30 NĂM NỮA, VIỆT NAM MỚI ĐUỔI KỊP MÔNG CỔ
1.
Tôi hỏi 100
người, thì đến 97 người bảo:
- Mông Cổ ấy
à? Nghèo lắm hả?
Sai. Khái
niệm về một nước Mông Cổ nghèo khó ngự trị trong đầu óc dân Việt Nam từ xa thời
cùng phe XHCN. Nhà văn Tô Đức Chiêu bảo tôi:
“Tao đã đi
Mỹ, Ai Cập, Ả rập Xê út, Nga và Đông Âu, không kể châu Á như Tàu, Thái…, tức là
gần hết thế giới, nhưng khi đi Mông Cổ mới thấy mình khám phá ra một thế giới
mới. Nếu có dịp, tao đi 2 -3 lần nữa".
Tôi thấy thế
nên cũng đú theo, đi Mông Cổ một chuyến.
Mở ngoặc ngay
là, khi anh (du lịch) đến đâu, anh phải tự vấn ta đến đấy để làm gì, muốn biết
gì. Nói chung là nên đi phượt. Tôi có bài học kinh nghiệm về việc này:
Có một cậu
trẻ đi cùng đến thảo nguyên Mông Cổ, cậu thốt lên chán nản: Ơ, đâu cũng như
đâu, mênh mông cả, chả thấy cái gì!
Vấn đề là cái
gì?
Sau chuyến đi
Mông Cổ, tôi rút ra kết luận:
30 năm nữa
(hoặc hơn), không biết Việt Nam mình có đuổi kịp Mông Cổ hay không?
Mông Cổ diện
tích gấp hơn 6 lần nước Việt Nam, dân số hơn 3 triệu người (bằng 1/2 Hà Nội).
Mà 1/2 dân số ở Thủ đô Ulan Bato.
Hãy tưởng
tượng hơn 1 triệu người ở rải rác trên lãnh thổ gấp 6 lần Việt Nam.
Mông Cổ có
đặc biệt là có biên giới với Nga và Trung Quốc. Họ bị kẹp giữa hai nước lớn,
nên phải chọn 1. Lịch sử đã chứng tỏ họ chọn đúng, chọn nước Nga để tránh nước
Tàu kẻ thù. Chính chính phủ Quốc dân Đảng của Tưởng Giới Thạch khuất phục trước
chính phủ Stalin mà công nhận Mông Cổ độc lập.
Chuyện này
chính phủ Mao cay cú ra mặt, công khai gọi Mông Cổ là Ngoại Mông, còn phần lãnh
thổ Mông Cổ bị mất từ thời Nguyên triều thì Trung Quốc gọi là Nội Mông (họ vẫn
nhận đó là nước họ). Cấp độ cay cú ăn thua và nhòm ngó còn hơn một bậc so với
Việt.
Người Trung
Quốc chưa gọi Quảng Đông là Nội Việt, mặc dù vẫn dùng từ Việt gọi Quảng, Việt ngữ
là tiếng Quảng, họ chưa gọi Việt Nam là Ngoại Việt.
Nói thế để
biết mức độ nguy hiểm chênh vênh của con ngựa Mông Cổ trước con sói Trung Quốc.
Ở Mông Cổ tôi
được nghe câu chuyện tiếu lâm.
Một người
Mông Cổ gặp một người Nhật. Người Nhật cám ơn người Mông vì bài học của Nguyên
triều nên nước Nhật quyết định không chiếm Trung Quốc nữa. Nếu chiếm nó, có lẽ
nước Nhật đã thành Trung Quốc rồi.
Đó là một câu
chuyện tiếu lâm cay đắng mà không thể cười.
Ân oán giang
hồ với người Tàu thì rất nhiều. Chỉ kể một chuyện.
Các công ty
xây dựng ở Ulan Bato, và nói chung các công ty khác cần nhân công, thì đều thuê
nhân công Trung Quốc vì người Trung Quốc sinh sôi như cỏ dại, ở đâu họ cũng mò
đến nên các công ty có quy định chỉ được thuê dưới 6 tháng, mà trong 1 năm không
được thuê quá một lần. Nên người làm thuê phải đi về Trung Quốc ngay.
Cảnh sát Ulan
Bato rất dễ dãi với người Việt sinh sống ở thủ đô của họ, hình như có 7000
người, còn riêng người Trung Quốc thì phải thống kê rất cụ thể. Người bạn Mông
Cổ nói với tôi:
Việc lớn nhất
của cảnh sát là đuổi người Trung Quốc hết hạn cư trú.
Đúng vậy, họ
không có tình trạng kẹt xe, không có tệ nạn nhiều, việc chính là không để lọt
một cái trứng tu hú. Chuyện này 30 hay 50 năm nữa, Việt Nam cóc làm được, mà
cũng chả làm.
2.
Nhìn trên
phim ảnh, thấy thảo nguyên là những dải đất trùng điệp, cây cỏ lưa thưa. Nếu
chỉ có thế, chưa biết gì về thảo nguyên Mông Cổ cả. Hồi tôi đi tầm tháng 7
dương lịch là tháng đã hết cỏ rậm. Cỏ rậm thì đến ống chân, đến đầu gối. Còn
khi chuẩn bị vào Đông, cỏ bị đám gia súc gặm gần hết. Chỉ còn cỏ thấp và cỏ tái
sinh.
Nói từ
"cỏ" với người Việt, cũng không ổn. Cỏ của Việt Nam là thứ chả để làm
gì. Điều này lỗi ở các nhà làm ngôn ngữ khoa học, địa lý. Đáng lý nên dùng từ
"thảo mộc thân mềm" hay cái gì đó khác với "cỏ". Cúi nhìn
xuống, hàng trăm hàng nghìn loài cây gọi là cỏ rất khác nhau, riêng hình lá
cũng thiên hình vạn trạng. Nếu vò vài cái lá rồi đưa lên mũi, sẽ thấy nhiều mùi
vị rất khác. Mùi thơm thoang thoảng, mùi hắc, mùi nồng... Thực sự đó là một thế
giới cây thuốc và loại cây như rau thơm ở Việt Nam chứ không phải cây cỏ thông
thường. Gia súc Mông Cổ từ hàng nghìn năm nay ăn thứ cỏ đó.
Sau khi đi
thảo nguyên tôi mới lý giải được việc ở Mông Cổ người ta ăn rất ít rau, ăn rất
nhiều thịt. Ngay cả người Việt ở xứ ăn rau, đến Mông Cổ ăn toàn thịt, mà tiêu
hóa bình thường, không bị táo bón. Bởi vì lũ gia súc ăn thứ cỏ thiên nhiên
hoang dã bổ béo thơm lừng như hàng nghìn năm nay nó vẫn ăn. Không như gia súc ở
nơi nuôi công nghiệp.
Mông Cổ ngày
nay vẫn du mục và người ta tự hào vì nếp sống du mục này. Ông Chủ tịch Hội Hữu
nghị Mông -Việt nói tiếng Việt sõi như người Việt, bảo tôi, rất may là thảm họa
tập thể hóa, định canh định cư xảy ra rất nhanh, rồi thảo nguyên lại có sức
sống quay lại nếp xưa.
Nếu ai đã đọc
Tô-tem Sói của một nhà văn Trung Quốc (quyển này vang dội một thời trên văn đàn
Trung Quốc) thì biết thảo nguyên Nội Mông đã bị tàn phá kinh khủng như thế nào.
Họ dồn nén dân du mục vào hợp tác, triệt phá cách sinh hoạt truyền thống, mang
hàng sư đoàn quân đội bắn sói. Sói là vật thờ của người Nội Mông, khi người chết,
người ta kéo xác cha mẹ để ra một chỗ cho sói ăn. Người Trung Quốc Mao-ít bắn
sói, thế là thỏ làm giặc. Lại giết thỏ, lạc vào cái vòng quẩn, rồi đưa người
Hán đến sinh sống khiến thảo nguyên Nội Mông bị tiêu diệt. Trong quyển sách ấy,
tác giả cũng nói, nhìn sang Ngoại Mông xanh tươi mà tiếc...
Nhìn thảo
nguyên thì mênh mông nhưng hoang dã hàng trăm thứ thú hoang vẫn ngày đêm sinh
sống, tuân thủ cân bằng sinh thái của nó. Người Mông Cổ ngày nay có xe ô tô tải
có điện thoại di động kéo theo cái nhà và đàn gia súc, đi lang bạt trên thảo
nguyên theo nhu cầu của gia súc. Thảo nguyên mênh mông, mình nhìn đâu cũng như
đâu, nhưng chúng tôi đã được một chú bé 12 tuổi đưa từ thị trấn, đi xuyên 25 km
đến đúng chỗ lều của bố mẹ chú bé.
Hôm đi thảo
nguyên, chúng tôi được đón tiếp Chủ tịch huyện đến chơi, cũng vì biết có khách
Việt. Ông nói huyện ông có gần 80 hộ. Diện tích huyện, khi đó làm phép so sánh,
gần bằng tỉnh Hưng Yên cộng với Thái Bình. Chủ tịch huyện biết cả 80 hộ luôn.
Quy định của họ chăn thả không giới hạn, nên có lúc có hộ gia đình chăn thả ở
huyện khác (miễn là đăng ký vẫn ở huyện này). Chủ tịch người Đảng Dân Chủ, alo
gọi đồng chí Bí thư huyện ủy Đảng Nhân Dân (đảng cộng sản cũ) thì đồng chí đang
chăn ngựa, bèn cưỡi ngựa về. Bí thư huyện ủy đảng nào cũng làm nông dân cả và
chả chức vụ gì, cười hề hề đúng là ông chăn ngựa.
Riêng chuyện
này, 50 năm nữa Việt Nam có theo kịp không?
3.
Người Mông Cổ
có một niềm hãnh diện đã mất, đó là đã từng bá chủ thế giới, và còn một niềm
kiêu hãnh vẫn còn, đó là sữa ngựa.
Thế giới văn
minh và ở các nước phát triển có chỉ tiêu bao nhiêu lít sữa bò cho đầu người,
thứ sữa đó người Mông Cổ chỉ làm lương khô, làm nguyên liệu chế biến, vì họ
uống sữa ngựa. Hình như chỉ Mông Cổ dùng sữa ngựa làm thực phẩm chính yếu. Nó
là nguồn gốc sức mạnh của các chiến binh từ xưa, và khiến người Mông Cổ cao
lớn.
Ngựa là gia
súc chủ yếu ở thảo nguyên. Một hộ thường có vài trăm đến vài ngàn ngựa, thêm
cừu và dê. Bao giờ cừu cũng đi kèm dê. Mùa Đông, cừu nằm trên giữ ấm cho dê moi
cỏ chia nhau. Không có cừu dê chết rét, không có dê cừu chết đói. Kiểu chăn thả
thiên nhiên ấy khác xa nông trại hiện đại.
Kiểu vắt sữa
ngựa cũng khác vắt sữa bò. Vì khi vắt sữa luôn luôn có con ngựa con đứng cạnh.
Người Mông Cổ tôn thờ ngựa vì cả đức tính này, không buông tuồng vô cảm như bò,
cứ vắt là ra sữa bất kể thế nào. Sữa ngựa làm bia, làm thức uống, nên con ngựa
là đầu cơ nghiệp. Bò chỉ là loại thêm. Bò Mông Cổ lông dài như voi mamut. Bây
giờ cũng thoái giống, người Mông Cổ buồn vì bò lông ngắn, còn gì là bò nữa.
Gia súc nuôi,
thịt là thứ phẩm. Chính phẩm là lấy lông và da. Len Mông Cổ đắt kinh khủng.
Hình như hàng lông da là chủ lực xuất khẩu.
Cái lều Mông
Cổ thật sự là một thứ thú vị. Cứ nói "lều" thì khó hình dung, đến mới
thấy đó là cái biệt thự giữa thảo nguyên. Bây giờ lều có nhiều loại, từ 300 đến
30.000 đô Mỹ. Người Trung Quốc quá khôn, họ làm lều bán cho người Mông Cổ.
Trong cái lều
Mông, tài nhất là cái bếp ở chính tâm nhà, tâm vòng tròn. Chất đốt bằng phân
gia súc, thông hơi làm nhiệm vụ trụ chống giữa. Vào lều không nhận ra có bếp.
Người nông
dân du mục cũng có vấn đề nan giải, đó là sinh ra và nuôi dạy trẻ. Du mục xa
trung tâm thị trấn, nên nếu đẻ bất thường thì cấp cứu rất khó. Khi con 6 tuổi,
phải cho nó đi học, thì nhà mất một người - thường là mẹ hay chị lớn - phải đưa
lên thị trấn làm một cái lều ở nuôi con 1-2 năm mới yên tâm gửi con học nội
trú. Ở các thị trấn thị tứ cứ thấy các cụm lều, đó là những người đi nuôi con
học. Vì vậy mà nhà nghèo hoặc quan điểm cũ chỉ cần đọc chữ, trẻ thất học.
Hình như
chính việc hiếm người mà du mục có truyền thống quý người. Phụ nữ đẻ con là
quý, con ai không quan trọng. Mấy ông Mông Cổ bảo, cộng đồng du mục có lệ,
khách quý cao tuổi thì chủ nhà mời đầu dê. Thịt con dê, cái đầu là quý nhất.
Còn khách trẻ và trung niên thì chủ nhà bảo con gái sưởi ấm cả đêm. Tôi không ở
qua đêm ở thảo nguyên, nhưng nghe kể lại, các nhà văn Trần Nhương, Tô Đức
Chiêu, Thúy Toàn có ngủ đêm thảo nguyên và được coi là khách quý trung niên.
Vấn đề là các bác ấy có chịu đựng được mùi mồ hôi người ăn thịt cừu, uống sữa
ngựa và 3 tuần mới tắm không thôi.
Người Mông Cổ
rất có ý thức giữ gìn môi trường thảo nguyên. Tôi khá ngạc nhiên. Mọi người
picnic thu dọn rác tống lên xe về bãi rác ngoại ô vứt. Họ nói tivi có nhiệm vụ
quan trọng nhất là tuyên truyền giữ sạch thảo nguyên. Và việc này chỉ có từ khi
cách mạng dân chủ đa đảng. Người lái xe dẫn chúng tôi, mặc dù xe chật, kiên
quyết mang bao tải rác trên xe để về đến bãi rác ngoại ô.
Ở Ulan Bato,
anh là công chức, lập tức được cấp 0,99 ha ở ngoại ô làm nhà nghỉ. Cuối tuần,
chiều thứ 6, lũ lượt xe rời thủ đô ra ngoại ô. Thứ 7 Chủ Nhật thủ đô vắng thênh
thang. Tối Chủ Nhật lại rồng rắn về thành phố.
Nếu không
phát động giữ thảo nguyên thì chả mấy chốc thảo nguyên nghìn đời thành bãi rác.
Và họ đã làm được rất tốt. Tương tự, thảo nguyên của họ là rừng là biển của
người Việt.
Than ôi,
chúng ta đã cư xử như là tự phá hủy cơ thể! L
Đuổi kịp Mông
Cổ ư? Không bao giờ!
4.
Định nói
nhiều chuyện khác, nhưng nhiều bạn hỏi đi du lịch Mông Cổ, nên tôi nói chủ đề này
trước.
Các công ty
du lịch Việt Nam cũng có tua Mông Cổ nhưng ít. Mùa đi là mùa Xuân và Hè, tốt
nhất tháng 5-6 nhiều lễ hội, có nhiều cái để xem. Tháng 8 bắt đầu rét không đi
thảo nguyên được. Đêm xuống 0 độ. Chênh lệch ngày đêm 10-20 độ. Tôi đi tháng 7,
ban ngày 25-30 độ, đêm 5 độ. 8 giờ mới bắt đầu tối.
Tôi chọn cách
tự đi.
Mua vé khoảng
800 đô. Chú ý là không bao giờ nên chọn tuyến bay quá cảnh qua Bắc Kinh. Sự ti
tiện nhỏ nhen của người Trung Quốc thể hiện ở cấp độ thể diện quốc gia, họ hành
người đi Mông Cổ chết thôi. Nhiều người bị hành truyền kinh nghiệm rồi. Điều
này tôi chưa bị nhưng tin. Ai đi từ Quảng Châu về Hà Nội sẽ thấy khu đợi tàu ra
máy bay đi Hà Nội bị nhét xuống dưới khoang ra cùng với bay nội địa của họ, cửa
Hà Nội lẫn với Bắc Kinh, Thượng Hải, Thành Đô, Trùng Khánh...
Đi Mông Cổ từ
Việt Nam thì nên bay quá cảnh qua Hàn Quốc. Khách sạn Ulan Bato cũng có nhiều
loại như Hà Nội, có điều ít lựa chọn, giá đại khái như phố cổ.
Ulan Bator
nhiều ô tô phân khúc rẻ. Đại khái như Lào - Cam. Ô tô cũ mới phong phú. Ô tô cũ
của Nga, mới của Nhật, Hàn là chính. Người Việt ở Ulan Bator hầu như làm một
nghề sửa chữa ô tô. Tôi có sơ bộ tìm hiểu, các hiệu sửa chữa ô tô đều đứng tên
người Mông Cổ. Họ không mặn mà mở rộng đầu tư nước ngoài, trái ngược với Việt
Nam. Vì tôi đoán họ khôn ngoan, điều kiện người ít, không vội vàng tiến lên
theo kiểu Việt Nam, Trung Quốc. Nhiều người Nhật, Hàn đến đầu tư chủ yếu làm
công nghiệp thuộc da và lông thú, sản xuất len.
Hồi tôi đi
Mông Cổ cách đây 3 năm cũng thấy có khách tua được công ty du lịch dẫn đi xem
thảo nguyên, xem sinh hoạt du mục, ở nhà lều... Dĩ nhiên không thể bằng mình lọ
mọ tự đi. Cũng là may mắn có nhiều người giúp. Gõ cửa ông nhà văn Dastseven,
Chủ tịch Hội Hữu nghị Mông-Việt, ông ấy chỉ dẫn cho đi...
Ẩm thực Mông
Cổ đơn giản kinh khủng. Thịt con gì cũng chặt to cỡ cái mũ, cho vào nồi đại
tướng, thêm qua quýt củ quả gì đó. Rồi được phát một con dao. Xin mời! Nước thì
húp soàn soạt. Đại khái truyền thống như vậy. Món này rẻ như rau muống Việt
Nam.
Ngày nay thì
siêu thị cũng đầy thực phẩm, hàng hóa. Khách sạn nhà hàng gì cũng có. Mức chi
tiêu ở Mông cổ dĩ nhiên đắt đỏ hơn Hà Nội.
Mông Cổ không
vội và không hào hứng hội nhập với các nước mà chỉ chọn lọc mấy nước truyền
thống. Hàng tiêu dùng chủ yếu là Nhật, Hàn. Hàng Trung Quốc từ phía Bắc Trung
Quốc thì là hàng cao cấp. Nên ví dụ quần áo túi ví trang sức... Thanh niên mặc
bình thường, cũng thấy toàn hàng hiệu, loại mà ở Việt Nam phải người rất giàu
mới dùng.
Trung tâm thủ
đô Ulan Bator nay là quảng trường Sukhe Bator, ngày xưa có mộ ông này, lãnh tụ
cách mạng khai sinh nước CHDCND Mông Cổ từ thập niên 20, đại khái ông ấy như Hồ
Chí Minh Việt Nam.
Sau cuộc cách
mạng dân chủ 199x thì người ta mang mộ ông ấy về quê chôn, không để ở giữa thủ
đô nữa, còn lại bức tượng oai hùng mà thôi. Vẫn kính trọng như cũ, chỉ không để
mộ to tướng ở giữa thủ đô.
Khi tôi đến,
còn tàn tích vài bệ tượng Lê Nin.
Nói chung
tượng lãnh tụ vô sản bỏ hết nhưng họ vẫn để bức tượng bán thân Hồ Chí Minh ở
khuôn viên trường phổ thông liên cấp mang tên Hồ Chí Minh. Đây là một loại
trường chuyên hàng đỉnh của thủ đô như Am, Chu của Hà Nội.
Buồn cười là
các lãnh tụ lật đổ chế độ cộng sản Mông Cổ phần lớn xuất thân từ đây. Tổng
thống đầu tiên của chế độ đa đảng là học sinh xuất sắc trường Hồ Chí Minh, hai
thủ tướng sau cũng là học sinh trường này.
Hồi Liên Xô
sắp sụp thì người Mông Cổ đã tự giải quyết. Đảng nhân dân cách mạng phải lên
truyền hình tự nhận lỗi về những sai lầm rập khuôn mô hình Liên Xô. Nói chung
cuộc chuyển chế độ của họ êm không gay cấn...
Ở Mông Cổ,
tôn giáo chính là Thiền phái Mật tông Tây Tạng. Phật giáo bắt rễ vào cùng thời
vào Việt Nam nhưng là nhánh Tiểu thừa Ấn, sau chuyển Mật tông Tây Tạng. Chùa ở
Ulan Bator thờ giáo chủ Đạt lai Lạt ma thứ 14 trưng ảnh vị ấy rất to và trang
trọng. Đó là vị Lạt ma đang lưu vong mà Bắc Kinh coi là kẻ tử thù.
Nếu chỉ du
lịch đi qua ngắm cảnh mà không để ý thì không thấy sự khác biệt sâu sắc này,
dẫn đến xã hội và nền chính trị Mông Cổ khác Việt Nam và khác các nước Phật
giáo khác (Lào, Cam...) gần ta, khác một trời một vực.
Riêng vấn đề
này, Việt Nam không còn đặt vấn đề đuổi kịp nữa vì hai nước đang ở hai hệ quy
chiếu khác...
5.
(Tôi định kết
thúc câu chuyện Mông Cổ ở kỳ 4, nhưng rất bất ngờ là thông tin về Mông Cổ lại
ít như vậy, chắc là bài tôi viết cũng có chút bổ ích, nên kể thêm 2-3 kỳ nữa).
Mông Cổ nổi
tiếng về ngựa, nhưng ít ai biết về con chó Mông Cổ và số phận bi phẫn của chó
Mông Cổ.
Hiện nay,
người du mục nào cũng nuôi chó, và giống chó đúng Mông Cổ (Dĩ nhiên nó không
phải chó gốc, phần sau sẽ nói). Loại này với chủ rất hiền từ, với khách không
mời thì vô cùng dữ. Chúng tôi đi thảo nguyên bằng ô tô, nhưng đi qua đất của
chủ chó, lập tức bị con chó xông ra nhe nanh xù lông sủa dữ dội đuổi theo cắn ô
tô, cứ như cái ô tô có thể ngoạm được. Nhà trên thảo nguyên chỉ phân cách sở
hữu (tạm) đất bằng một vết lõm dùng cuốc thành rãnh rất nông, mắt thường còn
khó biết, nhưng nếu ô tô đi qua vạch phân giới ấy là con chó dừng lại.
Người đi thảo
nguyên với tôi là thành viên Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Mông Cổ, kể rằng:
Ngày xưa,
ngay cả thời Thành Cát Tư Hãn xâm lược châu Âu có quy định mang chó Mông Cổ đi
theo và kiểm kê từng con một để đảm bảo không sổng con nào ở ngoài Mông Cổ. Tuy
nhiên, lịch sử trớ trêu, người Mông Cổ đã chiếm và làm vua Trung Quốc nên mất
giống chó gốc vào tay Trung Quốc. Con chó bây giờ gọi là "Ngao Tây
Tạng" chính là con chó gốc Mông Cổ.
Mông Cổ làm
chủ Trung Nguyên, lập ra nhà Nguyên, vẫn có truyền thống bảo vệ con chó Mông
Cổ. Nhưng cũng đến ngày nhà Nguyên cáo chung. Chúng ta đọc lịch sử chỉ biết nhà
Nguyên thất bại nhưng không biết rằng triều đình Nguyên với người gốc Mông Cổ
không hề ở lại Trung Quốc,m mà rút toàn bộ về Mông Cổ. Giới tinh hoa quý tộc
Nguyên gốc Mông có ý thức không ở lại Trung Quốc. Họ về Mông Cổ. Và một số ít
lên Tây Tạng.
Vì sao lại
lên Tây Tạng?
Vì khi đó Tây
Tạng không / chưa bị Hán hóa, là một quốc gia độc lập. Tây Tạng là quê hương
Phật giáo truyền sang Mông Cổ. Thành Cát Tư Hãn đã có lời thề, sẽ chiếm toàn
thế giới, trừ (Ấn Độ, Tây Tạng) quê hương Phật Giáo. Như vậy một bộ phận quý
tộc Mông Cổ lên Tây Tạng mang theo con chó Mông Cổ.
Theo ông Hàn
lâm KHXH Mông Cổ, cho đến trước năm 1970, con chó Mông Cổ (Ngao Tây Tạng) còn
vài trăm con trên lãnh thổ Mông Cổ, chủ yếu ở vùng thảo nguyên xa. Người Trung
Quốc có chiêu bài thu mua chó, bao nhiêu cũng mua, giá cao ngất ngưởng. Nhà
nước dùng mọi cách cũng không giữ lại được. Khoa học kỹ thuật Mông Cổ khi đó
lại lạc hậu. Nên cho đến năm 199x, chó Mông Cổ (Ngao Tây Tạng) chính gốc bị mất
hết. Ngày nay, các con chó thảo nguyên trông dáng như Ngao Tây Tạng, không to
bằng, là loại đã bị lai tạp cả.
Số phận con
chó Mông Cổ cũng bi hùng chìm nổi như chính người Mông Cổ vậy.
6.
Các vua Hùng
đã có công dựng nước... Mông Cổ.
Điều này
tưởng như nói đùa chơi, mà là sự thật.
Khi tôi nói
về lịch sử vua Hùng, ông Dashtseven, Chủ tịch Hội Hữu nghị Mông Cổ - Việt Nam,
Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Mông Cổ, chăm chú một cách khác thường.
Ông hỏi:
- Sao lại có
tên "Hùng"?
Tôi thuật lại
các giả thiết khác nhau về tên gọi vua Hùng, trong đó có giả thuyết của ông
Trần Quốc Vượng - nhà sử học số 1 của Việt Nam. Ông Vượng cho rằng, cộng đồng
dân cư Việt đã gọi người đứng đầu là Khun hay Hun gì đó, khi có chữ Hán, người
ta dùng chữ Hùng để ghi lại mà thôi (Có giả thuyết họ Hùng và các giả thuyết
khác). Ông Dashtsevan nói ngay:
- Tôi ủng hộ
cách lý giải của ông Trần Quốc Vượng.
(Vì các lý
giải trong lịch sử Mông Cổ)
Người Mông Cổ
cổ đại gọi người đứng đầu bộ tộc là Hung (hay Hun). Hung là vua, không cần gọi
"vua Hung".
Khoảng tương
tự trước thời Tần ở Trung Quốc có một Hung đã thống nhất các bộ lạc trên lãnh
thổ mà trung tâm là Mông Cổ bây giờ tạo thành một nước rộng lớn, phía Bắc ôm
trọn hồ Bai Can, phía Nam giáp với Bắc Kinh. Nước Mông Cổ cổ đại ấy rất hùng
mạnh, nhiều lần đánh bại các nhà nước thuộc Chu (Trung Quốc) và đánh Tần, khiến
nhà Tần phải xây Vạn lý Trường thành để ngăn cản.
Cho đến giữa
thời Hán, khoảng 100-150 trước Công nguyên, nhà Hán đã có lần đánh bại được
nước Mông Cổ đó, từ đó dẫn đến thời kỳ suy yếu của nhà nước Mông Cổ hùng mạnh.
Trong sử sách của người Trung Quốc, vương quốc đó được gọi là "Hung
Nô". Hung Nô là tên gọi miệt thị trong sử Trung Quốc sau nhà Hán để gọi
quân đội và các bộ tộc mà Hung đứng đầu. Sau này, sách Trung Quốc gọi các vua
của Hung Nô là các Thiền Vu, cũng là một cách phiên âm mà sau này người Mông Cổ
phải chấp nhận, miễn cưỡng và không thích, cũng như rất ghét tên gọi Hung Nô, ý
của nhà Hán là "Hung nô lệ" - cái nước mà họ đã bắt làm nô dịch.
Nhìn lại Việt
Nam ta, cái tên An Nam do triều đại Trung Quốc và Pháp dùng để chỉ một phương
Nam an bài, bị nô dịch, thì người Việt Nam nào thích không?
Tuy nhiên,
lịch sử có giai đoạn An Nam, kể từ thời An Nam đô hộ phủ đến An Nam thuộc Pháp,
thì vẫn là sự thật, cũng như người Mông Cổ còn lại dấu vết của vương quốc Hung
Nô.
Đế quốc Hung
Nô suy tàn, cho đến TK-XIII có một người Mông Cổ vĩ đại đã lập lại đế quốc của
họ rộng gần hết thế giới. Đó là Tringit Khan, người Việt gọi theo chữ Hán là
Thành Cát Tư Hãn.
Đây lại là
câu chuyện khác.
Có một giả
thuyết được nhiều người tin theo, đó là một bộ phận Hung Nô đã đánh dẹp sang
tận châu Âu, hình thành cộng đồng dân tộc Hungari. Nhưng cũng có nhiều người
phản bác. Tuy vậy, các cuộc chinh chiến của quân Hung Nô (chưa phải thời
Tringit Khan) cũng để lại các chiến binh rải rác khắp châu Âu, mầm mống gen của
họ còn đó, kể cả Thổ Nhĩ Kỳ, là một sự thật khó chối cãi.
Như vậy, có
một mẫu số chung thời cổ đại, nhiều bộ tộc gọi người đứng đầu của mình là
Hung/Hun/Khun... (Hiện nay, một số dân tộc thiểu số ở Việt Nam vẫn gọi là
Khun). Nếu ông Xukhe Bator dạy quân dân, cũng có thể nói:
“Các Hung đã
có công dựng nước Hung vĩ đại, bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy phần còn lại
này".
Tôi hỏi ông
Dashtsevan:
- Các anh có
lịch sử rất khúc khuỷu, có lúc mạnh chế ngự thế giới, có lúc suy tàn, vậy các
anh dạy học sinh và tuyên truyền lịch sử như thế nào?
Ông
Dashtsevan nói:
“Sự thật.
Chúng tôi ủng hộ quan điểm tham mưu với nhà nước phải nói sự thật và chỉ có sự
thật, có tranh luận thì cũng thuần học thuật, đừng mang chính trị áp vào. Sự
thật sẽ là bài học lớn. Điều này thời chính quyền của Đảng Nhân dân cách mạng
thì cũng có khó khăn, nhưng dưới thời đa đảng thì thuận lợi".
Rất bất ngờ,
ông chia sẻ quan điểm với tôi, đất nước của các vua Hùng của người Việt không
chỉ bó hẹp ở Phong Châu và Đồng bằng sông Hồng, mà nó là phạm vi gần trùng với
nước Nam Việt, còn lớn hơn nước Nam Việt của Triệu Đà. Bởi vì khi Hai Bà Trưng
khởi nghĩa là khôi phục nước Nam Việt và đất của vua Hùng. Chỉ có điều đó mới
phù hợp với chính sử về gốc tích các vua Hùng (bây giờ thì việc Hai Bà chiếm 65
thành ở Nam Trung Quốc, có đền thờ khắp Quảng Đông, Quảng Tây đã nhiều người
biết).
Nói sự thật,
điều đó với việc tuyên truyền lịch sử ở Việt Nam còn đi sau Mông Cổ, còn đuổi
mệt mới kịp...
7.
Người Mông ở
Việt Nam (và các nước khác) là một bộ phận dân Mông Cổ đã thiên di. Điều đó là
khẳng định của ông Dashtsevan. Ông đã nghiên cứu vấn đề này, đến cộng đồng Mông
ở khắp các nước Đông Nam Á (Lào, Thái, Miama, Malaysia, Indonesia). Riêng ở
Việt Nam, theo nguyện vọng của ông, tôi đã dẫn ông lên Bắc Hà để quan sát người
Mông Bắc Hà.
Trong các tài
liệu chính thức phổ biến ở Việt Nam thì người Mông có nguồn gốc ở Nam Trung
Quốc, di cư đến Việt Nam khoảng trên dưới 300 năm, có bộ phận chỉ 100-150 năm,
và ý kiến nguồn gốc Mông Cổ là lần đầu tiên tôi nghe từ ông Dashtseven - một
người nghiên cứu khoa học xã hội Mông Cổ.
Ông
Dashtseven khảo cứu về truyền thuyết nguồn gốc di cư, có cộng đồng dân cư nói
rõ đi từ thảo nguyên Mông Cổ, có bộ phận không nói rõ, nhưng đều nhận từ thời
gian gần (mấy trăm năm) là từ miền cao nguyên Tây Tạng.
Lịch sử văn
hóa Mông Cổ gắn chặt với Tây Tạng. Hiện nay, chữ của người Mông Cổ chính là bộ
chữ truyền thống Tây Tạng, trông như giun nhưng viết từ trên xuống. Khi cách
mạng dân chủ thành công, người Mông Cổ bỏ bộ chữ Xlavo của Nga, dùng chữ truyền
thống của mình. Chữ Tây Tạng truyền theo con đường truyền đạo Phật. Tương tự
như các giáo sĩ Bồ làm chữ Quốc ngữ cho người Việt. Các thiền sư Tây Tạng đã
mang chữ của họ cho người Mông cổ trung đại. Và khi người Mông Cổ làm chủ Hoa
Hạ, nô dịch người Hán, họ có mối liên hệ quan trọng với người Tây Tạng. Khi nhà
Nguyên thất bại, bộ phận dân cư không phải quý tộc và quan lại đã ở lại vùng
chân núi Tây Tạng. Đó là bộ phận dân cư của các bộ tộc nghèo, nhiều bộ tộc khác
với các bộ tộc theo Tringit Khan làm vua ở triều đình. Và họ tiếp tục chạy nữa,
sau triều Tống, đến triều Thanh chinh phục Tây Tạng, họ vẫn chạy. Họ di cư đến
vùng đất mới sau thì phải chọn chỗ trên cao như Việt Nam, chứ không phải đâu
cũng ở cao. Ở Lào, người Mông ở thấp.
Quá trình du
mục thảo nguyên chuyển đến du mục trên các triền núi, người Mông bắt buộc phải
thay đổi nhiều tập quán, nhưng giữ lại tập tục du mục, trang phục và ứng xử với
ngựa. Ở Bảo tàng dân tộc tại Mông Cổ, có thể tìm thấy các bộ trang phục na ná
người Mông Việt Nam.
Tại sao chỉ
có người Mông ở trên núi cheo leo vẫn gắn bó với con ngựa như thế?
Khi đến Bắc
Hà, ông Dashtseven chú ý tìm hiểu các từ ngữ liên quan đến ngựa, và thấy nó có
nhiều tương đồng với người Mông Cổ. Người Việt gắn bó với con gà con lợn, thì
đực, cái, động tác của chúng đều có từ riêng, nhưng với ngựa thì không như vậy.
Còn người Mông thì khác, ngựa đực - cái, động đực, chạy, phi... đều có từ riêng
cả.
Ở Mông Cổ,
con dê thịt ra quý nhất cái đầu, con ngựa thì quý nhất bộ ruột. Người Mông Việt
Nam làm thắng cố không có bộ ruột thì coi như không thành. Họ đem những hoa quả
thuốc thang ở vùng nhiệt đới cho vào món ruột, làm nên món đặc biệt của người
Mông.
Thời xưa làm
báo, tôi đã đọc văn bản của Văn phòng Chính phủ hướng dẫn các báo gọi chính
thức người Mông là "Mông", không phải H'mong như người Pháp gọi, vì
người Mông tự gọi mình như thế (tuyệt nhiên không nên gọi là Mèo, vì đó cũng là
cách gọi miệt thị có từ thời Pháp thuộc). Người Mông Cổ tự gọi mình là
"Môn-gô". Từ "Mông" là một từ Mongo đã Việt Hóa (có nước
gọi là Môn).
Cho đến nay,
có lẽ nước ta cũng nên không gọi tên nước người ta theo kiểu Hán là Mông Cổ
nữa. Cứ nên gọi là Mongo thì có khó gì.
Thực ra, hầu
như nước nào lân cận đường chinh phạt của Tringit Khan đều có chuyện cộng đồng
người gốc Mongo. Nhân có cơ duyên đi Mông Cổ, gặp ông Dashtseven được biết
nhiều chuyện, viết nên để hầu bạn FB một lần.
Mông Cổ có
một người như ông Dashtseven ở đâu có người Mông là đến để nghiên cứu, để điền
dã.
Người Việt
mình có ai như thế không ạ?
8.
Khi bắt đầu
viết về Mông Cổ, tôi không ngờ câu chuyện lại kéo dài đến 8 kỳ. Chính bạn đọc FB
đã khiến tôi có hứng thú. Vì người Việt ít thông tin về đất nước đó, nhưng cái
chính là đất nước và con người Mông Cổ thực sự hấp dẫn.
Khi đến Mông
Cổ, nhiều nơi có treo bản đồ Mông Cổ TK-XIUI. Buồn cười là các bản đồ này chỉ
na ná nhau mà không hoàn toàn giống nhau, bao gồm hết Trung Á, châu Âu, toàn bộ
miền Địa Trung Hải, cả Đông Á, chỉ trừ Ấn Độ, Nhật Bản và Tây Tạng. Bởi vì vó
ngựa Tringit Khan thổi qua Âu Á quá nhanh, quá nhiều, để lại cho hậu thế nhiều
cách nhìn khác nhau. Có nơi, bản đồ có bao gồm Việt Nam ngày nay, nhưng có nơi
lại chừa Việt Nam, coi như không có chuyện đã chiếm Việt Nam. Họ giải thích:
Quân Mông Cổ đã đến đó, nhưng khí hậu không hợp, nên rút về. Ai chứ tôi thì
thấy giải thích đó thỏa đáng.
Lịch sử Mông
Cổ có trang hào hùng TK-XIII, nhưng cũng có trang bi thảm TK-XVII, XVIII, XIX.
Nhà Thanh làm vua Trung Quốc, sau khi đã thống trị Mông Cổ.
Thời nhà
Thanh, Trung Quốc đúng là bao gồm hết đất Mông Cổ và Tây Tạng. Cách mạng Tân
Hợi 1911 lật đổ Thanh triều, sau đó chuyển chính quyền sang Quốc dân Đảng, có
một thời kỳ tạo cơ hội độc lập cho Mông Cổ. Nhưng phải đến 1922, dưới cái ô của
Liên Xô, sau khi đã có Xukhe Bator chiến đấu với Hồng quân Liên Xô, thì Mông Cổ
mới giành được độc lập một phần, nay là lãnh thổ hiện tại.
Còn một phần
gọi là Nội Mông đành nằm lại Trung Quốc.
Đến khi kết
thúc Chiến tranh Thế giới thứ 2, lần nữa Mông Cổ có cơ hội lấy lại Nội Mông
nhưng không thể xảy ra cũng vì cuộc mặc cả vì lợi ích các nước lớn.
Liên Xô chỉ
vì lợi ích của họ, lấy Nội Mông làm thứ mặc cả với Trung Quốc, chứ không kiên
quyết lấy lại Nội Mông. Sự kiện này khiến cho xảy ra một số cái chết của lãnh
đạo nhà nước Mông Cổ cho đến nay vẫn là một nghi vấn lớn. Lãnh đạo Mông Cổ thời
kỳ trước năm 1960 không hoàn toàn theo chủ nghĩa Stalin, các chủ trương tập thể
hóa làm không đến nơi đến chốn, có phần hời hợt. Troibanxan là lãnh đạo nhà
nước thời kỳ 194x, 195x còn là người có đầu óc độc lập dân tộc, chỉ coi Mông Cổ
là nước liên kết với Liên Xô. Cái chết của ông vẫn còn là nghi vấn. Chỉ đến
Xedenban 1960, nước Mông Cổ mới hoàn toàn theo mô hình Liên Xô.
Tuy nhiên,
ngay từ những năm 193x, khi Liên Xô những người Staninit thanh trừng nhau đẫm
máu, Mông Cổ không bị lún sâu vào các mâu thuẫn xã hội kiểu Liên Xô hay kiểu
cải cách ruộng đất ở Việt Nam. Nên vào đầu những năm 199x, khi có làn sóng dân
chủ, những người cộng sản đã công khai nhận lỗi lầm và chịu thất bại trước lực
lượng dân chủ. Và thảo nguyên của họ nhanh c hóng sống lại nếp sống hàng nghìn
năm (chỉ có bị gián đoạn 70 năm).
Khi tôi vào
bảo tàng Mông cổ thời hiện đại, còn những bức ảnh một người cầm loa trước cuộc
biểu tình lớn ở thủ đô Ulan Bator, đó là người trở thành vị tổng thống dân chủ
đa đảng đầu tiên của Mông Cổ.
Người Mông Cổ
sống ngàn năm với đàn gia súc, và họ học tính cách của các con vật của thảo
nguyên. Nếu có cuộc tranh giành, thì con yếu quay đầu để đầu hàng trước, ít khi
xảy ra tỷ thí đổ máu. Lực lượng trí thức tinh hoa là những người cầm đầu cuộc
cách mạng dân chủ. Khi tôi đến Trường phổ thông liên cấp Hồ Chí Minh, mọi người
đều hãnh diện vì trường sản sinh ra các lãnh đạo nhà nước thời kỳ dân chủ, và
họ cũng khoái chí vì đã mang tên Hồ Chí Minh. Trong hiểu biết của nhiều người
Mông Cổ, Hồ Chí Minh là lãnh tụ đã giành độc lập cho Việt Nam năm 1945, còn
chuyện Người là cộng sản thì dĩ nhiên như vậy, cũng như Sukhe Bator của họ
thôi. Sukhe Bator đã lập nước Mông Cổ thập kỷ 20, khuyết điểm của Đảng Nhân dân
cách mạng sau năm 1960 không thể đổ tại Sukhe Bator được.
Cái nhìn của
những người bạn Mông Cổ về lịch sử cận đại khiến tôi rất suy nghĩ.
Bao giờ nước
Việt Nam tiến đến thực tế như của họ, quan điểm như của họ?
Nguyễn Xuân
Hưng