Thứ Tư, 17 tháng 1, 2024

QUYỂN 113 NAM VIỆT LIỆT TRUYỆN

 

SỬ KÝ II. LIỆT TRUYỆN (QUYỂN HẠ)

Phạm Văn Ánh dịch

QUYỂN 113 

NAM VIỆT LIỆT TRUYỆN

Nam Việt vương Úy Đà, người Chân Định, họ Triệu. Nhà Tần đã thôn tính được thiên hạ, đánh chiếm bình định Dương Việt, lập ra các quận Quế Lâm, Nam Hải, Tượng Quận, đưa đám lưu dân đến sống chung với dân Việt mười ba năm. Thời Tần, Đà được làm Huyện lệnh Long Xuyên, quận Nam Hải. Đến thời Tần Nhị thế, Quận ủy Nam Hải là Nhâm Hiêu bị bệnh sắp chết, triệu Huyện lệnh Long Xuyên Triệu Đà đến nói: “Nghe nói bọn Trần Thắng làm loạn, nhà Tần vô đạo, thiên hạ khốn khổ, bọn Hạng Vũ, Lưu Quý[1], Trần Thắng, Ngô Quảng, ai nấy nổi lên tụ họp quần chúng ở các châu quận, như đàn hồ tranh nhau thiên hạ, Trung nguyên náo loạn, không biết chỗ nào yên, hào kiệt phản lại Tần, cùng nhau dựng lập. Nam Hải hẻo lánh xa xôi, ta sợ quân trộm cướp xâm lấn đất đai đến đây, ta muốn dấy quân cắt đứt đường mới, tự phòng bị, đợi chư hầu có biến, lại gặp lúc bệnh nặng. Hơn nữa Phiên Ngung dựa vào núi non hiểm trở, gần Nam Hải, từ đông sang tây mấy nghìn dặm, nếu được người Trung nguyên tương trợ, nơi đây cũng thành bá chủ một châu, có thể dựng nước. Các trưởng lại trong quận không ai đáng tin cậy, cho nên triệu ông đến để nói việc đó.” Rồi viết thư giao cho Đà, thay mình giải quyết công việc của Quận ủy Nam Hải. Hiêu chết, Đà liền truyền hịch cho các đất Hoành Phố, Dương Sơn, Niết Khê Quán rằng: “Quân trộm cướp sắp kéo đến, hãy kíp chặn đường, tập trung quân để tự phòng giữ!” Nhân đó [Triệu Đà] từng bước dùng pháp luật để giết các trưởng quan do nhà Tần đặt, dùng bè đảng của mình thay làm Quận thú. Tần đã bị đánh rồi diệt vong, Đà liền đánh chiếm Quế Lâm và Tượng Quận, tự lập làm Nam Việt Vũ vương. Sau khi Cao đế bình định thiên hạ, do Trung nguyên lao khổ nên bỏ qua không giết Đà. Nhà Hán năm thứ mười một, sai Lục Giả nhân đó lập Đà làm Nam Việt vương, cùng chẻ tín phù để thông sứ[2], hòa hiếu quy tập người Bách Việt, không để họ trở thành mối nguy cho biên cương phía nam, Nam Việt tiếp liền ranh giới Trường Sa.

Thời Cao hậu, quan hữu ty đề nghị cấm Nam Việt buôn bán đồ sắt ở các chợ vùng biên. Triệu Đà nói: “Cao đế lập ta, cùng nhau thông sứ, trao đổi hàng hóa, nay Cao hậu nghe lời gièm của bề tôi, phân biệt man di, ngăn cấm đồ dùng, đó hẳn là kế của Trường Sa vương, muốn dựa Trung nguyên, đánh diệt Nam Việt rồi làm vua cả hai vùng, tự lập công lao vậy.” Thế là Đà liền tự tôn hiệu thành Nam Việt Vũ đế, phát binh tấn công các ấp biên giới Trường Sa, phá hủy mấy huyện rồi rút về. Cao hậu sai tướng quân Long Lự hầu là Táo mang quân đến đánh. Gặp thời tiết nóng nực, ẩm thấp, sĩ tốt phần lớn bị bệnh dịch, quân không thể vượt núi Dương Sơn. Hơn một năm sau, Cao hậu băng hà, liền bãi binh. Triệu Đà nhân đó đem quân uy hiếp biên giới, đem của cải hối lộ Mân Việt, Tây Âu và đất Lạc, nô dịch rồi khiến họ quy thuộc, từ đông sang tây trải hơn vạn dặm. Bèn ngồi xe hoàng ốc cắm cờ bên trái[3], ban chiếu lệnh xưng là “chế”, ngang hàng với Trung nguyên[4].

Đến thời Hiếu Văn đế năm đầu, mới cai trị thiên hạ, sai sứ báo cho chư hầu, Tứ di[5] từ đất Đại vào triều để thể hiện ý hướng khi mới lên ngôi, tỏ rõ ân đức lớn lao. Bèn cho là mộ của cha mẹ Triệu Đà ở Chân Định, cho phép [Triệu Đà] lập ấp giữ gìn phần mộ, hằng năm các tiết phụng thờ tế tự. Triệu các anh em họ, ban cho quan cao lộc hậu, sủng ái họ. Hạ chiếu cho bọn Thừa tướng Trần Bình tiến cử người có thể đi sứ Nam Việt, Bình nói Hiếu Chỉ và Lục Giả thời tiên đế đã quen đi sứ Nam Việt. [Vua] bèn triệu Lục Giả, cho làm Thái trung đại phu, sai đi sứ; nhân đó trách Đà tự lập làm Hoàng đế, không sai sứ giả đến thông báo. Lục Giả đến Nam Việt, Nam Việt vương rất lo sợ, viết thư tạ tội, nói rằng: “Bề tôi đại trưởng lão phu ở man di là Đà, trước đây Cao hậu ngăn cách phân biệt Nam Việt, trộm ngờ Trường Sa vương gièm pha thần, lại từ xa nghe tin Cao hậu giết hết tông tộc của Đà, khai quật thiêu đốt mồ mả tổ tiên, cho nên bất chấp tất cả, xâm phạm biên giới Trường Sa. Hơn nữa phương nam thấp ẩm, trong cõi man di, Mân Việt ở phía đông, nghìn người xưng vương, Âu Lạc phía tây là nước để trần cũng xưng vương. Lão thần trộm xưng đế hiệu, tạm lấy đó tự làm vui, nào dám đem việc ấy báo với thiên vương!” Bèn dập đầu tạ lỗi, nguyện mãi làm phiên thần, dâng cống. Thế là [Triệu Đà] bèn hạ lệnh trong nước rằng: “Ta nghe, hai bên hùng cường không thể đứng chung, hai người hiền năng không thể ở cùng một đời. Hoàng đế là thiên tử hiền năng. Từ rày về sau, bãi bỏ chế độ xe hoàng ốc cắm cờ bên trái dành cho Hoàng đế.” Lục Giả về báo lại, Hiếu Văn đế cả mừng. Đến thời Hiếu Cảnh đế, [Triệu Đà] xưng thần, sai người vào triều thỉnh mệnh, nhưng Nam Việt ở nước mình vẫn trộm dùng đế hiệu như cũ, sứ giả vào chầu thiên tử, xưng vương như chư hầu khác. Đến năm Kiến Nguyên thứ tư, Triệu Đà chết.

Cháu nội Triệu Đà là Triệu Hồ làm Nam Việt vương. Bấy giờ Mân Việt vương là Dĩnh cất quân tấn công thành ấp ở biên giới Nam Việt, Hồ sai người dâng thư báo lên: “Hai nước Việt đều là phiên thần, không được tự ý dấy binh tấn công nhau. Nay Mân Việt đem binh xâm phạm đất của thần, thần không dám hưng binh, xin thiên tử hạ chiếu lệnh.” Vì thế Hoàng đế cho Nam Việt biết trọng nghĩa, giữ đúng chức phận, dấy binh giúp họ, sai hai tướng quân đến hỏi tội Mân Việt. Quân chưa qua núi, em của Mân Việt vương là Dư Thiện giết Dĩnh rồi đầu hàng, thế rồi bãi binh.

Thiên tử sai Trang Trợ sang tuyên dụ Nam Việt vương, Hồ dập đầu nói: “Thiên tử vì thần, dấy binh hỏi tội Mân Việt, thần dẫu chết cũng không biết lấy gì báo đền ơn đức!” Sai Thái tử Anh Tề vào làm Túc vệ. Triệu Hồ nói với Trợ rằng: “Nước tôi mới bị giặc cướp, sứ giả hãy đi trước đi. Hồ đang ngày đêm chuẩn bị hành trang vào bái kiến thiên tử.” Trợ đi rồi, đại thần can Hồ rằng: “Nhà Hán dấy binh giết Dĩnh, cũng là để dọa Nam Việt. Vả lại tiên vương xưa có nói, thờ thiên tử chỉ mong không thất lễ, quan trọng là không thể vì những lời tốt đẹp mà vào chầu. Vào chầu thì không được về, là cái thế mất nước vậy.” Thế là Hồ cáo bệnh, rốt cuộc không vào triều kiến. Hơn chục năm sau, Hồ đổ bệnh nặng, Thái tử Anh Tề xin về. Hồ mất, thụy là Văn vương.

Anh Tề lên thay, giấu ngọc tỷ của Vũ đế trước đây. Khi Anh Tề vào làm Túc vệ ở Trường An, lấy người con gái họ Cù ở Hàm Đan, sinh con là Hưng. Đến khi lên ngôi, dâng thư xin lập Cù thị làm Hoàng hậu, Hưng làm người kế vị. Nhà Hán nhiều lần phái sứ giả dụ bảo Anh Tề, Anh Tề vẫn thích tự ý nắm quyền sinh sát, sợ vào triều kiến sẽ phải theo pháp luật nhà Hán, như chư hầu khác, cố ý cáo bệnh, không chịu vào chầu. Sai con là Thứ Công vào làm Túc vệ. Anh Tề mất, thụy là Minh vương.

Thái tử Triệu Hưng lên thay, mẹ làm Thái hậu. Thái hậu từ khi chưa làm vợ của Anh Tề, từng tư thông với An Quốc Thiếu Quý người Ba Lăng. Sau khi Anh Tề mất, năm Nguyên Đỉnh thứ tư, nhà Hán sai An Quốc Thiếu Quý đến dụ Nam Việt vương và Thái hậu vào triều, như các chư hầu khác; sai bọn biện sĩ Gián đại phu Chung Quân tuyên giảng hiểu dụ, bọn dũng sĩ Ngụy Thần phụ vào chỗ thiếu khuyết, Vệ úy Lộ Bác Đức đem quân đóng đồn ở Quế Dương, chờ sứ giả. Nam Việt vương tuổi còn nhỏ, Thái hậu là người Trung nguyên, từng tư thông với An Quốc Thiếu Quý, khi [An Quốc Thiếu Quý đi] sứ đến, lại cùng tư thông. Người trong nước biết việc đó, phần nhiều không theo Thái hậu. Thái hậu sợ sinh loạn, cũng muốn dựa uy nhà Hán, nhiều lần khuyên Nam Việt vương cùng quần thần xin nội thuộc. Liền nhân đó phái sứ giả dâng thư, xin được như các chư hầu khác, ba năm một lần triều kiến, bỏ hết quan ải biên giới. Thiên tử đồng ý, ban ấn bạc cho Thừa tướng Lã Gia, cùng ấn cho Nội sở, Trung úy, Thái phó, các chức quan khác được tự thiết lập. Bỏ hình phạt cũ là thích chữ vào mặt, cắt mũi, dùng pháp luật nhà Hán, như các chư hầu khác. Sứ giả đến đều lưu lại để vỗ về Nam Việt. Nam Việt vương và Thái hậu sửa soạn hành trang cùng hậu lễ chuẩn bị vào chầu.

Thừa tướng Lã Gia tuổi cao, phụ tá ba đời vương, hơn bảy mươi người trong tông tộc làm trưởng lại, con trai đều lấy con gái của Nam Việt vương, con gái đều được gả cho vương tử, anh em trong tông thất, lại thông hôn với Tần vương ở Thương Ngô. Ở trong nước, Lã Gia quyền thế rất lớn, được người Việt tin cậy, nhiều người làm tai mắt, được lòng người hơn cả Nam Việt vương. Nam Việt vương dâng thư lên, Lã Gia nhiều lần can ngăn nhưng vương không nghe. Lã Gia có lòng làm phản, nhiều lần cáo ốm không gặp sứ giả nhà Hán. Sứ giả đều chú ý đến Gia, nhưng tình thế chưa thể giết. Vương và Thái hậu cũng sợ bọn Gia ra tay trước, liền bày tiệc rượu, dựa quyền thế của sứ giả nhà Hán, âm mưu giết bọn Gia. Sứ giả đều ngồi hướng về đông, Thái hậu hướng về nam, Nam Việt vương hướng về bắc, Thừa tướng Lã Gia và đại thần đều hướng về tây, cùng ngồi hầu rượu. Em trai Gia làm võ tướng, đem quân đóng ở ngoài cung. Trong tiệc rượu, Thái hậu bảo Gia rằng: “Nam Việt nội thuộc, là lợi cho nước, nhưng tướng quân khăng khăng cho là bất lợi, là cớ làm sao?” Lấy việc ấy khích cho sứ giả nổi giận. Sứ giả nghi hoặc nhìn nhau, không ai dám hành động. Gia thấy không có tai mắt ở đó, liền dậy đi ra. Thái hậu tức giận, muốn dùng giáo đâm Gia, nhưng vương ngăn lại. Gia ra ngoài rồi, chia quân của em hộ vệ về phủ, cáo ốm, không chịu gặp vương và sứ giả. Bèn âm mưu cùng đại thần làm loạn. Vương vốn không có ý giết Gia, Gia biết điều đó, vì thế mấy tháng liền không hành động. Thái hậu có tính dâm, người trong nước không theo, muốn một mình giết bọn Gia, nhưng không đủ sức.

Thiên tử hay tin Gia không nghe theo Nam Việt vương, vương và Thái hậu yếu sức lại thế cô, không thể áp chế, sứ giả thì khiếp nhược không quyết đoán; lại cho vương và Thái hậu đã nội phụ nhà Hán, chỉ riêng Lã Gia làm loạn, không đủ để dấy binh, định sai Trang Sâm[6] đem hai nghìn người đi sứ Nam Việt. Sâm nói: “Vì giao hảo mà đi sứ, cần mấy người là đủ rồi; vì dùng vũ lực mà đến, hai nghìn người không đủ hành sự.” Sâm từ chối, cho là không thể, thiên tử bãi chức của Sâm. Hàn Thiên Thu là tráng sĩ đất Giáp vốn làm tướng cho Tế Bắc vương khi trước, hăng hái nói: “Với nước Việt cỏn con, lại có Nam Việt vương và Thái hậu nội ứng, một mình Thừa tướng Lã Gia gây hại được gì, xin được đem hai trăm dũng sĩ đi, ắt chém Lã Gia về báo.” Thế là thiên tử sai Thiên Thu cùng em trai Vương thái hậu là Cù Lạc đem hai nghìn người vào nước Việt. Bọn Lã Gia liền làm phản, hạ lệnh cho trong nước rằng: “Nhà vua còn nhỏ, Thái hậu là người Trung nguyên, lại dâm loạn với sứ giả, chỉ muốn nội thuộc, mang hết đồ quý báu của tiên vương vào dâng thiên tử để xu nịnh, nhiều người đi theo, khi tới Trường An, sẽ đem bán làm nô bộc. Vì cái lợi thoát thân nhất thời, không ngó ngàng đến xã tắc họ Triệu, không có ý lo tính cho muôn đời.” Bèn cùng em trai đem quân đánh giết Nam Việt vương, Thái hậu cùng sứ giả nhà Hán. Sai người báo cho Tần vương ở Thương Ngô cùng các quận huyện, lập người con do con trưởng của Minh vương với vợ người Việt sinh ra là Thuật Dương hầu Kiến Đức làm vua. Rồi Hàn Thiên Thu đem quân đến, phá được mấy ấp nhỏ. Sau đó, Việt mở đường thẳng cấp lương, cách Phiên Ngung bốn mươi dặm, đem quân đánh bọn Hàn Thiên Thu, rồi tiêu diệt hết. Sai người đóng hòm niêm phong tiết phù của sứ giả nhà Hán, để ở biên tái, nói khéo là tạ tội, rồi phát binh giữ chỗ trọng yếu. Thiên tử bèn nói: “Hàn Thiên Thu tuy không thành công, cũng đứng đầu hàng tiên phong trong quân.” Phong con trai của Hàn Thiên Thu là Diên Niên làm Thành An hầu. Cù Lạc, chị là Thái hậu, đi đầu trong việc nội thuộc nhà Hán, con trai Cù Lạc là Quảng Đức được phong làm Long Kháng hầu. Bèn hạ chiếu xá tội tù nhân: “Thiên tử suy yếu, chư hầu đánh nhau, chê trách bề tôi không biết thảo phạt nghịch tặc. Nay bọn Lã Gia, Kiến Đức làm phản, tự lập một cách yên ổn, lệnh cho tội nhân cùng các vùng Giang, Hoài về phía nam đem mười vạn quân lâu thuyền đến hỏi tội chúng.”

Mùa thu năm Nguyên Đỉnh thứ năm, Vệ úy Lộ Bác Đức làm Phục ba tướng quân, đem quân ra Quế Dương, xuống Hối Thủy; Chủ tước đô úy Dương Bộc làm Lâu thuyền tướng quân, đem quân ra Dự Chương, xuống Hoành Phố; hai vị vốn được phong hầu ở nước Việt đã trở về chính nghĩa[7] làm Qua thuyền tướng quân và Hạ lệ tướng quân, đem quân ra Linh Lăng, người xuống Ly Thủy, người đến thẳng Thương Ngô; sai Trì Nghĩa hầu dùng các tội nhân ở Ba Thục, phát binh ở Dạ Lang, xuống sông Tang Kha, cùng hội quân ở Phiên Ngung.

Mùa đông năm Nguyên Đỉnh thứ sáu, Lâu thuyền tướng quân đem tinh binh đi trước vây hãm Tầm Hiệp, phá Thạch Môn, thu được thuyền và thóc của Nam Việt, nhân đó tiến quân, bẻ gãy mũi tiên phong của Nam Việt, đem mấy vạn quân chờ Phục ba tướng quân. Phục ba tướng quân dẫn theo tội nhân, đường sá xa xôi, đến sau kỳ hẹn, hội quân với Lâu thuyền tướng quân, được hơn nghìn quân, rồi cùng tiến. Lâu thuyền tướng quân đi trước, đến Phiên Ngung. Kiến Đức và Gia đều giữ thành. Lâu thuyền tướng quân tự chọn chỗ thuận tiện, ở mặt đông nam; Phục ba tướng quân ở mặt tây bắc. Đến chiều tối, Lâu thuyền tướng quân đánh bại người Việt, phóng hỏa đốt thành. Người Nam Việt vốn nghe danh Phục ba tướng quân, chiều tối, không biết quân của Phục ba nhiều hay ít. Phục ba liền lập doanh trại, sai sứ giả chiêu hàng, ban ấn tín, lại hạ lệnh chiêu hàng lẫn nhau. Lâu thuyền tướng quân ra sức tấn công, thiêu đốt địch, trái lại lùa địch vào trong doanh quân Phục ba tướng quân. Tảng sáng, trong thành đều hàng Phục ba tướng quân. Lã Gia và Kiến Đức cùng mấy trăm bộ thuộc đương đêm trốn ra biển, đi thuyền sang phía tây. Phục ba tướng quân lại nhân hỏi những quý nhân đã đầu hàng, nhờ đó biết Lã Gia đi đâu, liền sai người đuổi theo. Viên Hiệu úy tư mã cũ là Tô Hoằng bắt được Kiến Đức, được phong làm Hải Thường hầu; viên quan Lang nước Việt là Đô Kê bắt được Lã Gia, được phong làm Lâm Sái hầu.

Thương Ngô vương Triệu Quang, cùng họ với Việt vương, nghe tin quân Hán đến, cùng Huyện lệnh Kiệt Dương nước Việt tên là Định, xin nội thuộc Hán; quan Giám ở Quế Lâm nước Việt là Cư Ông hiểu dụ Âu Lạc nội phụ nhà Hán, hai người đều được phong hầu. Quân của Qua thuyền tướng quân và Hạ lệ tướng quân cùng quân Dạ Lang do Trì Nghĩa hầu đưa đi chưa đến nơi, Nam Việt đã được bình định. Liền lập [Nam Việt] thành chín quận. Phục ba tướng quân được phong thêm. Lâu thuyền tướng quân do đem quân vây hãm và đánh thành kiên cố, được phong làm Tướng Lương hầu.

Từ lúc Uý Đà mới xưng vương trở về sau, được năm đời, chín mươi ba năm, nước Nam Việt bị diệt vong.

Thái sử công bàn rằng:

Uý Đà xưng vương,

Vốn do Nhâm Hiêu.

Gặp Hán mới lập,

Liệt làm chư hầu.

Long Lự rời ẩm, dịch[8];

Đà được thể càng kiêu.

Âu Lạc hỗn chiến,

Nam Việt lao đao.

Quân Hán tiến đến,

Anh Tề vào chầu.

Về sau mất nước,

Điềm từ Cù nữ.

Lã Gia kém trung,

Khiến Đà vô hậu.

Lâu thuyền dục loạn,

Ngông ngạo mê hoặc.

Phục ba khốn cùng,

Trí càng sáng suốt,

Nhân họa thành phúc.

Thành bại chuyển đổi,

Ví như nẩy mực[9].

 

Uý Đà chi vương / Bản do Nhậm Hiêu.

Tao Hàn sơ định / Liệt vi chư hầu.

Long Lự ly thấp dịch / Đà đắc dĩ ích kiêu.

Âu Lạc tương Công / Nam Việt động diêu.

Hán binh lâm cảnh /Anh Tề nhập triều.

Kỳ hậu vong quốc / Trưng tự Cù nữ.

Lã Gia tiểu trung / Linh Đà vô hậu.

Lâu thuyền túng dục/Đãi ngạo thất hoặc.

Phục ba khốn cùng/Trí lự dũ thực /Nhân họa vi phúc.

Thành bại chi chuyển / Thí nhược củ mặc.

 

Chú thích.

[1] Lưu Quý: tức Lưu Bang.

[2] Nhà Hán khi phong chức tước cho bề tôi thì dùng lệnh phù làm tín vật, chia làm hai, giao cho người được phong giữ một nửa để làm tin.

[3] Xe của Hoàng đế, dùng lụa vàng làm lọng che; dùng đuôi mao ngưu, một loài bò có đuôi dài trang trí trên cờ cắm bên trái xe.

[4] Ý nói Triệu Đà dùng xe cộ, xưng hiệu... giống như Hoàng đế nhà Hán.

[5] Ý nói các tộc người thiểu số. Người Trung Quốc xưa cho mình là Hoa, Hoa Hạ, cho tộc người thiểu số vùng xa là Man, Di, Địch, Nhung, gọi chung là Tứ di.

[6] Trang Sâm: cũng phiên là Trang Tham.

[7] Ý nói đã theo hàng nhà Hán.

[8] Ý nói quân đội của Long Lự gặp nơi ẩm thấp, bệnh dịch nên phải rời đi chỗ khác.

[9] Đoạn này rất đáng chú ý, vì Thái sư công đánh giá bằng thơ, khác hẳn các phần khác. Phần thơ này phiên âm Hán - Việt như sau:

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét