SỬ KÝ II. LIỆT TRUYỆN (QUYỂN HẠ)
Phạm Văn Ánh dịch
QUYỂN 103
VẠN THẠCH, TRƯƠNG THÚC
LIỆT TRUYỆN
Thạch Phấn, Thạch Kiến
Vạn Thạch quân tên là Phấn, cha người nước Triệu, họ Thạch.
Nước Triệu mất, rời sang sống ở huyện Ôn. Cao tổ sang đông đánh Hạng Tịch, qua
Hà Nội, bấy giờ Phấn mười lăm tuổi, làm tiểu lại, hầu cận Cao tổ. Cao tổ nói
chuyện cùng, yêu quý vị Phấn rất cung kính, hỏi rằng: “Nhà mày còn những
ai?” Đáp rằng: “Phấn chỉ còn mẹ, bất hạnh mắt mù, nhà nghèo,
có chị, biết gảy đàn sắt.” Cao tổ hỏi: “Mày muốn theo ta
không?" Đáp: “Xin tận sức.” Thế là Cao đế triệu
chị Phấn, hóa ra là mỹ nhân, cho Phấn làm Trung quyên, phụ trách nhận thư từ
danh thiếp, dời nhà Phấn đến làng Thích Lý trong thành Trường An, do chị Phấn
là mỹ nhân vậy. Làm quan đến thời Hiếu Văn đế, tích lũy công lao, làm tới Thái
trung đại phu[1]. Không có văn tài, nhưng cung kính cẩn
trọng không ai sánh bằng.
Thời Văn đế, Đông Dương hầu Trương Tương Như làm Thái tử
Thái phó, bị bãi chức. Chọn người có thể giữ chức Thái phó, đều tiến cử Phấn,
Phấn được làm Thái tử Thái phó[2]. Khi Hiếu Cảnh đế lên ngôi, phong
làm Cửu khanh; Phấn ở gần, Hoàng đế sợ, bèn chuyển Phấn làm Tướng quốc cho chư
hầu. Con trưởng của Phấn là Kiến, thứ hai là mỗ, thứ ba là mỗ[3],
thứ tư là Khánh, đều đức hạnh thuần hậu, hiếu thuận cẩn trọng, làm quan đến trật
hai nghìn thạch. Thế là Cảnh đế nói: “Thạch quân cùng bốn người con đều
làm quan đến hạng hai nghìn thạch, bề tôi được tôn sủng đều tập trung ở nhà ông
ta.” Phấn được xưng hiệu là Vạn Thạch quân.
Năm cuối thời Hiếu Cảnh đế, Vạn Thạch quân được hưởng lộc
Thượng đại phu, về nhà dưỡng lão, hằng năm khi triều hội, lấy tư cách đại thần
vào chầu. Qua cổng cung, Vạn Thạch quân ắt xuống xe rảo bước vào, thấy xe vua
trên đường đều giữ đúng nghi thức. Con cháu làm tiểu lại, về nhà đến bái yết, Vạn
Thạch quân phải mặc triều phục mới gặp, không gọi theo tên. Con cháu có lỗi lầm,
không trách mắng, cho ngồi một bên, người ngồi đối diện không cho ăn uống. Rồi
sau các con phê bình lẫn nhau, người có tuổi phạm lỗi phải cởi trần tạ tội, sửa
đổi, mới được chấp nhận. Con cháu ai đến tuổi đội mũ[4] ở bên cạnh,
dẫu ngày thường cũng phải đội mũ, nghiêm cẩn đến thế. Đầy tớ vui vẻ, vâng dạ cẩn
trọng. Khi Hoàng thượng ban đồ ăn cho gia đình, ắt dập đầu phủ phục mà ăn, hệt
như trước mặt Hoàng thượng. Khi xử lý việc tang, tỏ rõ đau đớn thương xót. Con
cháu noi theo dạy bảo, cũng hệt như thế. Gia đình Vạn Thạch quân nhờ hiếu thuận
cẩn trọng, nổi tiếng khắp các quận trong nước, dẫu các nhà phẩm hạnh chất phác ở
Tề, Lỗ, đều tự cho mình không bằng.
Năm Kiến Nguyên thứ hai, Trung lang lệnh Vương Tang vì
văn học mà mắc tội. Hoàng thái hậu cho là nhà nho chuộng văn vẻ mà kém phẩm hạnh,
nay nhà Vạn Thạch quân không nói nhiều mà chủ động thi hành, bèn phong con trưởng
là Kiến làm Lang trung lệnh, con út là Khánh làm Nội sử.
Kiến già bạc đầu, Vạn Thạch quân còn khỏe mạnh. Kiến làm
Lang trung lệnh, cứ làm năm ngày được nghỉ ngơi một ngày, lại về thăm cha, vào
phòng kế bên, trộm hỏi người hầu, lấy quần lót cha mặc và bô, tự tay giặt rửa rồi
giao cho người hầu, không dám để Vạn Thạch quân biết, coi đó là việc thường. Kiến
làm Lang trung lệnh, việc gì cần nói, đuổi hết người bên cạnh, lời nói tận
tình, khẩn thiết; đến khi triều kiến, tựa như chưa từng nói gì. Vì thế Hoàng
thượng rất tôn trọng, dùng lễ đối đãi.
Vạn Thạch quân chuyển ra ở Lăng Lý. Nội sử Khánh say rượu
về nhà, đến cổng ngoài không xuống xe. Vạn Thạch quân hay chuyện, bỏ ăn. Khánh
sợ, để trần xin nhận tội, không cho. Cả họ tộc cùng anh là Kiến đều cởi trần thỉnh
tội, Vạn Thạch quân trách rằng: “Nội sử là người sang quý, vào cổng
làng, trưởng lão trong làng đều chạy đi ẩn, thế mà Nội sử nghênh ngang ngồi xe,
phạt thế thỏa đáng!” Bèn dạy bảo rồi tha cho. Khánh cùng các con em
vào cổng làng, chạy vội về nhà.
Năm Nguyên Sóc thứ năm, Vạn Thạch quân mất. Con trưởng là
Lang trung lệnh Kiến khóc lóc đau đớn, chống gậy mới đi nổi. Hơn năm sau, Kiến
cũng chết. Các con cháu đều hiếu thuận, nhưng Kiến hiếu nhất, hơn cả Vạn Thạch
quân.
Kiến làm Lang trung lệnh, dâng thư tâu việc, được phê chuẩn
rồi chuyển xuống, Kiến đọc bản tấu, nói: “Viết nhầm rồi! Chữ 'mã' (馬) cùng phần
đuôi đáng lẽ năm nét, nay viết bốn nét, thiếu một nét, Hoàng thượng trách tội
chết mất!” Vô cùng sợ sệt. Ông tính cẩn thận, với việc khác cũng như
thế.
Thạch Khánh
Con út Vạn Thạch quân là Khánh làm chức Thái bộc[5],
khi ngự giá ra ngoài, Hoàng thượng hỏi trước xe có mấy con ngựa, Khánh cầm roi
trỏ từng con xong, giơ tay đáp: “Sáu con ngựa.” Trong số các
con, Khánh ít cẩn trọng nhất, mà còn như thế. [Khánh] làm Tướng quốc nước Tề, cả
nước Tề đều ngưỡng mộ đức hạnh gia đình ông, không cần nói mà Tề rất yên trị, lập
đền thờ gọi là Thạch tướng từ[6].
Năm Nguyên Thú thứ nhất, Hoàng thượng lập Thái tử, chọn bề
tôi có thể làm Thái phó, Khánh từ Quận thủ quận Bái phong lên làm Thái tử Thái
phó, được bảy năm thăng làm Ngự sử đại phu.
Năm Nguyên Đỉnh thứ năm, mùa thu, Thừa tướng có tội, bị
bãi chức. Hạ chiếu cho Ngự sử: “Vạn Thạch quân là người được tiên đế
tôn trọng, con cháu hiếu thảo, nay lấy Ngự sử đại phu Khánh làm Thừa tướng,
phong làm Mục Khâu hầu.” Lúc này nhà Hán đang xuống phía nam thảo phạt
lưỡng Việt[7],
sang đông tấn công Triều Tiên, lên bắc truy kích Hung Nô, sang tây đánh Đại Uyển,
trong nước nhiều việc. Thiên tử tuân thủ trong nước, sửa sang miếu thần thượng
cổ, làm lễ tế trời, đại hưng lễ nhạc. Của cải quốc gia thiếu thốn, bọn Tang Hoằng
Dương phụ trách làm lợi cho nước, bọn Vương Ôn Thư giữ luật nghiêm khắc, bọn
Nghệ Khoan sùng chuộng văn học, làm quan đến Cửu khanh, thay nhau nắm việc,
không cần Thừa tướng quyết định, Thừa tướng chỉ cần trung hậu cẩn trọng mà
thôi. Tại vị được chín năm, không nói được gì về việc khuông phò. Thạch Khánh từng
muốn xin trị tội cận thần Sở Trung và quan Cửu khanh là Hàm Tuyên, không thể
khiến họ nhận tội, trái lại còn bị trách lỗi, phải chuộc tội.
Trong năm Nguyên Phong thứ tư, Quan Đông có hai trăm vạn
lưu dân, người không có hộ tịch tới bốn mươi vạn, công khanh bàn nghị, muốn xin
dời lưu dân đến biên giới, như bị biếm trích. Hoàng thượng cho rằng Thừa tướng
cao tuổi cẩn trọng, không thể cùng bàn nghị, bèn cho Thừa tướng cáo lão hồi hương,
rồi xem xét đề nghị của Ngự sử đại phu. Thừa tướng hổ thẹn vì không được bổ nhậm,
bèn dâng thư: “Khánh may được làm Thừa tướng để đợi tội, như con ngựa
hèn chẳng biết lấy gì giúp cuộc trị lý, thành quách kho lẫm trống không, dân phần
nhiều lưu vong, đáng tội búa rìu, Hoàng thượng không nỡ lòng xử tội. Xin trả lại
ấn Thừa tướng, ấn phong hầu, đem bộ xương tàn về quê, tránh đường cho người hiền
tài.” Thiên tử nói: “Kho lương đã trống, dân nghèo lưu vong,
ông lại muốn dời đi, khiến họ lay động không yên, chấn động nguy cấp, mà lại từ
chức, ông muốn đổ cái khó cho ai đây?” Hạ chiếu trách Khánh, Khánh rất
hổ thẹn, bèn quay lại xử lý chính sự.
Khánh văn nghĩa sâu xa, thẩm xét cẩn thận, nhưng không có
mưu lược lớn, không nói được gì cho trăm họ. Hơn ba năm sau, trong năm Thái Sơ
thứ hai, Thừa tướng Khánh chết, thụy là Điềm hầu. Con giữa của Khánh là Đức, được
Khánh tin yêu coi trọng, Hoàng thượng lấy Đức thừa tự, thay Khánh nối tiếp tước
hầu. Sau làm quan Thái thường, phạm pháp bị xử chết, được chuộc tội, bị giáng
làm dân thường. Khánh đương làm Thừa tướng, các con cháu có mười ba người làm
quan đến hạng hai nghìn thạch. Sau khi Khánh chết, một số bị tội bãi chức, sự
hiếu thuận cẩn trọng ngày một suy.
Vệ Oản
Kiến Lăng hầu Vệ Oản, người Đại Lăng đất Đại. Oản nhờ tài
điều khiển xe ngựa được làm quan Lang, thờ Văn đế, xét công lao được thăng lên
Trung lang tướng, thuần hậu cẩn trọng, chẳng còn gì khác. Hiếu Cảnh đế khi làm
Thái tử, triệu thân cận của Hoàng thượng đến uống rượu, còn Oản thác bệnh không
đi. Lúc Văn đế sắp mất, dặn Cảnh đế rằng: “Oản là bậc trưởng giả, hãy đối
xử tốt với ông ta.” Đến khi Văn đế băng hà, Cảnh đế lên ngôi, hơn năm
không trách mắng Oản, Oản ngày càng cẩn trọng.
Cảnh đế ra chơi vườn Thượng Lâm, hạ chiếu Trung lang tướng
ngồi cùng xe, trở về hỏi rằng: “Ông biết tại sao được ngồi cùng xe
không?” Oản đáp: “Thần từ kẻ đánh xe, may được xét công thẳng
lên làm Trung lang tướng, không biết nguyên nhân thế nào.” Hoàng thượng
hỏi: “Lúc ta làm Thái tử có triệu ngươi, ngươi không chịu đến là cớ làm
sao?” Đáp rằng: “Tội thần đáng chết, thần thực bị ốm!” Hoàng
thượng ban kiếm. Oản nói: “Tiên đế ban cho thần sáu thanh kiếm, thần
không dám vâng chiếu nhận thêm.” Hoàng thượng nói: “Kiếm, người
ta mua đi bán lại, riêng người giữ đến nay chăng?” Oản đáp: “Còn
đủ.” Hoàng thượng sai lấy sáu thanh kiếm, kiếm còn trong bao, chưa từng
đeo qua. Quan Lang có lỗi, thường phải chịu tội, không được đổ thừa cho tướng
quan khác; nếu có công, hay nhường tướng khác. Hoàng thượng cho là liêm chính,
trung thực, không có lòng khác, bèn phong Oản làm Thái phó cho Hà Gian vương.
Ngô, Sở làm phản, hạ chiếu sai Oản làm tướng, đem quân Hà Gian đi đánh Ngô, Sở
có công, phong làm Trung úy. Được ba năm, nhờ quân công, trong năm Tiền Nguyên
thứ sáu thời Cảnh đế, phong Oản làm Kiến Lăng hầu.
Năm sau, Hoàng thượng phế truất Thái tử, giết thuộc quan
Lật Khanh. Hoàng thượng cho Oản là bậc trưởng giả, không nỡ trị tội, bèn ban
cho Oản cáo lão về quê, rồi sai Chất Đô bắt họ Lật trị tội. Xong xuôi, Hoàng
thượng lập Giao Đông vương làm Thái tử, triệu Oản về, phong làm Thái tử Thái
phó. Lâu sau, thăng làm Ngự sử đại phu. Được năm năm, thay vào hầu Lưu Xá làm
Thừa tướng, vào triều tâu việc theo đúng chức trách. Nhưng từ khi mới làm quan
đến lúc làm Thừa tướng, trước sau không có gì đáng nói. Thiên tử cho là người
đôn hậu, có thể giúp thiếu chúa, tôn sùng ông ta, ban thưởng rất nhiều.
Oản làm Thừa tướng được ba năm, Cảnh đế băng hà, Vũ đế
lên ngôi. Trong niên hiệu Kiến Nguyên, Thừa tướng nhân lúc Cảnh đế bị bệnh, tù
nhân của đám quan thư nhiều người bị tội lụy, nên bị coi không xứng với chức vị,
bị bãi quan. Sau đó Oản chết, con là Tín lên thay, dâng vàng làm tế khí sai lễ
chế, bị phế tước hầu.
Trực Bất Nghi
Tái hầu Trực Bất Nghi là người Nam Dương. Làm quan
Lang, thờ Văn đế. Cùng chỗ ông ở có người cáo lão về quê, cầm nhầm vàng của
quan Lang cùng ở khác, thế rồi người đó phát hiện, định đổ xằng cho Bất Nghi, Bất
Nghi tạ lỗi nhận cầm, mua vàng đền. Người cáo lão về quê trở lại trả vàng, viên
quan Lang mất vàng trước đây rất hổ thẹn, nhân đó khen Bất Nghi là trưởng giả.
Văn đế khen ngợi, từng bước thăng đến Thái trung đại phu. Hội kiến ở triều
đình, có người hủy báng: “Bất Nghi tướng mạo rất đẹp, nhưng không hiểu
sao khéo trộm cả chị dâu!” [8] Bất Nghi nghe được, nói: “Tôi
không có anh trai.” Cuối
cùng chẳng tự thanh minh.
Khi Ngô, Sở làm phản, Bất Nghi đang làm quan hạng hai
nghìn thạch, cầm quân tiến đánh. Thời Cảnh đế năm Hậu Nguyên thứ nhất, phong
làm Ngự sử đại phu. Thiên tử xét công người tham gia dẹp loạn Ngô, Sở, bèn
phong Bất Nghi làm Tái hầu. Thời Vũ đế, niên hiệu Kiến Nguyên, cùng Thừa tướng
Oản đều vì mắc lỗi nên bị bãi miễn.
Bất Nghi học theo Lão tử, đến chỗ nào cũng làm như các
quan thời xưa, chỉ sợ người ta biết sự tích làm quan của mình. Không muốn lập
danh tiếng, được khen là trưởng giả. Bất Nghi chết, con là Tương Như lên thay.
Cháu nội là Vọng, dâng vàng làm tế khí sai lễ chế, bị mất tước hầu.
Chu Nhân
Lang trung lệnh Chu Văn, tên là Nhân, tổ tiên vốn người
Nhậm Thành. Nhờ làm nghề thuốc nên được tấn kiến. Cảnh đế khi là Thái tử, cho
làm Xá nhân, tích công thăng dần, đến thời Hiếu Văn đế làm tới Thái trung đại
phu. Cảnh đế mới lên ngôi, phong Nhân làm Lang trung lệnh.
Nhân vốn thâm trầm kín đáo, thường mặc áo vá, quần ướt nước
tiểu, cho nên không sạch sẽ, nhờ đó được sủng ái. Cảnh đế vào hậu cung, bí mật
đùa cợt với cung tần, Nhân thường ở bên. Đến khi Cảnh đế băng hà, Nhân vẫn làm
Lang trung lệnh, cũng chẳng có gì đáng nói. Có lần Hoàng thượng hỏi về người
khác, Nhân đáp: “Hoàng thượng tự xét xem.” Cũng không hề hủy
báng. Vì thế Cảnh đế hai lần đến nhà. Gia đình Nhân chuyển đến Dương Lăng.
Hoàng thượng ban tặng rất nhiều, nhưng thường từ chối, không dám nhận. Chư hầu
quần thần đưa hối lộ, trước sau không nhận của ai.
Vũ đế lên ngôi, cho là bề tôi của tiên đế, tôn trọng
Nhân. Nhân cáo bệnh xin từ chức, được hưởng lộc hai nghìn thạch về quê, con
cháu đều làm đại quan.
Trương Âu
Ngự sử đại phu Trương Thúc, tên là Âu, con ngành thứ của
An Khâu hậu Trương Duyệt. Thời Hiếu Văn đế, dựa vào thuyết Hình danh, để phụng
sự Thái tử. Nhưng Âu tuy theo Hình danh, song lại là bậc trưởng giả. Thời Cảnh
đế, được tôn trọng, từng làm quan Cửu khanh. Đến thời Vũ đế, năm Nguyên Sóc thứ
tư, Hàn An Quốc bị bãi chức, chiếu phong Âu làm Ngự sử đại phu. Từ khi Âu làm
quan, chưa từng nói muốn tra án ai, chuyên lấy sự thành khẩn trung hậu xử lý việc
quan. Thuộc quan cho ông là trưởng giả, cũng không dám khinh khi. Tâu trình việc
ngục tụng, việc có thể thẩm xét lại thì thẩm xét; việc không thể thẩm xét lại bất
đắc dĩ phải chịu, nhỏ lệ rồi đích thân xem xét, niêm phong. Lòng yêu người đến
thế đấy.
Tuổi già bệnh nặng, xin từ quan. Thế rồi thiên tử cũng
ban chế sách cho nghỉ, cáo lão về nhà hưởng lộc bậc Thượng đại phu. Nhà ở Dương
Lăng, con cháu đều làm đại quan.
Thái sử công bàn rằng: Trọng
Ni có nói: “Người quân tử muốn trì độn trong lời nói mà mẫn tiếp ở việc làm, là
nói về Vạn Thạch, Kiến Lăng, Trương Thúc chăng? Vì thế họ giáo hóa không nghiêm
nghị mà thành công, không hà khắc mà an trị. Tái hầu làm quan khôn khéo, còn
Chu Văn lại bợ đỡ, bị người quân tử chỉ trích, coi họ gần như xu nịnh. Nhưng
như họ có thể gọi là quân tử biết dốc sức vào việc vậy!
Chú thích.
[1] Thái trung đại phu: chức quan tương đối lớn, cùng các chức
thấp hơn là Trung đại phu và Hạ đại phu đều được dự bàn chính sự, địa vị thấp
hơn các quan khanh.
[2] Thái tử Thái phó: chức quan phụ trách việc dạy dỗ, phò
tá cho Thái tử.
[3] Mỗ: không nói rõ tên hai người này.
[4] Tức tuổi hai mươi.
[5] Thái bộc: chức quan phụ trách về xe ngựa cho
nhà vua.
[6] Thạch tướng từ: đền thờ Tướng quốc họ Thạch.
[7] Tức Nam Việt và Đông Việt, tương ứng với
tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và Phúc Kiến ngày nay.
[8] Ý nói Bất Nghi tư thông với chị dâu,
nhưng sau, Bất Nghi nói mình không có anh, không có anh thì không có chị dâu,
đó thực ra cũng là một cách thanh minh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét