Ngày cuối tháng 7 này như nhập đồng, viết lung tung. Nhưng cứ thấy Q.Trị là đọc, cơ khổ, mộng du. Vào Blog PP
thấy “chiến binh Quảng Trị”, thẫn thờ, chuyện kể về thời của mình, của ông Nguyễn Như Thìn, chắc cũng là lính SV chiến trường QT. Ai đang vui, xin đừng đọc, nó vận vào khó nghe...
*****
Khánh "voi"
Đầu tháng 12 năm 71 hai tiểu
đoàn sinh viên 5, 6 chia nhỏ bổ sung về các quân binh chủng. Còn lại một số anh
em chưa vể đâu phấp phỏng chờ đợi, đoán già, đoán non đơn vị mình sẽ được điều
về. Trong cuốn nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi của Thạc ngày 6-12 có ghi lại thời
điểm đó. Hắn chê tôi sợ vào hỏa lực trợ chiến phải mang vác nặng gù lưng. Hắn
chê tôi sợ chết muốn vào binh chủng tăng thiết giáp vì có vỏ thép dày che chở.
Ôi, sợ chết âu cũng là lẽ thường tình của những thằng lính trẻ, 18 đôi mươi
chúng tôi, chửa biết cái chi chi, chết thì tiếc lắm.
Song, cả tôi và hắn đều nhầm.
Sau này, tôi nhận ra có thứ còn đáng sợ hơn cái chết. Đó là sự đầy đoạ về thân
xác.
Người ta thường nói,
"ghét của nào trời trao của ấy". Cuối cùng tôi lại được điều về tiểu
đội 12 ly 7, đại đội 12 trợ chiến thuộc trung đoàn 101 sư đòan bộ binh 325. Một
tiểu đội 12,7 ly biên chế từ 10 đến 12 người. Trừ A trưởng mang kính ngắm và một
khẩu AK, còn lại chia thành 3 tổ có nhiệm vụ mang ba phần chính của súng. Tổ 1
mang thân súng nặng 33 kg và một thùng đạn khoảng 10 kg. Tổ 2 mang chân súng nặng
34 kg và một thùng đạn. Tổ 3 mang bệ súng nặng khoảng 21 kg một hộp tiếp đạn và
một thùng đạn cũng nặng chừng ấy. Khi hành quân, thân và chân súng được hai cặp
khiêng bằng hai chiếc đòn tre dài nặng chình trịch. Bệ súng hình thù kỳ dị đầy
góc cạnh được một người vác. Những cạnh sắc như băm từng thớ thịt. Hơn ba chục
cân có vẻ không quá nặng. Nhưng xin thưa, hành quân cả ngày trời dưới cái nắng
miền trung, cộng với tư trang khoảng 30 cân nữa thì lừa cũng phải chào thua.
Khi khiêng súng, người đi sau còn đỡ chứ người đằng trước thật khốn khổ. Sức nặng
của balo và súng phía sau cứ kéo ngửa người ra. Trèo đèo lội suối, rồi trong rừng
rậm, súng móc bên này mắc bên kia tiến cũng chẳng được mà lùi cũng không xong.
Hồi còn đi học, ngoài cái tên bố mẹ đặt cho, tôi còn mang thêm biệt danh các bạn
tặng là “còm”, vì cân nặng cả bì chỉ có hơn 40 kg. Khiêng súng bị phồng, rồi
loét, hai vai, mãi không lành. Mỗi lần hành quân mang vác, đối với tôi không
khác gì hành xác.
Đêm ấy, bên cánh rừng ở Cự Nẫm
Quảng Bình, nhận quân trang đi B balo hơn 40 cân, tôi phải đẩy lên ngôi mộ
hoang, luồn hai vai vào hai quai mới gượng đứng lên được. Vậy mà lại đến phiên
khiêng súng. Cố gắng bước dược chừng 50 chục mét thì ngã chúi xuống, nửa quì nửa
ngồi, tôi ôm mặt khóc. Y tá Cận chạy lại, mở túi thuốc lấy ra một vốc vitamin
B1 bảo tôi uống. Nghi ngờ về khả năng tăng lực của nắm B1 ấy, song tôi cũng tống
đại vào mồn nhai trệu trạo. Thực tình lúc ấy tôi chỉ muốn chết quách đi cho rồi.
Họặc giả có một quả pháo biển lạc vào giải thoát cho tôi thì âu cũng là số phận.
May thay trong tổ tôi còn có
Khánh "voi". Trong số các anh em quê Phủ Cừ, Hải Hưng, Khánh
"voi" nổi bật vì dáng cao to như cây chuối hột trong vườn toàn chuối
tiêu. Nghe nói nhà hắn nghèo lắm, ăn uống kham khổ, vậy mà hắn lại có một thân
hình khá lý tưởng. Cao trên một mét bẩy lăm. Bắp thịt săn chắc. Đôi vai gấu hơi
xuôi, hai hàm răng trắng đều, nước da sáng hơn că lũ bạch diện thư sinh chúng
tôi. Hắn ghé vai đỡ tôi dậy, rút chiếc đòn khiêng ra quẳng sang một bên, đặt
thân súng nặng như cùm lên vai lầm lũi bước tiếp. Tôi vớ lấy chiếc đòn khiêng cố
bám theo. Cuộc hành quân 5 ngày không thể nào quên, từ tây Quảng Bình theo dãy
Trường Sơn qua giới tuyến 17 vào Quảng Trị tham chiến. Lính rơi rớt dọc đường.
Không còn ra đội hình gì nữa, các đơn vị trộn lẫn vào nhau. Tiểu đội tôi đến
nơi tập kết đầy đủ, có lẽ nhờ một phần bởi Khánh "voi".
Sau trận đầu, đêm 23 ngày 24
tháng tám năm 72, tiểu đội bị thiệt hại nặng nề, thương vong non một nửa, tạm bị
trưng dụng làm lính vận tải. Làm gì cũng được, miễn là không phải khiêng súng.
Nhưng tôi lại nhầm. Gọi là vận tải cho oai chứ thực ra là gùi gạo, đạn. Mấy chục
cân trên vai chẳng khác gì khiêng 12ly7. Trên một cung đường chừng 4, 5 cây số
trống trải, phải luôn vận động thật nhanh qua những tọa độ chết người của pháo
bầy và máy bay cường kích. Vô phúc dính B52 thì coi như chấm hết. Vậy mà với
Khánh "voi" dường như chẳng hề hấn gì. Bao giờ hắn cũng về trước tôi
cả tiếng đồng hồ, chui tọt vào hầm không ra ngoài. "Trên mặt đất không có
lợi", hắn bảo tôi thế. Biết vậy mà đành vậy. "Trên mặt đất không có lợi"...
Một tuần sau, tiểu đội lại
nhận khẩu súng khác, chế tạo tại Liên Xô, nòng xoắn, tản nhiệt tốt hơn, nhưng
cũng nặng hơn khẩu trước khoảng chục ký. Ngay đêm ấy lại vào chốt. Tâm trạng mọi
người khá nặng nề. Nõi ám ảnh trận trước không thể bỗng chốc mà quên ngay được.
Tiểu đội chốt trong một vườn chuối nhỏ lá xác xơ. Giũa vườn hiện lờ mờ một ngôi
nhà, thực ra là phế tích của một ngôi nhà tan hoang. Phía trước là một bụi tre
rách bươm. Nghe đâu trước bụi tre là lính đại đội 9 bộ binh. Chúng tôi vội vàng
đào hầm trú ẩn, công sự pháo và một đoạn hào chừng 4 mét nối hầm trú ẩn với hầm
pháo. Gần sáng công việc cũng tạm xong. Trong khung cảnh chết chóc như vậy, mà
vẫn thấy một tiếng gà lạc lõng, cô đơn, gáy yếu ớt báo hiệu một ngày mới băt đầu.
A trưởng Thành phân công người đứng cảnh giới dưới hào cách hầm trú ẩn khoảng một
mét, còn lại tạm nghỉ. Rồi cũng đến phiên tôi đứng gác Trận địa hai bên thật
yên tĩnh. Tôi nghe rõ cả tiếng con chim sâu bay chúi vào bụi cây trước mặt. Thì
ra nó bị mù từ bao giờ. Chừng một tiếng sau, Khánh "Voi" đổi gác. Đôi
vai gấu của nó cố nghiêng, lách ngườì cho vừa đoạn hào vừa hẹp vừa nông. Tôi
chui vào hầm, chợp mắt một lúc. Bỗng một tiếng nổ vang phía cửa hầm. Minh
"già" kêu thất thanh: 'Khánh chết rồi". Giật mình nhìn ra, một cảnh
tượng thật hãi hùng. Khánh "voi" đang từ từ ngồi xuống, lưng tựa vách
hào, đôi tay buông xuôi. Cái đầu nó bay đâu mất. Phía trên cổ, giữa một mớ
xương vụn, máu ồng ộc tuôn ra ngập một đoạn hào. Trên vai Khánh, một mảng da đầu
còn nguyên tóc vắt ngang, như khoác một chiếc khăn nửa đen nửa đỏ.
Cả tiểu đội chết lặng. Mặt
Minh "già" thường ngày vốn đen thế, mà lúc đó trắng bệch, đôi mắt thất
thần. Sau ít phút trấn tĩnh, tôi quyết định ra ngòai. Để tránh vũng máu, tôi nắm
hai cổ chân Khánh, làm động tác như đu xà kép dướn người nhoài ra. Bên mép hào,
một hố vát hình nón vừa bị khoét còn vương vài mảnh gang vụn. Cối 81, Khánh chết
vì một quả đạn cối của địch bắn vu vơ. Phía đối diện, một tấm gỗ ép dựng bên gốc
chuối bê bết máu và óc. Giá mà Khánh thấp hơn một chút, giá mà Khánh đổi gác chậm
hơn một chút thì cái thằng đang ngồi kia chính là tôi.
Mãi đến khuya mới có hai
lính vận tải tiểu đoàn đến mang Khánh đi. Trăng thượng tuần tháng cô hồn trút
ánh sáng vàng vọt xuống vườn chuối. Trên ngực Khánh, nắp chiếc bút máy Pilot mạ
vàng, mới nhặt được hôm qua, “để viết thư”, hắn nói thế, cứ lấp lánh thứ ánh
sáng ma quái.
Nhiều năm sau, ánh sáng ma
quái ấy cứ ám ảnh tôi trong những đêm mất ngủ vì bệnh tật. Hình ảnh Khánh
"voi" với đôi vai gấu lại chập chờn hiện về. Giá mà hắn thấp hơn một
chút, giá mà hắn đổi gác chậm một chút. "Ở trên mặt đất không có lợi".
Biết vậy mà đành vậy.
***
Báu vật của đời.
Đúng là “chim sa cá nhảy”
đen quá, tại con chim mù sa vào bụi cây hay sao mà tiểu đội ra quân lần thứ
hai, ngay ngày đầu đã mất luôn “cây chuối hột” Khánh ”Voi“. Để giải đen, anh
Thành quyết định rời trận địa sang trái, cách trận địa cũ chừng 50 mét. Lợi dụng
hai hầm trú ẩn của đơn vị nào bỏ lại, chúng tôi hối hả đào công sự. Lần này,
không ai bảo ai, đào rõ sâu. Đến tầm trưa, một tốp f4 bay đến. Chúng lượn một
vòng rồi chiếc đầu bổ nhào. Tiếng bom rít thật khủng khiếp. Tôi chỉ mới quen với
tiếng đạn pháo và xác định điểm rơi khá chuẩn xác, nhưng với bom, đây là lần đầu.
Cộng hưởng với tiếng gầm rú của động cơ, như khoan vào óc, ruột gan như thắt lại.
Hai quả bom trùi trũi lao xuống, ½ thân rồi ¼ thân. Hai tiếng nổ đinh tai dường
như cùng một lúc, cách công sự chừng vài chục mét, đất đá rơi rào rào. Chiếc thứ
hai vòng lại chúc đầu, anh Thành vội kéo tôi vào hầm pháo. Một quả bom, từ dưới
bụng máy bay bung ra. Lần này hình chiếu của nó như quả bưởi, to dần từng tíc tắc.
Chân tôi díu lại, như muốn chạy mà không được. Tôi nghe thấy văng vẳng một tiếng
hô "… bổ nhào... bắn”. Bình tĩnh lại, đưa máy bay vào kính ngắm số không, tôi xiết
một tràng dài. Một ánh chớp loé lên bên trái trận địa, kèm theo một tiếng nổ lộng
óc, xô tôi dúi vào vách công sự. Chiếc máy bay chẳng hề hấn gì, bay lên, mất
hút vào bầu trời. Vậy mà, anh Thành vẫn khẳng định, nó đã dính đạn, bằng chứng
là không dám quay trở lại. Tôi cho rằng, nó đã hết bom, chẳng qua anh muốn động
viên tôi mà thôi. Hứng chí hơn, anh tuyên bố, từ nay tôi sẽ là tiểu đội trưởng,
còn anh là trung đội trưởng tự phong, thay anh Châu đã hy sinh.
Làm A trưởng cũng hay, đỡ phải
khiêng súng, nhưng cả tiểu đội còn có 5 mống không ghé vai cùng anh em thì ai
mang, tôi chợt buồn. Nhưng nõi buồn của tôi cũng sớm được giải toả. Mấy đêm
sau, liên lạc đại đội dẫn đén ba lính mới bổ sung. Một, Tên là Thắng nhà ở Hà Nội,
một, tên Chính, Thái Bình còn lại là Định, Quảng Ninh. Trời tối đen như mực, dưới
ánh sáng nhập nhoạng của hoả châu, tôi chỉ kip thấy lờ mờ ba khuôn mặt.
Sáng hôm sau, Chính biến mất
để lại khẩu AK. Thắng người chắc, đậm, hứa hẹn một thợ khiêng súng tốt. Nhà hắn
ở ngõ Thanh Miến, con ngõ nhỏ cong như một dấu ngoặc đơn, nối phố Nguyễn Thái học
với Văn Miếu. Thằng Định, chân tay quyềnh quàng, da ngăm đen, dáng dấp khoẻ mạnh.
Tự dưng tôi thấy rất buồn cười, ngắm hai thằng lính mới, mà như mộ phu đi Tân
thế giới không bằng. Thằng Định, quê hắn ở tít mãi biên giới Việt Trung. Làng hắn
có đến 80% là người Hoa. Có lẽ tiếp xúc với người Hoa nhiều nên giọng hắn cũng
lơ lớ như mấy ông Tầu bán lạc rang phố Hàng Giày. Hầm chữ A, ba thằng nằm trở đầu
đuôi chật cứng, chân tay thằng Định như thừa thãi. Thỉnh thoảng hắn lại rên
lên: “xịt ra một chút nào” thật buồn cười. Vì thế tôi gọi hắn là Định “xịt”. Định
“xịt” có một thói quen khá lạ lùng. Thỉnh thoảng hắn móc trong balo, một chếc
gương honda gấy ra soi, ngày không dưói chục bận rất ngứa mắt. Tôi bảo hắn: ”Vứt
mẹ nó đi, mày định gọi máy bay đến à “. Hắn lẳng lặng cất gương đi, nhưng chỉ
được vài ngày, đâu lại vào đấy. Một lần trực chiến, hắn ngắm khẩu 12,7 ly rất kỹ
và rụt dè nói: ”lúc nào có dịp anh cho em bắn nhé” “Bắn máy bay thì phải học
còn bắn bộ binh thì dễ thôi, như bắn AK vậy” tôi bảo hắn, đai khái thế.
Chúng tôi lại chuyển chốt ra
sát bờ sông Thạch Hãn, giá súng bắn bộ binh. Nghe trinh sát nói, cứ ngược theo
bờ sông là Thành Cổ, nơi có tiếng súng vọng về không ngớt, suốt đêm ngày. Mặt
trận phía đông chúng tôi, không có gì lạ, ngoại trừ vài trận đấu súng lẻ tẻ. Có
lẽ do thời tiết. Những cơn mưa đầu mùa trút xuống liên miên. Nước từ thượng nguồn
đổ về đục như máu. Mà có khi lẫn máu thật. Đêm đêm, tôi nghe thấy tiếng lạch xạch
của xuồng máy chở thương binh từ Thành Cổ xuôi ra, nhiều chiếc dính phải bom từ
trường, không đến được trạm phẫu tiền phương. Vào một chiều tạnh ráo hiếm hoi,
phía trước pháo sáng bắn lên rực trời, chẳng hiểu chuyện gì. Hôm sau mới biết,
Thành Cổ đã bị mất. Từ đấy thấy vắng dần tiếng xuồng lạch xạch xuôi dòng.
Nằm trong hầm, nghe mưa rơi
mà buồn thấu ruột. May có thằng Định “xịt” hay chuyện. Hắn kể chuyện làng, chuỵện
xóm, chuyện nhà, chuyện cửa với những phong tục khá lạ kỳ. Nhưng kể mãi cũng hết
chuyện, đôi khi thấy hắn thừ người ra, lại móc gương soi. Có lẽ cu cậu nhớ nhà.
Một bận tôi nảy ra một ý nghĩ tinh quái, hỏi hắn:
- Này, năm nay mày bao nhiêu
tuổi rồi? Hỏi thực, đã bao giờ mày thấy cái ấy của phụ nữ chưa? Đừng ngượng cứ
kể đại ra đi.
Hắn đỏ mặt, thẫn thờ một lúc
rồi nói:
- Nhưng anh cũng phải kể
chuyện của anh cho em nghe.
Tôi cứ ừ bừa vì hy vọng sẽ
được nghe một câu chuyện thật nhảm nhí.
- Em, tháng tới là vừa tròn
mười chín tuổi. Đã một lần được thấy cái ấy…
Hắn kể:
“… Hồi còn ở quê, em có thằng
bạn thân hàng xóm, nó có một cô em gái rất xinh. Cũng vào cữ này năm ngoái,
tháng ngâu, mưa cả ngày, chẳng đi đâu được. Em sang nhà nó chơi. Hai thằng nằm
trong buồng tán chuyện tào lao, ngủ quên lúc nào không hay. Bỗng em nghe thấy một
tiếng động mạnh ngoài cưả, giật mình, tỉnh dậy. Thằng bạn đi đằng nào mất, hoá
ra cô em nó đi chợ về, quần áo ướt sũng. Ngỡ nhà không có ai, cô ấy ra bể nước
dội ào mấy gáo, rồi vào buồng cởi tung quần áo lau người. Em nằm im như chết,
nín thở mà tim cứ đập thình thịch. Lần đầu tiên em được thấy một thân hình trắng
như thế. Hai bầu ngực căng tròn. Em liếc xuống phía dưới, thú thực, chỉ thấy
như một nắm thuốc lào. Cô ấy lại đầu giường lấy quần áo, bất ngờ phát hiện ra
em, kêu thất thanh, ôm vội đống quần áo chạy bổ ra ngoài. Em ngượng quá, lồm cồm
bò ra khỏi giường lủi một mạch về nhà. Kể từ đấy mỗi bận gặp em là cô ấy lại đỏ
mặt chạy vụt đi. Nhiều lần em muốn gặp xin lỗi mà không được, cô ấy cứ tránh mặt…
Rồi cũng đến cái ngày em đi bộ đội. Cô ấy không tránh nữa, cùng thằng anh trai
đi tiễn em. Lúc lên ô tô, bất ngờ cô ấy níu lấy balo của em khóc tức tưởi. Thằng
bạn ngạc nhiên nhìn hai đứa. Em hết sức bối rối. Cô ấy dúi vào tay em một gói
nhỏ. Lên xe mở ra là một chiếc khăn tay …”
Tôi thán phục nói:
- Truyện tình của mày hay thật
đấy.
Hắn trả lời:
- Nhưng chúng em đã nói được
gì với nhau đâu.
- Cần quái gì phải nói. Nó
yêu mày rồi
Tôi nói tiếp.
- Hồi vào trong này, em viết
liền mấy lá thư về mà chẳng thấy cô ấy trả lời.
- Mày cứ chuyển đơn vị xoành
xoạch thì làm sao mà nhận được.
Tôi an ủi hắn.
- Thế còn chuyện của anh.
Hắn hỏi.
- Chuyện của tao chẳng có
gì. Hồi ở đầu Kênh, tao có chôn cất một gia đình bị trúng bom. Chị chủ nhà áo
thì còn, mà quần bay đâu mất. Tao cứ thấy ghê ghê. Căn cước của chị ghi tên Huệ.
Có đôi hoa tai tao chôn cả. - Tôi kể.
- Chuyện anh kinh bỏ mẹ,
toàn chết chóc. - Hắn nói thế.
Đầu tháng 11 chúng tôi được
lệnh bàn giao chốt cho đơn vị khác. Một đêm mưa bão, tiểu đoàn vượt sông cửa Việt
sang bờ bắc. Sông rộng thật. Bơi giỏi như tôi mà hàng tiếng mới dìu được súng
sang tới bờ. Thỉnh thoảng một quả trái phá rít qua đầu. Pháo sáng chập chờn như
ma đùa trên bầu trời.
Sau mấy tuần nghỉ ngơi, bổ
sung quân, chúng tôi lại được lệnh vượt sông sang bờ nam tham chiến. Gói ghém
súng đạn quân trang cho tiểu đội xong, chuẩn bị xuống nước thì bất ngờ chính trị
viên đại đội gọi tôi lên. Anh bảo, bàn giao tiểu đội cho A phó, còn tôi nhận
nhiệm vụ mới. Chuyện quái gì thế nhỉ? Nghĩ mãi không ra. Hoá ra, tôi được đi an
dưỡng ở tuyến sau nửa tháng.
Làng an dưỡng cách Quán
Ngang, chừng 3 km. Ngày ngày, từng tốp B52 ném bom miền Bắc trở về. Không biết
ngoài ấy ra sao, lại thấy nhớ nhà cồn cào. Tôi có làm quen với mấy lính sinh
viên trường Xây Dựng. Trong đó có Dũng C3, nhà ở phố Hàng Bạc. Cùng tâm trạng,
hai đứa sớm thân nhau. Một sớm, gặp Bảo tiểu đội cối 82 đi lấy gạo. Trông thấy
tôi, hắn gọi thất thanh: “Anh Thìn ơi, tiểu đội anh hy sinh gần hết rồi”. Tôi
choáng váng. “Thế còn ai”. Tôi hỏi? Hắn nói, không được rõ vì ở tuyền
khác.
Ruột gan như lửa đốt. Rồi
cũng đến ngày trở về. Liên lạc tiểu đoàn dẫn tôi ra chốt. Chỉ một dải cát dài
bên trái thấp thoáng bóng phi lao, “kia là Tám Cát “ hắn nói. Đến một đoạn hào
bị pháo cày nham nhở, tôi thấy bệ của khẩu 12,7 ly quen thuộc bị vặn quăn hình
số tám. Đón tôi ở cửa hầm là Bình “Méo” bàn chân băng trắng xoá và Hùng ngơ ngơ
điếc vì tiếng nổ. Chúng kể lại . “Trận Tám Cát diễn ra thật ác liệt. Pháo địch
bắn suốt đêm, sáng ra bộ binh bám theo xe tăng ủi liền mấy chốt của ta. Bên này
khẩu 12,7 ly phát huy tầm xa, bắn chéo vào đội hình của địch. Chúng chết khá
nhiều. Chiếc xe tăng quay nòng pháo lại, bắn liền hai phát. Phát đầu trúng cửa
hầm, anh Tẹo toang bụng. Phát thứ hai hất tung khẩu 12,7, Định đang bắn sang một
bên. Thằng Định bị …” “Tao hiểu rồi” tôi khoát tay ra hiệu, đừng kể nữa.
Một cơn gió từ biển thốc vào
khiến tôi thấy lành lạnh sống lưng. Lần trứơc là Khánh “Voi”, lần này là Định
“Xịt”. “Chúng mày chết cho tao sống Định ơi. Bắn bộ binh không dễ đâu… khó nhất
là cơ động. Không đại khái được. Tao đã nói dối mày… Nếu không đi nghỉ hai tuần
thì xạ thủ số một chính là tao”.
Nhớ lại truyện tình đẹp như
truyền thuyết nó kể cho tôi bên bờ Thạch Hãn lại thấy quặn lòng. Ước gì, những
lá thư tỏ tình của mày không tới được nàng “Tiên Dung” miền sơn cước, Định
ơi.
Em vừa tròn mười
chín. Đã một lần nhìn thấy … Báu vật của cuộc đời.
Lòng yêu càng nặng trái ngang càng nhiều
Dù tan nát cũng liều thân cỏ
Xin nhận về sóng gió muôn nơi
Lênh đênh góc bể cuối trời
Lênh đênh góc bể cuối trời
Tình như ngọn lửa ngoài khơi bão bùng
Ngày tận cùng so giùm khúc hát
Điệu càng đau như hạt mưa bay
Thì giòng sông trôi lấp lửng chân mây
(ới a ới a...)
Nhận em một lạy cho qua một đời
Đường khúc khuỷu khung trời rạn vỡ
Mùi yêu thương nặng nợ ấm êm
Thôi anh về đi chân cứng đá mềm
Xin đừng nhìn chi đau thắt lòng nhau
Xin đừng lưu luyến nát tan lòng nhau
Tình hãy hẹn trùng hoan trong gió
Xin hẹn tình trùng vút trong mây