Thứ Ba, 16 tháng 1, 2024

QUYỂN 108 HÀN TRƯỜNG NHỤ LIỆT TRUYỆN

 

SỬ KÝ II. LIỆT TRUYỆN (QUYỂN HẠ)

Phạm Văn Ánh dịch

 

QUYỂN 108 

HÀN TRƯỜNG NHỤ LIỆT TRUYỆN

Ngự sử đại phu Hàn An Quốc là người Thành An nước Lương, sau rời đến Thư Dương. Hàn An Quốc từng theo Điền Sinh người đất Trâu học sách Hàn tử[1] và học thuyết Tạp gia[2]. Hàn An Quốc phụng sự Lương Hiếu vương, làm Trung đại phu. Khi Ngô, Sở làm loạn, Hiếu vương sai An Quốc cùng Trương Vũ làm tướng, chống quân Ngô ở biên giới phía đông. Trường Vũ ra sức đánh, An Quốc giữ chỗ hiểm yếu, vì thế quân Ngô không thể qua được nước Lương. Ngô, Sở đã bị đánh tan, An Quốc và Trương Vũ nhờ đó nổi danh.

Lương Hiếu vương là em trai của mẹ Cảnh đế, Đậu Thái hậu cưng yêu, cho được tự ý thỉnh nhậm chức Thừa tướng và chức quan trật hai nghìn thạch, ra vào du chơi, vượt cả thiên tử. Thiên tử biết chuyện, trong lòng không vui. Thái hậu biết Hoàng thượng không vui, bèn giận sứ giả nước Lương, không cho gặp, tra xét những việc Lương Hiểu vương làm. Hàn An Quốc làm sứ giả nước Lương, gặp Đại trưởng công chúa[3], khóc nói: “Lương vương thể hiện lòng hiếu của người con, lòng trung của bề tôi mà sao Thái hậu không hiểu? Trước đây khi Ngô, Sở, Tề, Triệu... bảy nước làm phản, từ cửa Hàm Cốc về đông đều liên kết nhau để tiến sang tây, chỉ có Lương là nước thân nhất nên rơi vào cảnh gian nan, Lương vương nghĩ Thái hậu, Hoàng thượng ở Quan Trung, mà chư hầu làm loạn, một tiếng khóc mà tuôn mấy hàng lệ, quỳ gối đưa tiễn sáu người bạn thân, đem quân đánh Ngô, Sở, vì thế quân Ngô, Sở không dám sang tây, cuối cùng cũng phá tan được chúng, đều nhờ công của Lương vương vậy. Nay Thái hậu đem những nghi lễ tiểu tiết hà khắc để trách lỗi Lương vương. Cha anh Lương vương đều là đế vương, những điều trông thấy đều lớn lao, cho nên ra vào cảnh giác, cấm người ngựa qua lại, xe ngựa, cờ xí đều do Hoàng đế ban tặng, dẫu muốn dùng các thứ đó để phô trương nơi huyện ấp, hay rong ruổi trong nước để khoe khoang với chư hầu, đều là khiến thiên hạ thảy biết Thái hậu và nhà vua đều yêu mến mình vậy. Nay sứ giả nước Lương đến, liền bị tra xét, trách hỏi. Lương vương sợ, ngày đêm khóc lóc nhớ nhung, không biết làm sao. Lương vương là con hiếu tôi trung mà sao Thái hậu không thương xót?” Đại trưởng công chúa nói lại với Thái hậu, Thái hậu mừng nói: “Ta sẽ nói với Hoàng đế cho.” Nói với Hoàng đế, Hoàng đế mới giải tỏa được nỗi lòng, rồi trật mũ tạ lỗi Thái hậu: “Anh em không biết dạy nhau, để đến nỗi Thái hậu phải phiền lòng.” Rồi tiếp kiến tất thảy sứ giả nước Lương, ban tặng rất hậu. Sau đấy, Lương vương càng được thân quý. Thái hậu, Trưởng công chúa ban thêm cho An Quốc trị giá đến hơn nghìn vàng, từ đó An Quốc được vinh hiển, gắn bó với triều Hán.

Về sau, An Quốc phạm pháp, bị luận tội, ngục lại Điền Giáp đất Mông sỉ nhục An Quốc. An Quốc nói: “Riêng tro tàn không cháy lại được nữa chăng?" Điền Giáp nói: “Cháy lên sẽ tè vào đấy.” Không lâu sau, chức Nội sử nước Lương khuyết, nhà Hán sai sứ giả đến phong An Quốc làm Nội sử nước Lương, từ tội đồ được thăng chức quan hai nghìn thạch. Điền Giáp chạy trốn. An Quốc nói: “Giáp không về nhận chức, ta diệt cả họ ngươi.” Giáp nhân đó cởi trần đến tạ tội. An Quốc cười nói: “Cứ tè đi! Bọn ngươi có đáng trừng trị không?" Cuối cùng đối xử tốt với Giáp.

Khi chức Nội sử nước Lương bị khuyết, Lương Hiếu vương mới tìm được Công Tôn Quỷ người Tề, rất thích, định xin cho làm Nội sử. Đậu Thái hậu biết chuyện, bèn hạ chiếu cho Lương Hiếu vương dùng An Quốc làm Nội sử.

Công Tôn Quỷ, Dương Thắng khuyên Hiếu vương xin làm Thái tử, đồng thời mở rộng đất phong, sợ các đại thần nhà Hán không nghe, liền ngầm sai người hành thích các mưu thần nắm quyền triều Hán. Đến khi giết Thừa tướng cũ của nước Ngô là Viên Áng, Cảnh đế liền biết là kế của bọn Quỷ và Thắng, liền sai sứ bắt Quỷ và Thắng. Sứ nhà Hán gồm mười người đến nước Lương, từ Thừa tướng trở xuống phải lùng bắt trong cả nước, hơn tháng vẫn không bắt được. Nội sử An Quốc biết tin Quỷ, Thắng ẩn ở chỗ Hiếu vương, An Quốc vào gặp Hiếu vương rồi khóc nói: “Chủ bị nhục thì bề tôi phải chết. Đại vương không có tôi giỏi, cho nên việc mới rối ren thế này. Nay không bắt được Quỷ và Thắng, xin ban cho thần được chết.” Vương nói: “Làm gì đến nỗi thế?” An Quốc khóc sa mấy hàng lệ, nói: “Đại vương tự so với Hoàng đế xem, so quan hệ giữa Thái thượng hoàng với Cao hoàng đế và Hoàng đế với Lâm Giang vương, ai thân thiết hơn?” Hiếu vương đáp: “Không so bằng được.” An Quốc nói: “Xét lẽ, Thái thượng hoàng và Lâm Giang vương là chỗ cha con, nhưng Cao đế nói: 'Người cầm ba thước kiếm thu lấy thiên hạ là trẫm,' cho nên cuối cùng Thái thượng hoàng không được nắm mọi việc, phải ở cung Lịch Dương. Lâm Giang vương là Thái tử trưởng dòng đích, chỉ vì một câu lỡ lời, bị phế làm Lâm Giang vương; lại vì xâm hại tường cung điện, rốt cuộc phải tự sát trong phủ quan Trung úy. Tại sao vậy? Trị thiên hạ không thể lấy việc tư làm loạn việc công. Ngạn ngữ nói: 'Dẫu là cha đẻ, sao biết đó không phải là hổ? Dẫu là anh ruột, sao biết đó không phải là sói?' Nay đại vương đứng vào hàng chư hầu, thích lời phù phiếm của bề tôi gian tà, phạm đến cấm lệnh của Hoàng thượng, bẻ cong pháp luật sáng láng của triều đình. Hoàng thượng và Thái hậu nên không nỡ trị tội đại vương theo luật. Thái hậu ngày đêm khóc lóc, mong đại vương tự sửa lỗi, còn đại vương vẫn không tỉnh ngộ. Nếu Thái hậu băng hà, đại vương còn dựa vào ai được nữa?” Nói chưa dứt, Hiếu vương liền khóc nước mắt ròng ròng, tạ lỗi với An Quốc rằng: “Nay ta sẽ giao Quỷ, Thắng ra.” Quỷ, Thắng tự sát. Sứ nhà Hán về báo, việc ở nước Lương đều được giải quyết, đó là công của An Quốc vậy. Từ đó Cảnh đế và Thái hậu càng thêm coi trọng An Quốc. Hiếu vương chết, Cộng vương lên ngôi, An Quốc phạm pháp mất chức, về nhà.

Trong niên hiệu Kiến Nguyên, Vũ An hầu Điền Phần làm Thái úy triều Hán, thân cận quyền quý được nằm trọng quyền, An Quốc đem lễ vật trị giá năm trăm cân vàng biếu Phần. Phần nói về An Quốc với Thái hậu, thiên tử cũng vốn biết tài của An Quốc, liền triệu vào triều cho làm Đô úy Bắc Địa, rồi thăng làm Đại tư nông. Mân Việt và Đông Việt đánh nhau, An Quốc cùng quan Đại hành[4] Vương Khôi làm tướng xuất chinh. Chưa đến đất Việt, người đất Việt giết vua rồi hàng, quân Hán cũng bãi binh. Năm Kiến Nguyên thứ sáu, Vũ An hầu làm Thừa tướng, An Quốc làm Ngự sử đại phu.

Hung Nô đến xin giảng hòa kết thân, thiên tử giao cho quần thần bàn nghị. Đại hành Vương Khôi là người Yên, nhiều lần làm quan nơi biên giới, biết rõ việc ở Hung Nô, bàn rằng: “Hán và Hung Nô giảng hòa kết thân, chưa được vài năm Hung Nô lại bội ước. Chẳng bằng không đồng ý, dấy binh đến đánh.” An Quốc nói: “Đánh xa ngàn dặm, quân không được lợi. Nay Hung Nô cậy binh mã đầy đủ, mang lòng cầm thú, rời chuyển như chim bay, khó mà chế ngự. Được đất của chúng không đủ để mở rộng lãnh thổ, được dân của chúng không đủ để mạnh thêm, từ thượng cổ đã không xem là dân trong nước. Nhà Hán đi mấy nghìn dặm để tranh lợi, sẽ khiến người ngựa mỏi mệt, địch đem toàn lực khống chế điểm yếu của ta. Vả lại cung nỏ hết tầm, mũi tên không thể xuyên qua tấm the mỏng nước Lỗ; xung phong hết sức, không thổi bay nổi một sợi lông hồng. Không phải ban đầu không mạnh, mà sức về cuối suy yếu vậy. Đánh chúng không tiện, chẳng bằng kết thân.” Quần thần tham gia bàn nghị phần nhiều phụ họa theo An Quốc, vì thế Hoàng thượng đồng ý giảng hòa kết thân.

Năm sau, tức năm Nguyên Quang thứ nhất, bậc hào môn Mã Ấp, quận Nhạn Môn là Nhiếp Ông Nhất thông qua Đại hành Vương Khôi nói với Hoàng thượng rằng: “Hung Nô ban đầu giảng hòa kết thân, tỏ ra thân gần tin tưởng dân chúng vùng biên, có thể dùng lại để lôi kéo họ.” Nhà Hán ngầm sai Nhiếp Ông Nhất làm gián điệp, lẻn sang Hung Nô, nói với Thiền vu rằng: “Tôi có thể chém được quan Huyện lệnh, Huyện thừa ở Mã Ấp, đem thành dâng hàng, có thể thu được hết của.” Thiền vu vui mừng tin tưởng, cho là phải, đồng ý với Nhiếp Ông Nhất, Nhiếp Ông Nhất liền trở về, vợ chém mấy tên tử tù, treo đầu trên thành Mã Ấp, để sứ giả của Thiền vu tưởng thật, nói: “Trưởng lại của huyện Mã Ấp đã chết, hãy đến gấp.” Thế là Thiền vu vượt qua biên ải đem hơn chục vạn kỵ binh, tiến vào ải Vũ Châu.

Bấy giờ, nhà Hán mai phục hơn ba mươi vạn quân xa kỵ và sĩ tốt tinh nhuệ, ẩn mình bên hang núi cạnh Mã Ấp. Vệ úy Lý Quảng làm Kiêu kỵ tướng quân, Thái bộc Công Tôn Hạ làm Khinh xa tướng quân, Đại hành Vương Khôi làm Tướng đồn tướng quân, Thái trung đại phu Lý Tức làm Tài quan tướng quân, Ngự sử đại phu Hàn An Quốc làm Hộ quân tướng quân, các tướng đều thuộc quyền chỉ huy của Hộ quân. Ước chừng Thiền vu đã vào Mã Ấp, quân Hán liền xuất kích. Vương Khôi, Lý Tức, Lý Quảng dẫn các cánh quân chủ công từ đất Đại tiến đánh xe lương của Hung Nô. Bấy giờ, Thiền vu dẫn quân vào biên ải Vũ Châu thuộc trường thành nhà Hán, còn cách Mã Ấp hơn trăm dặm, tung hoành cướp bóc, chỉ thấy súc vật đầy đồng, không thấy bóng người. Thiền vu lấy làm lạ, tấn công đài đốt lửa báo, bắt được viên Úy sử[5] của Vũ Châu, tra hỏi, viên Úy sử nói: “Mấy chục vạn quân Hán mai phục dưới thành Mã Ấp.” Thiền vu quay lại bảo thuộc hạ rằng: “Suýt bị người Hán bán đứng rồi!” Bèn dẫn quân về. Ra khỏi ải, nói: “Ta bắt được Úy sử, đúng là trời xui.” Thế rồi gọi viên Úy sử ấy là “Thiên vương”. Dưới ải truyền tin báo Thiền vu đã dẫn quân lui, quân Hán đuổi đến biên ải, đoán chừng không kịp, liền bãi binh. Ba vạn quân của bọn Vương Khôi nghe tin Thiền vu không giao chiến với quân Hán, xét thấy nếu xông sang đánh xe lương, nhất định sẽ giao chiến với tinh binh của Thiền vu, quân Hán ắt thua, xét tình hình rồi bãi binh, đều không lập được công gì.

Thiên tử giận Vương Khôi không tiến đánh xe lương của Thiền vu, tự ý cho quân ngừng chiến. Khôi nói: “Ban đầu ước định giặc vào thành Mã Ấp sẽ dẫn quân đón đánh Thiền vu, còn thần đánh xe lương của chúng thì có thể thắng. Nay Thiền vu đã biết tình hình, không đến mà kéo quân về, thần cho đem ba vạn quân ắt không đánh nổi, chỉ chuốc nhục thôi. Thần vốn biết rút về sẽ bị chém, nhưng có thể giữ toàn vẹn ba vạn quân sĩ của bệ hạ.” Thế là Khôi bị giao cho Đình úy. Đình úy phán Khôi lâm trận tránh địch, đáng chém. Khôi đem ngàn vàng đút riêng cho Thừa tướng Điền Phần. Phần không dám nói với Hoàng thượng, mà nói với Thái hậu: “Vương Khôi là người đầu tiên tạo ra việc ở Mã Ấp, nay việc không thành lại giết Khôi, đó là báo thù cho Hung Nô vậy.” Hoàng thượng triều kiến Thái hậu, Thái hậu đem lời Thừa tướng nói với Hoàng thượng, Hoàng thượng nói: “Người làm ra sự kiện ở Mã ấp là Khôi, cho nên phát động mấy chục vạn quân trong thiên hạ, theo lời y mới có việc ấy. Hơn nữa nếu không bắt được Thiền vu, quân của Khôi đánh vào xe lương của Hung Nô cũng thu hoạch lớn, có thể an ủi sĩ đại phu. Nay không giết Khôi, không biết lấy gì tạ lỗi thiên hạ.” Khôi biết chuyện, bèn tự sát.

An Quốc là người hùng tài đại lược, đủ trí tuệ để thích ứng với đời, lại có lòng trung hậu, nhưng tham của. Người được An Quốc tiến cử đều là kẻ sĩ liêm khiết, tài năng hơn ông ta. Ở nước Lương, tiến cử Hồ Toại, Tang Cổ, Chất Đà, đều là danh sĩ trong thiên hạ, cũng vì thế kẻ sĩ khen ngợi và hâm mộ An Quốc, thiên tử cũng coi là rường cột quốc gia. An Quốc làm Ngự sử đại phu hơn bốn năm, Thừa tướng Điền Phần chết, An Quốc tạm xử lý sự vụ của Thừa tướng dẫn đường cho xe vua đi, bị ngã què chân. Thiên tử bàn việc giao chức Thừa tướng, định giao cho An Quốc, sai sứ đến thăm, thấy chân An Quốc què nặng, bèn thay đổi, cho Bình Cức hầu Tiết Trạch làm Thừa tướng. An Quốc bị bệnh thôi giữ chức mấy tháng, chân khỏi, Hoàng thượng lại cho An Quốc làm Trung úy. Được hơn một năm, chuyển sang làm Vệ úy.

Xa kỵ tướng quân Vệ Thanh đánh Hung Nô, đem quân ra Thượng Cốc, phá được Hung Nô ở Long Thành. Tướng quân Lý Quảng bị Hung Nô bắt, lại trốn được; quân của Công Tôn Ngao bị tổn thất lớn, đều đáng chém, cho chuộc tội làm dân thường. Năm sau, Hung Nô dẫn đại quân xâm phạm biên giới, giết Thái thú Liêu Tây, đến khi vào Nhạn Môn, giết hại mấy nghìn người. Xa kỵ tướng quân Vệ Thanh đem quân đi đánh, kéo ra Nhạn Môn. Vệ úy An Quốc làm Tài quan tướng quân, đồn quân ở Ngư Dương. An Quốc bắt sống tù binh Hung Nô, chúng nói Hung Nô đã rút xa, liền dâng thư nói hiện đang phải lo việc đồng áng, xin tạm bỏ các đồn quân. Bãi bỏ đồn quân được hơn tháng, Hung Nô đem đại quân vào Thượng Cốc, Ngư Dương. Trong quân doanh của An Quốc chỉ có hơn bảy trăm người, ra giao chiến, không thắng, lại rút vào. Hung Nô cướp được hơn nghìn người cùng gia súc rồi rút quân. Thiên tử nghe tin, nổi giận, sai sứ đến trách tội An Quốc. Chuyển An Quốc sang biên giới phía đông, đóng đồn ở Hữu Bắc Bình. Bấy giờ Hung Nô nói sẽ xâm phạm phía đông.

Ban đầu An Quốc làm Ngự sử đại phu rồi làm Hộ quân, sau dần bị bài xích, xa lánh, biếm trích; còn những người mới được sủng ái là tướng quân Vệ Thanh có công, càng được hiển quý. An Quốc đã bị xa lánh, không nghe nhắc đến; đem quân đóng đồn lại bị Hung Nô khinh thường, tổn thất rất nhiều, tự thấy hổ thẹn, may được bãi miễn cho vệ chức cũ, lại phải sang đông dời các đồn quân, trong lòng ấm ức không vui. Được mấy tháng, bị bệnh nôn ra máu rồi chết. An Quốc mất năm Nguyên Sóc thứ hai.

Thái sử công bàn rằngTa với Hồ Toại thẩm định âm luật, lịch pháp, thấy được đức nghĩa của Hàn Trường Nhụ; trong sâu thẳm đáy lòng Hồ Toại ẩn chứa niềm trung hậu. Người đời nói nước Lương có nhiều bậc trưởng giả, quả không phải nói suông! Hồ Toại làm quan đến chức Chiêm sự, thiên tử đang muốn trông cậy vào, giao làm Thừa tướng triều Hán thì Toại chết. Nếu không, với sự liêm khiết và đức hạnh đoan chính của Hồ Toại, ông ta sẽ là bậc quân tử tận tụy với chức vụ vậy.

Chú thích.

 [1] Tức sách của Hàn Phi tử.

[2] Một học thuyết triết học cuối thời Chiến quốc đến đầu thời Hán, chuyên chọn lấy sở trường của các nhà, thâu nạp cả Nho gia, Mặc gia, Pháp gia...

[3] Tức cô ruột của nhà vua.

[4] Đại hành: chức quan phụ trách việc tiếp đãi tân khách.

[5] Thuộc quan dưới quyền các Quận ủy ở các quận vùng biên giới nhà Hán.

 

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét