ghềnh có con ba
ba. Kẻ kêu con trạnh, người la con rùa”, hóa ra con này, tức con trạnh.
Tương truyền, dưới triều Đồng Khánh, nhà vua cơ thể bị suy nhược lại hay mê
tín, ông tự nhận mình là đệ tử của Nữ thần thờ ở điện này, nên đã cho người đem
về thả ở vực sâu dưới chân núi Hòn Chén mấy con trạnh. Bây giờ thì chúng đã quá
già. Vì vậy mà nhiều người xem con trạnh cũng là loài “vật thiêng” trong tứ
linh. Và cái vực sâu của sông Hương dưới chân Hòn Chén, nơi mà “mấy con trạnh”
đang sống cũng được xem là một huyệt chủ rất linh diệu của cuộc đất đã góp phần
làm nên vị trí Thần kinh xứ Huế.
THIÊN
TÔN SƠN
Thiên Tôn Sơn, tức
núi Thiên Tôn, còn gọi là núi Triệu Tường, núi Am, ở
tỉnh Thanh Hóa. Núi Thiên Tôn nằm về phía tây bắc huyện Hà Trung (huyện Tống
Sơn cũ); trong vùng núi có Gia Miêu ngoại trang (nguyên quán của dòng họ Nguyễn
Phúc), có lăng Triệu tổ Nguyễn Kim của nhà Nguyễn, và lăng Đức Bà (vợ của
Nguyễn Kim) cũng táng gần đó. Mạch núi này chạy từ huyện Thạch Thành như chuỗi
ngọc kéo xuống, rồi nổi lên 12 ngọn liền nhau, cỏ cây xanh tốt trông như gấm
vóc; ở phía đông bắc núi Thiên Tôn có dãy Tam Điệp, rồi đến núi Thần Phù chạy
dài ở phía trái; ở phía tây có núi Điều Doanh, núi Trạch Lâm, núi Trang Chữ
chạy vòng ở phía phải. Nguồn nước từ khe Rồng rót xuống Tống Giang, lượn vòng ở
đằng trước, người xưa gọi là núi Am, núi Triệu Tường. Năm Minh Mạng thứ 2,
1821, vua dụ rằng: “Nước nhà ta gây dựng nghiệp lớn, giữ mệnh trời lâu dài.
Kính nghĩ lăng tổ khí thiêng chung đúc, chứa chất phúc lành, phong thần núi
hiệu là Thiên Tôn, đều làm đền thờ để đáp ơn thần”; núi Thiên Tôn còn được thờ
theo vào đàn Nam Giao, ở Kinh đô Huế. Cùng giữa năm ấy, vua Minh Mạng ngự giá
bắc tuần, thân đến yết Nguyên miếu Triệu Tường, bái vọng thần núi Thiên Tôn. Lễ
xong, vua nói rằng: “Trẫm trông núi Kiều (ví sự nghiệp của Nguyễn Kim cao cả và
huyền diệu như núi Kiều ở Trung Quốc) nhớ đến công đức tổ tiên. Sau khi hồi
loan, sẽ soạn văn dựng bia để tỏ rõ từ đâu gây nghiệp lớn, truyền lâu dài hàng
ức vạn năm”. Núi Thiên Tôn được các nhà phong thủy xem như là ngọn núi thiêng
phò tá linh địa phát tích quần hùng nước Việt, mà sau này xem ra có phần đúng
là họ Nguyễn Phúc. Năm 1835, vua Minh Mạng cho xây thành bao ngoài khu Nguyên
miếu, phái quân canh phòng, hộ vệ nghiêm ngặt. Lại xây thêm công đường, nhà
cửa, để làm nơi quan quân đóng giữ, đặt tên thành Triệu Tường.
Năm
Minh Mạng thứ 17, đúc xong Cửu đỉnh, khắc hình tượng núi Thiên Tôn vào Cao
đỉnh, lại cho liệt vào hàng danh sơn nổi tiếng, chép trong điển thờ, hàng năm
phái quan đến tế thần núi.
Có
tư liệu nói rằng, vào cuối năm 1788, vua Quang Trung từ Phú Xuân dẫn đại binh
ra bắc đuổi quân xâm lược nhà Thanh; trước lúc đánh vào Thăng Long, ông đã cho
lập đại bản doanh ở vùng núi này để cũng cố lực lượng, tổng duyệt binh mã lần
cuối, dựa dãy Tam Điệp hùng vĩ cách đấy một đoạn về phía bắc để làm lễ tế cờ;
trước tam quân trăm họ, nhà vua dõng dạc tuyên bố, phải quét sạch quân xâm lược
nhà Thanh ra khỏi bờ cõi, giải phóng giang sơn, và với quyết tâm rất cao để
giành thắng lợi cũng chỉ độ mấy ngày. Quả nhiên sau đúng vậy. Người am tường
binh pháp nói rằng, chiến công oai hùng ấy của vua Quang Trung đã được sơn thần
ở Thanh Hóa và Tam Điệp linh thiêng phù trợ.
TỬ
VI HOA
Tử Vi Hoa, tục
danh là hoa tử vi, còn gọi hoa phạ dưỡng. Người
Trung Quốc gọi là hồng vi hoa, bá tử kinh, ngũ lý hương...Hoa có
mùi thơm dịu, phảng phất nhẹ nhàng và thường nở vào mùa thu. Cây có đặc tính
hay “nhột”, hễ lấy tay cạo ngoài da cây, thì trên ngọn cây lại rung động. Vì
hoa vốn nở thành chùm dài hơn 10cm, sáu cánh rời nhau, phiến hoa quăn và uốn
lượn ở mép, lại giữ được tươi lâu, nên thuở xưa vua chúa Trung Quốc và Việt Nam
thường ưa thích và hay cho trồng nhiều loại hoa này ở tiền sảnh trong cung cấm.
Hoa tử vi, ngoài loại sắc tím lại có loại sắc hồng và sắc
bạch, loại hoa tím có đới màu thanh lam, gọi là hoa thúy vi. Hoa
mọc thành chùm dài, sáu cánh hoa rời nhau, phiến quăn, uốn lượn ở mép. Ngày
trước vì lối kiêng tránh, húy kỵ (tên mẹ vua Thiệu Trị là Hồ Thị Hoa) người Huế
thường gọi trại ra là bông tử vi. Cây hoa tử vi dễ trồng, ưa
khí hậu mát ẩm. Nhân giống bằng hạt. Gieo ươm như các loại giống cây gỗ khác;
cây trưởng thành có thể cao đến 4m. Cành vuông, mềm và dài, hơi đỏ, thân cây to
bằng cánh tay, có cây cũng lớn hơn đôi chút, vỏ cây khi tróc ra thì rụng từng
mảng trông giống thân cây ổi. Lá tử vi mọc đối nhau, hình trái xoan nhọn, trơn
bóng.
Theo
các nhà đông y, thì một số thành phần của cây tử vi rất quí như: hoa, rễ có vị
hơi đắng, tính hàn, có thể dùng làm thuốc, chữa hoạt huyết, chỉ huyết, giải
độc, thanh nhiệt, tiêu thũng; hoa của nó còn là một dược liệu quí dùng làm
thuốc chữa trị cho người phụ nữ sau khi sinh nở chẳng may bị mắc chứng sản hậu
lưu huyết, đau bụng, máu kết thành hòn cục...
Ngoài
ra, rễ của hoa tử vi còn được dùng bào chế làm thuốc chữa mụn nhọt, ghẻ lở, các
bệnh xuất huyết, viêm tuyến vú, viêm gan. Vỏ thân dùng để chữa bế kinh, đau cổ
họng, chữa lở ngứa ngoài da...
Do đặc điểm của cây tử vi rất lạ: vừa có hoa, vừa có
hương sắc lại giữ được tươi lâu và thành phần có nhiều dược tính mang lại ích
lợi cho đời sống của con người, cho nên hoa tử vi được cổ nhân xem là một loài
“kỳ hoa dị thảo”.
Ngày
nay, nhiều tỉnh thành của Việt Nam đều có trồng hoa tử vi, đặc biệt người Huế
rất thích loại hoa này.
TRẦM HƯƠNG
Trầm
Hương,
tục danh cây dó bầu, thường gọi cây trầm. Do khi người ta bỏ xuống nước thì nó
chìm nên gọi là trầm. Chất dầu của cây trầm rất thơm, có thể bào chế làm thuốc
trị thấp khử tà, lại là dược liệu bổ dương được cả Đông lẫn Tây y đều lấy dùng
rất nhiều. Miền rừng núi từ Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị trở vào nam
Trung Bộ các tỉnh đều có. Sách Nghệ An phong thổ ký chép rằng:
cây dó già cỗi, tinh dịch kết lại thành hương, cây còn sống mà đẽo lấy thì gọi
là sinh trầm có thể dùng làm thuốc, cây đã chết mà lấy gọi là tử trầm, chỉ dùng
chế chất thơm, lấy lúc cây đã mục nát gọi là tốc hương, là mật hương. Loại cây
này giống cây liễu to, muốn lấy hương thì đốn ngả cây đã lâu năm, cội rễ cành
đốt đều có màu sắc khác nhau, ruột cây rắn và đen, bỏ xuống nước mà chìm gọi là
trầm hương, nổi ngang với mặt nước gọi là kê cốt hương, gốc cây là hoàng thục
hương, thân cây là sạn hương, cành nhỏ rắn chắc chưa nát là thanh quế hương,
gốc và mắt cứng mà lớn là mã đề hương.
Người
đi khai thác trầm hương rất gian truân, có khi bỏ cả mạng ở rừng sâu núi thẳm,
đúng như câu nói: “Ăn của rừng
rưng rưng nước mắt”. Người đi tìm trầm thường kiêng cữ nhiều thứ: trước ngày
vào rừng họ thường kiêng ăn thịt những con vật linh, cấm gần phụ nữ, tránh nói
năng bậy bạ; khi đến cửa rừng, hay vào ngày gặp được cây dó, người ta thường
đặt lễ dâng cúng thần mộc, nên cây trầm còn được người dân miền núi gọi là Cây
Thần.
Năm
1830, triều đình cho đặt hộ trầm hương ở Phú Yên, sai mộ dân bên ngoài sung
vào. Lấy 30 người làm định ngạch, mỗi người hàng năm nộp thuế 1 cân trầm hương.
Trầm
hương Việt Nam được các nước theo Phật giáo, Hồi giáo dùng nhiều trong tế lễ,
được xem là một loại dược liệu cao cấp, dùng để chế thuốc trị hen suyễn, tăng
cường sinh lực. Trong Tây y, trầm là thành phần cơ bản để làm biệt dược điều
trị chứng ung thư bàng quang. Cây trầm cũng còn được dùng tạc tượng thờ, làm
vật trấn yểm khí tà, xua đuổi ma quái...
Thời
trước, trầm hương nổi tiếng hơn cả là ở Vạn Giã, Khánh Hòa. Những năm tám mươi
của thế kỷ XX, tỉnh Bình Trị Thiên cũ có lúc xuất khẩu ra nước ngoài lên đến
hàng trăm tấn, ngành xuất khẩu trầm bấy giờ được mệnh danh là “vua trầm” Việt
Nam. Do cây trầm có nhiều ích lợi mà ngày nay người dân các tỉnh miền Trung và
Tây Bắc Việt Nam đều có trồng, có nơi trồng xen canh đến hàng chục hécta. Nhưng
để cây dó bầu ấy có tinh dịch làm dược liệu cao cấp thì nó cần phải sinh trưởng
đến hàng chục năm sau.
NGƯU CHỬ GIANG
Ngưu Chử Giang, tục
gọi là sông Bến Nghé, sông ở vùng thành phố Hồ Chí Minh; xưa sông này chảy qua
huyện Tân Bình nên còn có tên sông Tân Bình. Khi người Pháp chiếm cứ Sài Gòn và
Lục tỉnh, họ gọi là sông Sài Gòn; nguồn sông chảy từ gần Bương Đầm - Lộc Ninh
xuống phía nam song song với sông Bé, chảy đến Nhà Bè thì gặp sông Đồng Nai,
còn gọi là sông Phước Long, rồi chảy vào cửa biển Cần Giờ. Sông Bến Nghé có
nhiều chi lưu, chi phía tây nam chảy trong địa giới tỉnh Gia Định xưa, chi đông
bắc chảy ra phía Biên Hòa. Sông rộng và sâu, dài khoảng 256 cây số, ngay từ đầu
thế kỷ XIX, tàu thuyền các trấn, tỉnh, trong nước và của các nước ngoài đã ra
vào sông này tấp nập, biến nơi đây thành một đô hội sầm uất.
Tục
truyền, sông Ngưu Chử xưa kia hai bên bờ còn hoang vắng, ở đây có rất nhiều cá
sấu sinh sống, chúng thường rượt đuổi cắn nhau, tiếng kêu như tiếng trâu nghé
rống, cho nên người ta mới gọi tên như thế. Còn theo sách Gia Định thành thông
chí của Trịnh Hoài Đức, thì nơi đây vốn có cái bến ngày xưa thường có nhiều con
nghé (trâu) đến uống nước nên mới gọi tên này. Như vậy, cứ theo hai cách giải
thích trên thì vào lúc người Việt mới lập dinh trấn ở đây, vùng đất này còn
hoang sơ lắm, và có rất nhiều giống cá sấu, trâu bò rừng sinh sống thành từng
bầy đàn đông đúc. Địa danh Bến Nghé cũng được dùng để chỉ thành Gia Định, tức
thành Bến Nghé, thành này xưa tiếp giáp với thủ phủ Sài Gòn, và là trung tâm
thương mại Chợ Lớn do Hoa kiều lập nên.
Năm
Minh Mạng thứ 17, 1836, đúc xong Cửu đỉnh, cho chạm hình tượng sông Bến Nghé
lên Cao đỉnh. Năm Tự Đức thứ 3, 1850, sông Bến Nghé được liệt vào hàng sông lớn
nổi tiếng của đất nước, được đưa vào trong tự điển, hàng năm triều đình cử quan
viên đến tế thần sông.
Khi
người Pháp đánh cướp nước ta, họ cho tàu chiến tiến vào Sài Gòn theo đường sông
này. Nhà thơ yêu nước - Cụ Đồ Chiểu đã viết về Bến Nghé buổi ấy như sau:
“Bến
Nghé của tiền tan bọt nước
Đồng
Nai tranh ngói nhuốm màu mây”...
Về
sau cụ được người nhà đưa về lánh nạn ở Ba Tri thuộc tỉnh Bến Tre ngày nay.
Bến
Nghé thực sự là con sông lớn đã tạo nên nhiều chi mạch giao thông tiện lợi cho
tàu thuyền tấp nập lui tới thành Gia Định buôn bán. Từ đây có đường thông ra
biển Đông; rất thuận lợi cho các tỉnh miền Đông Nam Bộ nước ta trong sự hội
nhập với thế giới ngày nay.
THÔNG 蔥
Thông (蔥), tục danh cây rau
hành, còn có tên là cây hống, là thái bá, hòa
sự thảo, lộc thai. Tính của củ hành có chất hăng lại hay phát dẫn tà
khí ra ngoài; củ hành, lá rụng ống, đều ăn được, muối làm dưa ăn ngon hơn, các
nhà Đông y nói, có thể dùng củ và lá để làm thuốc chữa đau đầu, thoát mồ hôi.
Hành là món gia vị hương hoa nhưng không thể thiếu trong các món ăn có chất
tanh. Người ta nấu món thịt lợn bắt buộc phải có củ hành kèm theo mới tuyệt:
“Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi”. Hành là giống rau đem lại sự thơm tho cho
người trồng của ruộng đồng nước Việt. Nhưng vì có mùi hăng, người tu đạo Phật
không thường dùng.
ĐẠI
PHÁO 大礮
Đại Pháo (大礮), thường gọi đại
bác, là loại súng lớn, được sản xuất dưới thời vua Gia Long và Minh
Mạng. Khi bắn đại pháo, người ta phải lau nòng súng, nạp thuốc súng ở phía sau
và dẫn ra một ngòi nổ cháy chậm, quả đạn được đẩy ngược vào nòng súng, người
pháo thủ châm ngòi bằng mồi lửa, thuốc súng cháy, phát nổ tạo nên sức nén và
sinh ra một lực rất mạnh, đẩy viên đạn bay đi. Loại đại pháo này thường dùng để
công phá thành trì, bắn vào hạm thuyền, hay dùng để phát hiệu lệnh. Thời Nguyễn
sơ, đây là loại vũ khí uy dũng, tiếng nổ lớn, làm cho đối phương phải khiếp sợ.
Vì thế mà người xưa xem đại bác như vị Thần công.
Đại
diện cho loại đại pháo này, người ta thấy, hai bên cửa ra vào Hoàng thành phía
trước Ngọ Môn, hiện còn “Cửu vị Thần công” được đúc xong vào năm 1804 dưới thời
vua Gia Long “sừng sững chầu hai bên có Tả đại tướng quân và Hữu đại tướng
quân”; chín khẩu “Thần súng” này lấy theo tứ thời Xuân, Hạ, Thu, Đông cùng
ngũ hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ mà đặt tên. Khi đúc xong,
khắc sự tích và tên vào thân súng. Đây thực sự là những tác phẩm độc đáo vừa
mang tính nghệ thuật tinh xảo, vừa đạt trình độ kỹ thuật cao, thể hiện thành tựu
về nghề đúc đồng Việt Nam từ lâu đời. Đồng thời “Thần công” ẩn chứa những nét
văn hóa tâm linh mà uy dũng trong việc hộ quốc.
Nhiều
khẩu đại bác “có công yểm trợ” bắn trúng quân thù, chiến thắng trận mạc được
triều đình phong tặng tước vị và “phong chức” rất cao, chẳng hạn như “Thần oai
vô địch đại tướng quân, Thượng tướng quân vô địch”... (Thống lĩnh quân đội tối
cao, quyền uy không khác gì thần thánh, chẳng có gì chống lại được). Xứng đáng
là “vua chiến trường” thời ấy. Dưới triều Minh Mạng, mỗi đơn vị bộ binh (gọi là
vệ, mỗi vệ khoảng 500 người) được trang bị hai khẩu Thần công (loại nhỏ), 200
khẩu súng điểu thương và 21 ngọn cờ. Tùy theo vị trí nhiều pháo đài, trên các
vọng lâu của Kinh thành Huế, các tỉnh, trấn đều có đặt các loại Thần công to, nhỏ
khác nhau.
Năm
Minh Mạng thứ 17, đúc xong Cửu đỉnh, cho khắc hình tượng đại pháo này vào Cao
đỉnh.
Do
quan niệm súng đại bác như là vị thần hộ vệ, mà thời xưa có nhiều quan võ khi
được nhà vua phong chức, hay các sĩ tử trước khi thi võ, hoặc sắp phải ra chiến
trận thường sắm lễ vật đến dâng lên vị thần này. Cầu mong “Thần công” che chở
cho họ khỏi bị đường tên mũi đạn, ra trận là đánh thắng quân thù, thi đỗ thứ
hạng cao và thăng tiến nhanh trên đường binh nghiệp.
NHẬT 日
Nhật (日), tức là mặt trời, chỉ
ban ngày, ánh sáng. Theo quan niệm của người xưa, mặt trời tượng trưng cho ngôi
cửu ngũ chí tôn, bậc thiên tử. Ở một số nước, người ta tôn thờ mặt trời như vị
thần tối thượng, chủ nhân của mọi giới, nên việc tế thần Mặt Trời hàng năm là
một lễ nghi rất quan trọng. Theo Kinh Dịch, trời thuộc quẻ Càn, mặt trời thuộc
quẻ Ly, biểu hiện của sự ấm áp, sáng sủa khắp mọi nơi. Một ngày mới, mặt trời
lên, sinh khí tràn ngập cõi nhân gian vũ trụ. Người xưa bảo: “ân của vua ban
như ánh nắng mặt trời chiếu rọi vậy”.
Năm
Minh Mạng thứ 17, 1836, đúc xong Cửu đỉnh, nhà vua cho khắc hình tượng mặt trời
lên Cao đỉnh.
Thời
hiện đại, ánh nắng mặt trời chiếu rọi khắp nơi cũng là tài nguyên năng lượng vô
giá.
CANH
Canh, tục
danh lúa tẻ. Người xưa nói: lúa xay ra gạo ăn không dẻo gọi là canh, một loại
lúa rất thơm, cho gạo hảo hạng, nuôi sống con người đứng đầu các loại lúa tẻ;
đại diện cho hơn 47 loại lúa tẻ thời ấy, đều là hạt ngọc nhà trời. (Ở đồng làng
An Cựu xưa có trồng giống lúa tẻ hương đạo, tục danh nhe vàng, dân địa phương
quen gọi là de, hột hơi dài, sắc gạo rất trắng mà thơm và mềm cơm; tháng 10
cấy, tháng 3 chín, hàng năm có tiến vua. Dân gian có câu: Tôm rằn bóc vỏ bỏ
đuôi / Gạo de An Cựu để nuôi mẹ già. Quả là thứ gạo ngon. Đồng ruộng ở miền Bắc
có giống tám thơm; miền Nam có nàng hương, đều là những thứ lúa cho gạo hảo
hạng).
Năm Minh Mạng thứ 17, đúc xong Cửu đỉnh, cho khắc hình
tượng loại lúa tẻ này vào Cao đỉnh.
ĐA SÁCH THUYỀN
Đa Sách Thuyền, chỉ về một loại
thuyền khá lớn có nhiều dây buồm (một âm là Đa Tác Thuyền) (có sách chú là
thuyền nhiều đáy?), được sản xuất dưới triều vua Gia Long và Minh Mạng. Vì
thuyền lớn nên cũng gọi là tàu. Loại thuyền này dùng đi theo sông lớn, đi biển
dài ngày và có khả năng đi xa, vượt cả đại dương. Đời vua Minh Mạng có chiếc
tàu d’Ajsas mua từ châu Âu về, trông khá giống loại thuyền này. Đa sách thuyền
đạt trình độ cao về kỹ thuật đóng thuyền buồm của Việt Nam dưới thời nhà Nguyễn.
VĨNH TẾ HÀ
Vĩnh Tế Hà, tức là sông Vĩnh Tế,
người miền Nam quen gọi là kênh (kinh) Vĩnh Tế. Nguyên trước đây, vùng này còn
sình lầy, cả bộ lẫn thủy đi lại rất khó khăn, ông Nguyễn Văn Thoại, sinh quán
tại Điện Bàn, Quảng Nam - sau vào định cư ở Vĩnh Long, có công phò tá chúa
Nguyễn Ánh, được triều đình Huế trọng dụng, phong tước Hầu rất sớm, dân trong
vùng quen gọi là Thoại Ngọc Hầu; năm 1818, ông được vua Gia Long bổ làm Trấn
thủ Vĩnh Thanh (gồm cả Long Xuyên và Cần Thơ). Tại đây ông cùng quan quân địa
phương thiết kế và đốc suất dân binh đào kênh Đông Xuyên rất ích lợi; kênh ấy
được nhà vua cho gọi theo tên ông là Thoại Hà; nhân thấy bờ phía đông gần đấy
có ngọn Khâu Sơn, bèn cho tên là Thoại Sơn để biểu dương công lao của ông, lại
cho dựng miếu thờ sơn thần ở chân núi. Đầu năm 1820, ông lại được lệnh đào con
kênh nối từ vùng Châu Đốc đến xứ Hà Tiên. Trong thời gian đào kênh, bà Châu Thị
Vĩnh Tế, quê ở Vĩnh Long, vợ của Thoại Ngọc Hầu đã hết lòng lo liệu cùng chồng
đốc suất dân binh để đào bằng xong con kênh này. Cảm phục trước công sức khó
nhọc của bà, sau khi công trình hoàn thành, vua Minh Mạng đã lấy tên của bà để
đặt cho con kênh này là Vĩnh Tế.
Kênh Vĩnh Tế là một công trình thủy lợi, do chính
Thoại Ngọc Hầu thiết kế và tự thân đốc suất dân binh làm việc ngày đêm, với số
nhân công lên đến 80.000 người. Thời gian đào kéo dài gần 5 năm (1820-1824). Sự
thành công này đem lại lợi ích nhiều mặt cho vùng biên giới Tây Nam của Tổ
quốc. Đương thời khi kênh đào xong, vua Minh Mạng lấy làm hoan hỉ, khen ngợi
công sức của dân binh trong vùng và ông bà Thoại Ngọc Hầu, lại sai dựng bia ở
bên bờ sông để ghi sự tích. Kênh Vĩnh Tế lúc mới đào rộng 15 tầm, sâu 6 thước,
dài hơn 200 dặm. Kênh này hiện có nhiều đoạn được nới rộng, sâu và dài hơn xưa,
chảy từ Châu Đốc, Tri Tôn, tỉnh An Giang xuống huyện Kiên Lương gặp sông Giang
Thành chảy tới cửa Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang; đoạn kênh
chảy qua Hà Tiên còn được gọi là rạch Hà Tiên. Kênh chảy song song
với đường biên giới Việt Nam - Campuchia cách đường biên giới 3 cây số. Có lẽ
trong lịch sử mở nước, đây là trường hợp duy nhất ở nước ta, cả hai vợ chồng
đều có công khai sông dẫn thủy đã được triều đình lấy tên để đặt tên cho công
trình mà họ đã làm nên; đặc biệt là công sức đóng góp của người phụ nữ đối với
đất nước. Vua Minh Mạng cho khắc hình tượng Vĩnh Tế Hà lên Cao đỉnh, thờ trước
sân chầu Thế Tổ Miếu. Dưới chân núi Thoại Sơn, từ buổi ấy nhân dân đã lập đền
thờ hai ông bà
Thoại Ngọc Hầu, bốn mùa hương khói tri ân.
BA
LA MẬT
Ba La Mật, tục danh quả mít; còn có tên nẵng gia
kiết, quả to như cái đấu, gai mềm, vị ngọt và thơm, hột có thể luộc ăn; khi mít
còn xanh người ta vẫn hái để chế biến làm món. Theo Đông y, mít có dược tính
hay ích khí, khử phiền. Có hai loại: mít khô (còn gọi mít dai, hoặc ráo) và mít
ướt (mít mật); lại có thứ mít nài, mít tố nữ, quả nhỏ hơn, ít múi nhưng mùi vị
rất đặc biệt. Cây mít gọi là ba la mộc, chất gỗ có sắc mà bền, có thể dùng làm
rường cột, xẻ ván, đóng tủ bàn, chạm tượng thờ, và đóng được nhiều đồ gia dụng
khác. Các tỉnh đều có, từ Nghệ An trở vào nam Trung Bộ, miền gần núi trồng được
nhiều hơn. Năm Minh Mạng thứ 17, đúc xong Cửu đỉnh, cho chạm hình tượng cây mít
có quả vào Cao đỉnh.
HỔ
Hổ, tục danh con cọp, còn gọi con hùm, là động vật hoang dã ăn thịt, thuộc họ
mèo; dân gian kiêng tránh thường gọi là ông ba mươi, là khái. Một số cổ thư còn
chép là ô đồ, là đại trùng, là lý nhĩ. Hổ sống chủ yếu ở các khu rừng già, hoạt
động rất rộng, lan ra cả rừng tái sinh, cây bụi, lau lách, trảng cỏ cao. Mỗi
ngày đêm nó có thể đi xa hơn 30 cây số; hổ thường sống độc thân. Vùng rừng thấp
nước ta, trước đây tỉnh nào cũng có, đôi khi chúng lẻn xuống tận miền đồng bằng
rình bắt mồi và bắt cả người. Bộ lông hổ có nền màu vàng nhạt hoặc màu da bò.
Toàn thân có nhiều sọc ngang màu đen hoặc nâu đen. Đuôi có vòng nâu đen không
đều từ gốc đuôi đến mút đuôi. Thỉnh thoảng cũng có cọp trắng. Qua nghiên cứu,
các nhà động vật học thấy được chu kỳ sinh lý của loài thú này: Tiết lập thu
thì hổ hay kêu; tháng trọng đông thì hổ mới giao cấu. Hổ sinh con tự nhiên
nhưng hơi khó nuôi nên cá thể không sống được nhiều như loài thú khác. Hổ thích
ăn thịt chó, ăn rồi thì say, thịt chó được xem như là rượu của hổ vậy. Thịt hổ
có thể làm thuốc trị chứng âm tà. Xương cốt hổ đem nấu cao thành cao hổ cốt,
dược tính của nó có tác dụng chữa trị khá
nhiều bệnh mãn tính, nhất là bệnh xương khớp; còn da được dùng nhiều trong kỹ
nghệ. Do hổ có sức mạnh và nhanh nhẹn, dân gian thường quan niệm hổ là vị chúa
cai quản núi rừng và gọi là chúa sơn lâm. Hổ có những miếng thế võ cực hiểm, ra
đòn là quyết hạ ngay đối phương, tính rất quyết đoán. Thời quân chủ, các vị
tướng đứng đầu quan võ cầm quân ra trận, bậc tướng soái được cấp “hổ phù” để
điều binh khiển tướng, thể hiện uy quyền, sức mạnh của bậc chủ soái.
Hổ
dù có sức mạnh, nhưng con người vẫn đủ bản lĩnh để “thuần hóa” được chúng,
nhiều con hổ trở thành “diễn viên” làm các tiết mục xiếc. Trong 12 con giáp, hổ
(dần) được xếp đứng hàng thứ ba của địa chi.
Hổ có tính hay quên, nên không thù dai. Cổ nhân thường bảo: Người cầm tinh hổ,
tính hay nóng nảy, ra cửa đụng phải ngọn lá thì mọi chuyện quên ngay. E chỉ là
câu nói phỏng mà thôi. Ở tỉnh Thừa Thiên xưa có làng Phù Bài, thuộc huyện Hương
Thủy; tỉnh Quảng Trị có làng Thủy Ba thuộc huyện Vĩnh Linh nổi tiếng về “nghề
bắt cọp”, nay vẫn lưu truyền.
Năm
Minh Mạng thứ 17, đúc xong Cửu đỉnh, cho chạm hình tượng hổ vào Cao đỉnh.
Nằm
về phía tây của Kinh thành Huế, ở phường Thủy Biều vẫn còn dấu tích Hổ Quyền,
đây thực chất là một chuồng nuôi hổ, và còn có chức năng của một đấu trường hết
sức độc đáo hiếm thấy trên thế giới; đấu trường của những cuộc tử chiến giữa
voi và hổ được xây dựng dưới thời vua Minh Mạng.
ĐÔNG
HẢI
Đông Hải, chỉ vùng biển nằm phía Đông thuộc chủ
quyền của Việt Nam (26), thông với Thái Bình Dương ở phía bắc
qua eo Basni. Trong biển Đông có quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ở vùng biển
này từ cuối tháng 4 đến đầu tháng 11 hàng năm, thường có gió bão mạnh, nhất là
ở khu vực quần đảo Trường Sa, nên còn gọi là quần đảo Bão Tố. Biển Đông đúng là
kho tài nguyên vô tận của nước ta. Từ xa xưa, từ thuở Hồng Bàng khai quốc,
người Việt đã biết tiến ra làm chủ biển Đông.
Năm
Minh Mạng thứ 17, 1836, đúc xong Cửu đỉnh, nhà vua cho khắc hình tượng biển
Đông lên Cao đỉnh.
(26).
Chỉ vùng biển phía Đông thuộc hải phận của nước ta, không bao gồm cả vùng biển
Đông rộng lớn như ngày nay.
LONG
Long, thường gọi là rồng, một linh vật được huyền
thoại hóa mang đầy tính siêu nhiên, đứng đầu trong tứ linh: “long, lân, qui,
phụng”, xuất hiện hàng ngàn năm trước, được nâng lên thành vật biểu tượng trong
văn hóa phương Đông; nó được xem là chúa tể cai quản vùng sông nước (thường
được gọi là Long vương). Theo các nhà nghiên cứu ngôn ngữ, chữ rồng trong tiếng
Việt và chữ long trong từ Hán Việt đều bắt nguồn từ krong, krông, klong trong
tiếng Đông Nam Á cổ có nghĩa là sông nước. Nó được xem là con vật kết hợp giữa
cá sấu và rắn, sinh ra dưới nước rồi bay vút lên trời mà không cần có cánh,
miệng vừa phun nước, vừa phun lửa. Một số nhà khảo cổ học khẳng định rằng:
“Rồng là con vật đặc thù chung cho tất cả các dân tộc Việt và chính từ đây nó
đã đi vào văn hóa Trung Hoa”. Cụ thể hơn, đối với người Việt Nam, truyền thuyết
Con Rồng - Cháu Tiên đã có từ thời họ Hồng Bàng lập quốc. Theo tư duy của người
Việt cổ thì Rồng - Tiên là một cặp đôi âm dương mà thành, để giải thích cội
nguồn tổ tiên của người Việt, trong đó tiên biểu trưng cho giống chim, ở núi
non; còn rồng là con vật từ cá sấu và rắn biến thành, ở sông biển. Biểu tượng
rồng đã ăn sâu vào đời sống văn hóa Việt. Con rồng nhanh chóng trở thành biểu
tượng của quyền lực, gắn với hình ảnh tối thượng của ông vua. Trong tiến trình
lịch sử, con rồng của mỗi thời cũng đã thay đổi ít nhiều về đường nét hình
dáng. Có thể nói, rồng là một biểu tượng của sự linh thiêng, cương trực, mạnh
mẽ, sự vươn lên của một dân tộc. Theo truyền thuyết, cá chép hóa rồng là bởi do
kiên trì tu luyện mà thành. Ở vào thời nhà Đinh, bất kể con vật gì, nếu “chịu”
tu luyện thành chính quả cũng có thể hóa rồng được.
Năm
1010, vua Lý Công Uẩn đã chọn đất Thăng Long (rồng bay) để định đô nước Đại
Việt. Có thể vua Lý đã thấy “dấu vết” rồng tàng cư ở đây sẽ thịnh phát. Cùng
với những quan niệm ấy, mà ở nước Nam ta, nhiều vùng đất được lấy chữ long để
đặt tên, như: Hoàng Long, Thăng Long, Hạ Long, Bái Tử Long, Long Hưng, Cửu
Long, Hàm Rồng, Hàm Long, Vĩnh Long, Kim Long... Người cũng có mạng rồng, con
vật được chọn đứng hàng thứ năm trong địa chi của 12 con giáp.
Theo
Sách đỏ Việt Nam, hiện nay ở nước ta có loài rồng đất sinh sống, còn có tên
rồng tạng, tò te, thuộc họ nhông, bộ có vảy; thường sống ở hang hốc, trong các
bụi cây... Rồng đất có giá trị thẩm mỹ cao, nuôi trong các vườn thú; một số nơi
còn dùng nó làm nguồn thực phẩm hoặc dược phẩm rất quí.
THIẾT
MỘC
Thiết Mộc, tục danh cây gỗ lim, thứ gỗ đứng ở nhóm đầu trong các loại gỗ rừng
(đinh, lim, sến, táu), sắc gỗ lim đen tím, bền rắn như sắt đá, người ta thường
dùng để làm đình, chùa, đền, xây cung điện, dựng nhà, đóng thuyền, bắc cầu…
Thật là thượng phẩm trong loài mộc. Ở trong rừng sâu các tỉnh đều có. Đầu triều
Minh Mạng định lệ cấm dân gian mua bán gỗ lim. Sau “nới lỏng” định lệ thì thổ
sản tỉnh nào có gỗ lim phải đóng thuế rất cao. Trong lịch sử chống ngoại xâm
phương Bắc, từ Ngô Vương Quyền, sang Lê Đại Hành, đến Trần Hưng Đạo đều đã dùng
loại thiết mộc này làm cọc nhọn để đóng xuống lòng sông Bạch Đằng, phá tan
thuyền giặc.
Năm Minh Mạng thứ 17, đúc
xong Cửu đỉnh, cho khắc hình tượng cây gỗ lim vào Cao đỉnh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét