NHỮNG TÙ NHÂN CỦA ĐỊA LÝ
Tác giả:Tim Marsall
Chương Hai:
Trung Quốc
“Trung Quốc là một nền văn minh giả dạng là một quốc gia”
Lucian
Pye nhà khoa học chính trị.
Một tàu sân bay Hoa Kỳ thuộc kích cỡ
như vậy thường được bao quanh bởi khoảng mười hai tàu chiến khác, được che chắn
trên không và có tàu ngầm bảo vệ dưới nước. Con tàu của Trung Quốc, một tàu ngầm
tấn công lớp Tống, có thể rất im lặng khi chạy bằng điện năng, nhưng dù sao sự
kiện này vẫn tương đương với việc một nhà quản lý của Pepsi-Cola bất ngờ xuất
hiện giữa một cuộc họp hội đồng quản trị của Coca-Cola sau khi nghe lén dưới gầm
bàn nửa giờ.
Cảm xúc của người Mỹ là vừa kinh ngạc
vừa tức giận. Kinh ngạc bởi vì họ không ngờ Trung Quốc có thể làm điều đó mà
không bị họ phát hiện, tức giận bởi vì họ đã không phát hiện được và vì họ coi
đó là hành động khiêu khích, đặc biệt là tàu ngầm Trung Quốc nằm trong tầm ngư
lôi của Kitty Hawk. Họ lên tiếng phản đối, có lẽ hơi ồn ào quá, và người Trung
Quốc phát biểu: “Ôi! Thật là trùng hợp, việc chúng tôi nổi lên ở giữa đội chiến
hạm của quý vị vốn nằm ngoài khơi bờ biển của chúng tôi, chúng tôi nào có biết.”
Đây là thuật ngoại giao pháo hạm đảo
ngược của thế kỷ 21; khi xưa người Anh thường bố trí một tàu chiến ngoài khơi
vùng bờ biển của một thế lực nhỏ nào đó để báo hiệu ý định của họ, nay người
Trung Quốc đột ngột xuất hiện ngoài khơi vùng bờ biển của chính họ như một
thông điệp rõ ràng: “Hiện nay chúng tôi là một cường quốc hàng hải, đây là thời
của chúng tôi, và đây là vùng biển của chúng tôi.” Trung Quốc phải mất đến bốn
ngàn năm, nhưng rốt cuộc họ đã bắt đầu tiếp cận một hải cảng - và một tuyến đường
vận chuyển - ngay gần nơi bạn.
Cho đến nay, Trung Quốc chưa bao giờ
là một thế lực hải quân - với diện tích đất liền rộng lớn, rất nhiều những đường
biên giới và tuyến đường biển ngắn kết đến các đối tác thương mại, họ không cần
thiết phải mạnh về hải quân, và hiếm khi có ý muốn bành trướng về mặt ý thức hệ.
Thương nhân Trung Quốc từ lâu đã giăng buồm vượt đại dương để buôn bán hàng
hóa, nhưng hải quân của họ không tìm cách lấn chiếm lãnh ngoài vùng đất của
mình; cộng với những khó khăn của việc tuần tra các tuyến đường biển dài trên
Thái Bình Dương, Đại Tây Dương và Ấn Độ Dương khiến cho những nỗ lực đó chẳng
bõ công. Trung Quốc vẫn luôn là một thế lực trên đất liền, với đất rộng và người
đông - hiện đã gần 1,4 tỷ người.
Khái niệm về Trung Quốc xét như một thực
thể có dân cư đã bắt đầu gần bốn ngàn năm trước. Cái nôi của nền văn minh Trung
Quốc là vùng được gọi là Bình nguyên Hoa Bắc, người Trung Quốc gọi vùng này là
Trung nguyên. Một dải đất thấp rộng lớn diện tích gần 160.000 dặm vuông, nó nằm
phía dưới vùng Nội Mông, phía nam Mãn Châu, trong và xung quanh lưu vực sông
Hoàng Hà và trải xuống lưu vực sông Dương Tử; cả hai con sông này chảy từ tây
sang đông. Đây là một trong những khu vực có mật độ dân cư đông nhất trên thế
giới.
Lưu vực sông Hoàng Hà thường xuyên phải
hứng chịu những đợt lũ lụt tàn phá, vì vậy dòng sông này nhận được biệt hiệu
không ai ưa thích là “Tai họa của con dân Hán“. Quá trình công nghiệp hóa trong
khu vực thực sự khởi đầu vào những năm 1950 và đã nhanh chóng tăng tốc trong ba
thập niên vừa qua. Dòng sông bị ô nhiễm nặng nề này hiện bị tắc nghẽn với đầy rẫy
những chất thải độc hại đến mức đôi khi nó thậm chí phải vùng vẫy để chảy ra tới
bờ biển. Tuy nhiên, sông Hoàng Hà với Trung Quốc cũng như sông Nile với Ai Cập
- là cái nôi của nền văn minh, nơi người dân học cách làm ruộng, chế tạo giấy
và thuốc súng.
Ở phía bắc vùng đất tiền-Trung Hoa này
là những dải đất khắc nghiệt của sa mạc Gobi, mà giờ đây thuộc về Mông Cổ. Về
phía tây, dải đất dần nâng cao cho đến khi nó trở thành cao nguyên Tây Tạng, tiến
đến chân dãy Himalaya. Phía đông nam và phía nam giáp với biển.
Vùng đất trung tâm được biết đến với
tên gọi bình nguyên Hoa Bắc, là một đồng bằng rộng lớn và màu mỡ với hai con
sông chính và một bầu khí hậu cho phép người ta thu hoạch gạo và đậu nành hai vụ
một năm, khuyến khích dân số phát triển nhanh. Đến thế kỉ thứ 15 trước công
nguyên tại vùng đất trung tâm này, từ hàng trăm thành bang nhỏ tranh đoạt thôn
tính lẫn nhau, đã xuất hiện phiên bản sớm nhất của một nhà nước Trung Hoa - nhà
Thương. Đây chính là nơi mà dân tộc Hán dần hình thành, bảo vệ vùng đất trung
tâm và kiến tạo một vùng đệm xung quanh họ.
Dân tộc Hán hiện chiếm hơn 90% dân số
Trung Quốc, thống trị Trung Quốc cả chính trị và kinh tế. Họ được phân chia
thành những nhóm sử dụng tiếng Quan thoại, tiếng Quảng Đông và nhiều ngôn ngữ địa
phương khác, nhưng được thống nhất bởi tính cách sắc tộc và, ở một mức độ chính
trị là bởi sự thôi thúc về địa chính trị để bảo vệ vùng đất trung tâm. Tiếng
Quan thoại, có nguồn gốc ở phần phía bắc của khu vực, là ngôn ngữ ưu thế và là
phương tiện truyền thông của chính phủ, truyền hình và giáo dục quốc gia. Tiếng
Quan Thoại giống tiếng Quảng Đông và nhiều tiếng địa phương khác về chữ viết,
nhưng ngôn ngữ nói thì rất khác biệt.
Vùng đất trung tâm là trọng tâm về
chính trị, văn hóa, nhân khẩu học và - quan trọng nhất - về nông nghiệp. Khoảng
một tỷ người sống trong khu vực này của Trung Quốc, mặc dù về diện tích nó chỉ
bằng một nửa của Hoa Kỳ nơi có dân số 322 triệu người. Do địa hình của vùng đất
trung tâm tạo thuận lợi cho sự định cư và lối sống canh tác nông nghiệp, nên
các triều đại sơ kỳ đã cảm thấy bị đe dọa bởi các vùng đất không thuộc về người
Hán ở xung quanh, đặc biệt là Mông Cổ với những toán chiến binh du mục hung tợn.
Trung Quốc đã chọn chiến lược tương tự
như Nga: lấy công làm thủ, dẫn tới quyền lực. Như chúng ta sẽ thấy, tại đây có
những rào cản tự nhiên che chắn cho họ - nếu người Hán có thể tiếp cận và thiết
lập sự kiểm soát tại vùng này. Đó là một cuộc tranh đấu trường kỳ hàng thiên
niên kỷ, chỉ được hoàn tất trọn vẹn với sự kiện sáp nhập Tây Tạng vào năm 1951.
Đến thời của triết gia Trung Quốc nổi
tiếng Khổng Tử (651-479 trước Công nguyên) đã hình thành một cảm nghĩ mạnh mẽ về
bản sắc Trung Hoa, về sự phân chia giữa vùng văn minh Trung Hoa và những vùng
“man di” xung quanh nó. Đây là một cảm thức về bản sắc được chia sẻ bởi khoảng
sáu mươi triệu con người.
Đến năm 200 trước công nguyên, Trung
Quốc đã bành trướng về hướng Tây Nam, nhưng vẫn chưa với tới Tây Tạng ở phía
tây nam, về phía bắc tới vùng thảo nguyên Trung Á và phía nam xuống tận đến biển
Đông (mà họ gọi là biển Hoa Nam). Vạn Lý Trường Thành được khởi công xây dựng từ
triều đại nhà Tần (221-207 trước Công nguyên), và hình dạng Trung Quốc trên bản
đồ bắt đầu định hình như nước Trung Hoa hiện đại mà chúng ta nhìn nhận ngày
nay. Tuy nhiên phải hơn hai ngàn năm trôi qua trước khi biên giới Trung Quốc hiện
nay được cố định.
Giữa năm 605 và 609 Công nguyên, kênh
đào Đại Vận Hà, mất mấy thế kỷ xây dựng và ngày nay là con đường thủy nhân tạo
dài nhất thế giới, đã được kéo dài và cuối cùng nối liền sông Hoàng Hà với sông
Dương Tử. Nhà Tùy (581-618 Công nguyên) đã kiểm soát được một số lượng lớn nhân
công và sử dụng họ để nối liền những phụ lưu tự nhiên sẵn có thành một tuyến đường
thủy có khả năng thông thương giữa hai con sông lớn. Tuyến đường thủy này kết nối
hai vùng Hoa Bắc và Hoa Nam chặt chẽ hơn bao giờ hết. Mấy triệu nô lệ phải lao
động năm năm để hoàn tất công trình, nhưng bài toán được đặt ra từ xưa về việc
làm cách nào vận chuyển hàng hóa từ nam tới bắc nay đã được giải quyết. Tuy vậy,
một bài toán khác vẫn tồn tại cho đến ngày nay - lũ lụt.
Người Hán vẫn tranh đoạt thôn tính lẫn
nhau, nhưng ngày càng giảm dần, và vào đầu thế kỉ thứ 11, họ buộc phải tập
trung sự chú ý vào những đợt sóng xâm lăng Mông Cổ tràn xuống từ phương Bắc.
Người Mông Cổ đánh bại bất cứ vương quốc nào chống lại họ, dù phía nam, và đến
năm 1279, thủ lĩnh của họ là Hốt Tất Liệt trở thành người ngoại tộc đầu tiên
cai trị toàn bộ đất nước này trên ngôi vị hoàng đế của triều đại Mông Cổ (nhà
Nguyên). Gần chín mươi năm trôi qua trước khi người Hán giành lại quyền tự chủ
cùng với sự thành lập nhà Minh.
Vào thời điểm này, Trung Quốc ngày
càng có nhiều tiếp xúc với thương nhân và sứ giả từ các quốc gia châu Âu đang
trỗi dậy, như Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc chống lại
bất kỳ hình thức hiện diện thường trực nào của châu Âu, nhưng ngày càng mở cửa
các vùng duyên hải để buôn bán. Đây vẫn còn là một nét đặc trưng của Trung Quốc
cho đến ngày nay: khi Trung Quốc mở cửa, các vùng duyên hải phát triển phồn thịnh
nhưng các khu vực sâu trong đại lục thường bị bỏ quên. Sự thịnh vượng do thương
mại đem lại đã làm cho các thành phố ven biển như Thượng Hải trở nên giàu có,
nhưng sự giàu có ấy không lan tới vùng nông thôn. Tình trạng này càng làm gia
tăng dòng di dân khổng lồ đổ vào các khu đô thị, và cũng làm nổi bật sự khác biệt
giữa các vùng miền.
Vào thế kỷ 18, Trung Quốc đã vươn tay
tới một số vùng thuộc Miến Điện và Đông Dương ở phía nam. Vùng Tân Cương phía
tây bắc cũng bị chinh phục và trở thành tỉnh lớn nhất của nước này. Là một vùng
gồm núi non hiểm trở và các lòng chảo sa mạc rộng lớn, Tân Cương rộng 642.820 dặm
vuông, gấp đôi diện tích của Texas - hoặc tính theo cách khác, bạn có thể xếp gọn
Anh, Pháp, Đức, Áo, Thụy Sĩ, Hà Lan và Bỉ bên trong địa giới tỉnh này mà vẫn
còn đủ chỗ cho Luxembourg, thậm chí cả Liechtenstein nữa.
Nhưng, khi tăng diện tích, Trung Quốc
đồng thời cũng chuốc thêm những vấn đề khác. Tân Cương, một khu vực có dân cư
theo Hồi giáo, là nguồn gốc của những bất ổn, thậm chí bạo động trường kỳ cũng
như ở các khu vực khác; nhưng đối với dân tộc Hán, đây là một vùng đệm đáng giá
để chấp nhận rắc rối, thậm chí càng đáng giá hơn sau khi đất nước Trung Quốc hứng
chịu vận xấu đổ xuống đầu họ trong thế kỷ 19 và 20 cùng với sự xuất hiện của
người châu Âu.
Các cường quốc thực dân kéo đến, trong
số đó có người Anh, và chia cắt đất nước này thành những vùng ảnh hưởng của họ.
Điều đó đã, và vẫn là nỗi nhục nhã lớn nhất mà người Trung Quốc phải chịu đựng
kể từ cuộc xâm lược của người Mông Cổ. Đây là một câu chuyện mà đảng Cộng sản
thường xuyên sử dụng; một phần vì nó đúng, nhưng cũng vì nó hữu dụng trong việc
che đậy các thất bại và chính sách đàn áp của đảng Cộng sản.
Sau đó, người Nhật - một cường quốc mới
nổi đang trên đà bành trướng lãnh thổ - đã xâm lược với cuộc tấn công vào năm
1932 và lần nữa vào năm 1937, sau đó họ xâm chiếm hầu hết vùng đất trung tâm
cũng như Mãn Châu và Nội Mông. Năm 1945, vào giai đoạn cuối của thế chiến thứ
II Nhật đầu hàng Mỹ vô điều kiện và theo đó rút quân khỏi Trung Quốc, mặc dù ở
Mãn Châu, họ được thay thế bởi quân đội Liên Xô đang tiến vào, sau đó quân Liên
Xô cũng rút lui năm 1946.
Một số nhà quan sát bên ngoài nhận định
rằng những năm hậu chiến có thể mang lại nên tự do dân chủ cho Trung Quốc.
Nhưng đó là một lối suy nghĩ viển vông, giống như những gì người phương Tây
ngây thơ đã viết trong những ngày đầu của cuộc cách mạng “Mùa xuân Ả-rập3“ mới đây, thì trường
hợp của Trung Quốc cũng vậy, chúng dựa trên sự thiếu hiểu biết về những động lực
nội bộ của dân chúng, của chính trị và địa lý trong khu vực.
Thay vào đó, lực lượng dân tộc chủ
nghĩa (Quốc dân đảng) dưới quyền Tưởng Giới Thạch và quân đội cộng sản dưới sự
lãnh đạo của Mao Trạch Đông đã đánh nhau để tranh giành quyền lực tối cao cho đến
năm 1949, khi đảng Cộng sản giành thắng lợi và những người theo Quốc dân đảng
rút sang Đài Loan. Cùng năm đó, đài phát thanh Bắc Kinh tuyên bố: “Quân Giải
phóng Nhân dân phải giải phóng mọi vùng lãnh thổ thuộc Trung Quốc, bao gồm Tây
Tạng, Tân Cương, Hải Nam và Đài Loan.”
Mao Trạch Đông tập trung quyền lực tới
một mức độ chưa từng thấy trong các triều đại trước đó. Ông ấy ngăn chặn ảnh hưởng
của Nga tại Nội Mông và mở rộng ảnh hưởng của Bắc Kinh vào sâu lãnh thổ Mông Cổ.
Năm 1951 Trung Quốc hoàn tất việc sáp nhập Tây Tạng (một vùng lãnh thổ rộng
mênh mông khác không thuộc về người Hán), và đến thời điểm này bản đồ trong
sách giáo khoa Trung Quốc bắt đầu mô tả Trung Quốc trải dài thậm chí lấn sang
các nước cộng hòa Trung Á. Đất nước đã được ghép nối lại hoàn chỉnh, Mao dùng
phần còn lại của cuộc đời mình để đảm bảo đất nước tồn tại nguyên vẹn như vậy
và củng cố quyền kiểm soát của đảng Cộng sản trong mọi mặt của đời sống, nhưng
- quay lưng lại với phần lớn thế giới bên ngoài. Đất nước - tiếp tục nghèo khổ
đến tuyệt vọng, đặc biệt là các miền - đất xa ở những vùng duyên hải, nhưng đất
nước được thống nhất.
Những người kế nhiệm Mao cố gắng biến
cuộc Vạn lý Trường chinh tới chiến thắng của Mao thành một cuộc trường chinh
kinh tế hướng tới sự thịnh vượng. Vào đầu những năm 1980, nhà lãnh đạo Trung Quốc
Đặng Tiểu Bình đã đặt ra thuật ngữ “Chủ nghĩa xã hội với đặc điểm Trung Quốc”
(Trung Quốc đặc sắc Xã hội chủ nghĩa), mà thực tế nên được dịch là “Đảng Cộng sản
toàn quyền kiểm soát trong một nền kinh tế Tư Bản”. Trung Quốc trở thành một cường
quốc thương mại lớn và một gã khổng lồ quân sự mới nổi. Vào cuối thập niên
1990, Trung Quốc đã được khôi phục sau cuộc thảm sát ở quảng trường Thiên An
Môn năm 1989, lần lượt lấy lại Hồng Kông và Macau từ tay Anh và Bồ Đào Nha, và
đã có thể nhìn ra xung quanh biên giới của mình, đánh giá mức độ an ninh của
mình và lên kế hoạch cho bước xuất hành vĩ đại hướng ra thế giới.
Nếu nhìn vào biên giới hiện đại của
Trung Quốc, chúng ta thấy một cường quốc vĩ đại giờ đây tự tin rằng nó được đảm
bảo bởi các đặc điểm địa lý của mình, cho phép nó phòng vệ và làm thương mại hữu
hiệu. Tại Trung Quốc, các hướng của la bàn luôn được liệt kê theo thứ tự
đông-nam-tây-bắc, nhưng chúng ta hãy bắt đầu từ hướng bắc và di chuyển theo chiều
kim đồng hồ.
Ở phía bắc, chúng ta thấy đường biên
giới dài 2.906 dặm với Mông Cổ. Nằm vắt ngang biên giới này là sa mạc Gobi. Các
chiến binh du mục từ thời cổ đại có thể đã tấn công về phía nam qua sa mạc này,
nhưng một binh đoàn thời hiện đại tập kết tại đây sẽ bị phát hiện ra hàng tuần
trước khi sẵn sàng tiến quân, và họ cũng cần đến các tuyến tiếp vận dài đến khó
tin chạy dọc qua một địa hình không hiếu khách trước khi có thể tiến vào Nội
Mông (một phần của Trung Quốc) và đến gần vùng trung tâm. Hầu như không có đường
xá phù hợp để vận chuyển những chiến xa hạng nặng, rất ít vùng có thể cư trú được.
Sa mạc Gobi là một hệ thống cảnh báo sớm kiêm tuyến phòng thủ vĩ đại. Bất kỳ sự
bành trướng nào của Trung Quốc lên phía bắc sẽ không phải bằng quân sự, mà phát
xuất từ những thỏa thuận thương mại, khi Trung Quốc cố gắng hút cạn nguồn tài
nguyên thiên nhiên của Mông Cổ, chủ yếu là khoáng sản. Việc này cũng làm gia
tăng lượng di dân từ Hán vào Mông Cổ.
Ngay cạnh đó, về phía đông, là đường
biên giới của Trung Quốc với Nga, chạy dài một mạch đến Thái Bình Dương - hoặc
ít nhất đến phân khu biển Nhật Bản của nó. Phía trên là vùng Viễn Đông núi non
thuộc Nga, một lãnh thổ bao la, không hiếu khách, với dân cư thưa thớt. Dưới đó
là Mãn Châu, vùng đất mà người Nga sẽ phải vượt qua nếu họ muốn đến được dải đất
trung tâm Trung Quốc. Dân số Mãn Châu là 100 triệu người và đang đà gia tăng;
ngược lại, vùng Viễn Đông của Nga chỉ có dưới bảy triệu người và không có dấu
hiệu tăng trưởng dân số. Người ta có thể chờ đợi một cuộc di cư quy mô lớn từ
phía nam ngược lên phía bắc, và điều này sẽ đem lại cho Trung Quốc một lợi thế
trong mối quan hệ với Nga. Từ góc nhìn quân sự, địa điểm tốt nhất để vượt qua
biên giới là nơi nằm gần cảng Vladivostok của Nga trên Thái Bình Dương, nhưng
Nga có rất ít lý do, và hiện tại không dự định nào, để làm vậy. Thực tế, các biện
pháp trừng phạt gần đây của phương Tây đối với Nga do cuộc khủng hoảng của
Ukraine đã thúc đẩy Nga tiến hành những thỏa thuận kinh tế lớn với Trung Quốc
theo những điều kiện giúp Nga không bị nhấn chìm, nhưng những thỏa thuận này có
lợi hơn cho Trung Quốc. Nga là đối tác yếu thế trong mối quan hệ này.
Bên dưới vùng Viễn Đông của Nga, dọc
miền duyên hải, là biển Hoàng Hải, biển Hoa Đông và biển Đông (mà Trung Quốc gọi
là Hoa Nam), thông ra Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, có nhiều bến cảng tốt và
vẫn luôn được sử dụng cho mục đích thương mại. Tuy nhiên, bên kia bờ biển là một
loạt vấn đề đến từ những đảo quốc - một trong số đó có hình dạng giống như Nhật
Bản mà chúng ta sẽ bàn đến sau.
Tiếp tục theo chiều kim đồng hồ, chúng
ta đến biên giới đất liền kế tiếp: Việt Nam, Lào và Miến Điện. Việt Nam là một
nỗi bực bội đối với Trung Quốc. Trong nhiều thế kỷ, hai dân tộc đã tranh chấp về
lãnh thổ, và điều không may cho cả hai là khu vực miền nam này có một biên giới
mà quân đội có thể vượt qua chẳng mấy khó khăn - điều này phần nào giải thích sự
thống trị và chiếm đóng của Trung Quốc trên lãnh thổ Việt Nam suốt một ngàn năm
từ 111 trước Công nguyên đến 938 Công nguyên và cuộc chiến tranh biên giới ngắn
ngủi năm 1979. Tuy nhiên, khi sức mạnh quân sự của Trung Quốc ngày càng gia
tăng, Việt Nam sẽ ít có khả năng để mình bị lôi kéo vào một trận đấu súng, và sẽ
kết thân hơn nữa với Hoa Kỳ để được bảo vệ, hoặc bắt đầu lặng lẽ thay đổi sách
lược ngoại giao để làm bạn với Bắc Kinh. Việc cả hai nước trên danh nghĩa đều
theo lý tưởng cộng sản là chẳng tác động gì mấy đến tình trạng quan hệ của họ:
chính sự chia sẻ về mặt địa lý đã quy định mối quan này. Nhìn từ góc độ của Bắc
Kinh, Việt Nam chỉ là một mối đe dọa nhỏ và một vấn đề có thể xử lý được.
Biên giới với Lào là địa hình đồi gò rừng
rậm, thương nhân rất khó vượt qua - và thậm chí càng phức tạp hơn đối với quân
đội. Khi di chuyển theo chiều kim đồng hồ tới Miến Điện, rừng rậm đồi gò trở
thành vùng núi non vươn cao dần đến độ cao hơn sáu ngàn mét ở cực tây và bắt đầu
nhập vào dãy Himalaya.
Điều này đưa chúng ta đến Tây Tạng và
tầm quan trọng của nó đối với Trung Quốc. Dãy Himalaya chạy dọc chiều dài biên
giới Trung - Ấn trước khi hạ dần xuống để trở thành rặng Karakorum tạo ranh giới
với Pakistan, Afghanistan và Tajikistan. Đây là phiên bản Vạn Lý Trường Thành tự
nhiên của Trung Quốc, hoặc - nếu nhìn từ phía New Delhi - là Vạn Lý Trường
Thành của Ấn Độ. Bức tường tự nhiên này đã tách biệt hai nước đông dân nhất
trên hành tinh cả về mặt quân sự cũng như kinh tế.
Trung-Ấn cũng có tranh chấp: Trung Quốc
đòi “bang Arunachal Pradesh của Ấn Độ, Ấn Độ nói Trung Quốc đang chiếm Aksai
Chin; nhưng mặc dù pháo binh họ chĩa vào nhau vươn qua bức tường chắn tự nhiên
này cả hai bên đều có những việc cần làm hơn là khơi lại trận đụng độ quân sự nổ
ra vào năm 1962, khi một loạt tranh chấp bạo lực trên biên giới đạt đến đỉnh điểm
là những trận chiến khốc liệt quy mô lớn trên vùng núi. Tuy nhiên sự căng thẳng
vẫn còn đó và mỗi bên cần thận trọng xử lý tình huống.
Hầu như không có quan hệ thương mại giữa
Trung Quốc và Ấn Độ trong nhiều thế kỷ, và điều này có vẻ sẽ không thay đổi
trong tương lai gần. Dĩ nhiên biên giới này thực ra là biên giới Tây Tạng - Ấn
Độ. Và đó chính là lý do tại sao Trung Quốc luôn muốn kiểm soát Tây Tạng.
Đây là địa chính trị của nỗi lo sợ. Nếu
Trung Quốc không kiểm soát Tây Tạng, thì luôn có khả năng Ấn Độ sẽ cố gắng làm
điều đó. Điều đó sẽ trao cho Ấn Độ những cao điểm kiểm soát cao nguyên Tây Tạng
và một căn cứ để từ đó đưa quân vào Trung nguyên Trung Hoa, cũng như quyền kiểm
soát thượng nguồn ở Tây Tạng của ba con sông lớn của Trung Quốc, sông Hoàng Hà,
sông Dương Tử và sông Mekong. Đây cũng là lý do tại sao Tây Tạng được mang biệt
danh “Tháp nước của Trung Quốc”. Trung Quốc, một quốc gia có lượng nước sử dụng
tương tự như Hoa Kỳ, nhưng với dân số gấp năm lần, rõ ràng sẽ không cho phép điều
đó
Vấn đề không phải ở chỗ Ấn Độ muốn cắt
nguồn cung cấp nước của Trung Quốc hay không, mà là liệu Ấn Độ có đủ sức làm
như vậy hay không. Trong nhiều thế kỷ, Trung Quốc đã cố gắng đảm bảo để điều đó
sẽ không bao giờ xảy ra. Diễn viên Richard Gere và phong trào tự do cho Tây Tạng
sẽ còn tiếp tục lên tiếng chống lại sự bất công của việc xâm chiếm Tây Tạng, và
giờ đây là việc định cư của người Hán tại Tây Tạng, nhưng trong Cuộc tranh chấp
giữa Đức Đạt Lai Lạt Ma, phong trào giành độc lập cho Tây Tạng, các ngôi sao Hollywood
với Đảng Cộng sản Trung Quốc - kẻ đang thống trị nền kinh tế lớn thứ hai thế giới
- sẽ chỉ có một người chiến thắng.
Khi người phương Tây, dù là diễn viên
Hollywood Richard Gere hay cựu Tổng thống Mỹ Obama, nói về Tây Tạng, Trung Quốc
thấy vô cùng khó chịu. Họ không thấy nguy hiểm, không sợ bị lật đổ, mà chỉ thấy
khó chịu. Họ không nhìn sự việc qua lăng kính nhân quyền, mà qua lăng kính an
ninh địa chính trị, và chỉ tin rằng phương Tây đang cố gắng làm suy yếu an ninh
của họ. Tuy nhiên, an ninh Trung Quốc đã và sẽ không bị làm suy yếu, ngay cả
khi có nhiều cuộc nổi loạn hơn nữa chống lại người Hán. Nhân khẩu học và địa
chính trị đều chống lại sự độc lập của Tây Tạng.
Người Trung Quốc đang xây dựng “sự thực
trên thực địa” (facts on the ground) trên “nóc nhà của thế giới”. Vào những năm
1950, quân đội Trung Quốc bắt đầu xây dựng các tuyến đường vào Tây Tạng, và kể
từ đó họ đã góp phần đưa thế giới hiện đại đến vương quốc cổ xưa này; nhưng các
tuyến đường bộ này, và bây giờ là đường sắt cũng đưa người Hán đến đây.
Từ lâu người ta đã bảo rằng không thể
xây dựng một tuyến đường sắt xuyên qua vùng đất đóng băng vĩnh viễn, qua núi
non và thung lũng của Tây Tạng. Các kỹ sư giỏi nhất của của châu Âu, những người
đã từng đục xuyên qua dãy Alps, cho biết điều đó không thể thực hiện được. Cho
đến năm 1988, tác giả du ký Paul Theroux4 đã viết trong
cuốn sách Riding the Iron Rooster: “Dãy Côn Lôn là thứ khiến đường sắt sẽ
không bao giờ đến được Lhasa.” Côn Lôn chia cắt tỉnh Tân Cương với Tây Tạng, và
Theroux cám ơn vì điều đó: “Đó hắn là một điều tốt lành. Cho đến khi nhìn thấy
Tây Tạng, tôi vẫn tưởng rằng mình yêu thích đường sắt. Và rồi tôi nhận ra rằng
mình thích sự hoang dã hơn rất nhiều.” Nhưng người Trung Quốc đã xây dựng tuyến
đường sắt đó. Có lẽ chỉ họ mới có thể làm được điều này. Đường vào Lhasa, thủ
phủ Tây Tạng, được chủ tịch Trung Quốc lúc bấy giờ là Hồ Cẩm Đào khánh thành
năm 2006. Giờ đây, tàu khách và tàu hàng đổ đến từ Thượng Hải và Bắc Kinh mỗi
ngày bốn chuyến, và hằng ngày.
Những chuyến tàu này mang theo nhiều
thứ, ví dụ như hàng tiêu dùng từ mọi miền Trung Quốc, máy vi tính, tivi màu và
điện thoại di động. Chúng mang đến những khách du lịch hỗ trợ cho nền kinh tế địa
phương, chúng mang đời sống hiện đại đến một vùng đất cổ xưa và nghèo khó, một
sự cải thiện lớn lao về mức sống và chăm sóc sức khỏe, và cũng mang lại tiềm
năng đưa hàng hóa của Tây Tạng ra thế giới bên ngoài. Nhưng những chuyến tàu đó
cũng đưa đến vài triệu di dân người Trung Quốc gốc Hán.
Con số thực tế khó có thể biết được:
phong trào Tây Tạng Tự do tuyên bố rằng trong vùng văn hóa Tây Tạng rộng lớn,
người Tây Tạng hiện nay là thiểu số, nhưng chính phủ Trung Quốc nói rằng ở Khu
Tự trị Tây Tạng, hơn 90% dân chúng là người Tây Tạng. Cả hai bên đều cường điệu
các con số, nhưng bằng chứng cho thấy chính phủ Trung Quốc có mức độ cường điệu
cao hơn. Con số đó không bao gồm những di dân người Hán vốn không được đăng ký
thường trú, nhưng người quan sát bình thường có thể thấy rằng hiện nay các khu
dân cư người Hán thống trị trong các vùng đô thị Tây Tạng.
Đã có thời đại đa số dân cư Mãn Châu,
Nội Mông và Tân Cương là người thuộc sắc tộc Mãn Châu, Mông Cổ và Duy Ngô Nhĩ
(Uighur); hiện giờ trong cả ba tỉnh trên người Hán chiếm đa số, hoặc đang trở
thành đa số. Tình trạng như vậy cũng sẽ xảy ra với Tây Tạng.
Điều này có nghĩa là sự oán giận đối với
người Hán sẽ tiếp tục biểu lộ qua bạo loạn như sự kiện năm 2008, khi người dân
Tây Tạng biểu tình chống Trung Quốc tại Lhasa, đốt và cướp phá tài sản của người
Hán, hai mươi mốt người chết và hàng trăm người bị thương. Sự trấn áp của chính
quyền sẽ tiếp tục, phong trào Tây Tạng Tự do sẽ tiếp tục, tăng sĩ sẽ tiếp tục tự
thiêu để cảnh báo thế giới về tình cảnh của người Tây lạng - còn người Hán vẫn
sẽ tiếp tục di cư đến.
Dân số khổng lồ của Trung Quốc, hầu hết
sống trong vùng trung tâm, đang tìm kiếm cách để mở rộng. Cũng giống như người
Mỹ từng hướng mắt nhìn về phía tây, người Trung Quốc cũng vậy, và cũng giống
như những con Ngựa sắt (tàu lửa) đã đưa dân di cư gốc châu Âu đến vùng đất của
thổ dân Comanche và Navajo, những con Gà sắt5 thời hiện đại
đang đưa người Hán tới Tây Tạng.
Sau cùng, kim la bàn di chuyển qua
biên giới với Pakistan, Tajikistan và Kyrgyzstan (tất cả đều là vùng núi) trước
khi đến biên giới giáp với Kazakhstan, dẫn ngược về phía bắc, trở lại Mông Cổ.
Đây là Con đường Tơ lụa cổ đại, là cầu nối thương mại trên đất liền từ Trung
Hoa ra thế giới bên ngoài. Về mặt lý thuyết, nó là một điểm yếu trong hệ thống
phòng thủ của Trung Quốc, một khoảng trống giữa vùng núi non và sa mạc; nhưng
nó nằm xa dải đất trung nguyên, dân Kazakhs không ở vị thế có thể đe dọa Trung
Quốc, và Nga cách xa mấy trăm dặm.
Phía đông nam giáp biên giới
Kazakhstan này là Tân Cương, tỉnh “bán tự trị” bất kham của Trung Quốc, và dân
cư ở đó là người Duy Ngô Nhĩ bản địa theo Hồi giáo, họ nói thứ tiếng cùng ngữ hệ
với tiếng Thổ Nhĩ Kỳ. Tân Cương giáp biên giới với 8 quốc gia: Nga, Mông Cổ,
Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan, Afghanistan, Pakistan và Ấn Độ.
Tân Cương đã từng và sẽ luôn có bất ổn.
Người Duy Ngô Nhĩ đã hai lần tuyên bố nhà nước độc lập “Đông Turkestan”, trong
những năm 1930 và những năm 1240. Họ chứng kiến sự sụp đổ của Đế quốc Nga dẫn đến
hệ quả là các nước láng giềng Xô viết cũ của họ ở vùng “Stan” trở thành các quốc
gia có chủ quyền. Họ được truyền cảm hứng bởi phong trào độc lập của Tây Tạng,
và hiện nay nhiều người đang kêu gọi tách khỏi Trung Quốc.
Cuộc bạo loạn giữa các sắc tộc bùng nổ
trong năm 2009, dẫn đến hơn hai trăm người chết. Bắc Kinh phản ứng theo ba
cách: tàn nhẫn đàn áp những người bất đồng, đổ tiền vào khu vực này, và vẫn tiếp
tục ồ ạt đưa lao động người Hán tới. Đối với Trung Quốc, Tân Cương quá quan trọng
về mặt chiến lược và vì vậy không thể cho phép phong trào đòi độc lập trỗi dậy:
Tân Cương không chỉ chia sẻ biên giới với tám quốc gia, do đó là vùng đệm cho dải
đất trung tâm, mà nó còn có dầu mỏ, và là nơi an toàn để bố trí các địa điểm thử
nghiệm vũ khí hạt nhân của Trung Quốc. Lãnh thổ này cũng là con át chủ bài
trong chiến lược kinh tế “Một vành đai, Một con đường”. Thật kỳ quặc khi con đường
này lại là đường biển - kiến tạo nên một tuyến đường cao tốc trên biển để chuyên
chở hàng hóa. Vành đai ở đây là “Vành đai kinh tế kiểu Con đường Tơ lụa” - một
tuyến đường bộ được hình thành từ thời Con đường Tơ lụa ngày xưa, chạy thẳng
qua Tân Cương đó sẽ nối tiếp xuống phía nam tới cảng nước sâu khổng lồ mà Trung
Quốc đang tiến hành xây dựng tại Gwadar, Pakistan. Vào cuối năm 2015, Trung Quốc
đã ký một hợp đồng thuê cảng 40 năm. Hải cảng này là một phần trong biện pháp
mà theo đó “Vành đai và Con đường” sẽ được kết nối.
Hầu hết các thị trấn và thành phố mới
mọc lên ở Tân Cương chủ yếu là người tộc Hán định cư, họ bị thu hút bởi công ăn
việc làm trong các nhà máy mới mà chính quyền trung ương đầu tư. Một ví dụ điển
hình là thành phố Thạch Hà Tử, cách tám lăm dặm về phía tây bắc thủ phủ Urumqi.
Trong tổng số 650.000 dân cư của vùng, có ít nhất 620.000 người được cho là thuộc
dân tộc Hán. Trên tổng thể, ước chừng Tân Cương có khoảng 40% người Hán, theo một
ước tính dè dặt - và thậm chí đa số dân của chính Urumqi cũng là người Hán, mặc
dù các số liệu chính thức rất khó nắm bắt và không phải lúc nào cũng đáng tin cậy
do tính nhạy cảm về chính trị của chúng.
Đã xuất hiện một “Đại hội Đại biểu Duy
Ngô Nhĩ thế giới” đóng trụ sở tại Đức, và “Phong trào Giải phóng Đông
Turkestan“ được thành lập ở Thổ Nhĩ Kỳ; nhưng những người Duy Ngô Nhĩ chủ
trương ly khai không có một nhân vật kiểu như Đạt Lai Lạt Ma để có thể thu hút
sự chú ý của các phương tiện truyền thông, và sự nghiệp giành độc lập của họ hầu
như không được thế giới biết đến. Trung Quốc cố gắng giữ tình trạng y nguyên
như vậy, đảm bảo cho họ quan hệ thân thiện với càng nhiều các quốc gia láng giềng
càng tốt, nhằm ngăn chặn các phong trào độc lập có tổ chức tìm được tuyến tiếp
tế hậu cần hoặc căn cứ nào đó để rút lui. Bắc Kinh cũng chủ chương tô vẽ những
người chủ chương ly khai y như khủng bố Hồi giáo. Al-Qaeda và các nhóm khác có
cơ sở tại những nơi như Tajikistan quả thực là đang nỗ lực liên kết với các phần
tử ly khai Duy Ngô Nhĩ, nhưng phong trào này chủ yếu là mang tính dân tộc chủ
nghĩa. Tuy nhiên, các cuộc tấn công bằng súng, bom, và dao trong khu vực này,
nhắm vào các mục tiêu là chính phủ và/ hoặc người Hán, trong vài năm vừa qua có
vẻ như sẽ tiếp tục và có thể leo thang thành một cuộc nổi dậy bùng nổ hết cỡ.
Năm 2016, các quan chức chính quyền địa
phương cho biết rằng nỗ lực loại bỏ các phần tử cực đoan đã “làm suy yếu đáng kể”
phong trào Hồi giáo mới manh nha này. Tuy nhiên, với việc quân đội Thổ Nhĩ Kỳ
cho biết họ đã bắt giữ 324 nghi can là phần tử thánh chiến Hồi giáo từ Tân
Cương đang trên đường tới Syria trong năm 2015, cố gắng xoa dịu dư luận trong
tuyên bố trên dường như không có kết quả. Sự thất bại toàn diện của Nhà nước Hồi
giáo (IS) tại lraq và các vùng thuộc của Syria vào năm 2017 cũng đã gia tăng
nguy cơ những chiến binh hiếu chiến từ nước ngoài trở về quê quán nhưng không
chịu an phận.
Trung Quốc sẽ không nhượng bộ
lãnh thổ này, và cũng như ở Tây Tạng, cơ hội giành độc lập của Tân Cương đang dần
khép lại. Cả hai đều là vùng đệm, trong đó có một vùng là tuyến ngoại thương lớn
trên bộ, và quan trọng nhất - cả hai (mặc dù với thu nhập giới hạn) cho một nền
kinh tế phải liên tục sản xuất và bán hàng nếu Trung Quốc cứ tiếp tục tăng trưởng
và để ngăn ngừa nạn thất nghiệp hàng loạt. Nếu không làm được điều đó nhiều khả
năng dẫn đến sự bất ổn dân sự trên diện rộng, đe dọa quyền kiểm soát của đảng Cộng
sản và sự thống nhất của đất nước Trung Quốc.
Đảng Cộng sản Trung Quốc có những lý
do tương tự để chống lại xu hướng dân chủ và các quyền cá nhân. Nếu người dân
được quyền tự do bỏ phiếu, sự thống nhất của người Hán có thể bắt đầu rạn nứt,
hoặc có nhiều khả năng hơn, các vùng nông thôn và thành thị sẽ nảy sinh xung đột.
Điều đó, đến lượt nó, sẽ khuyến khích dân cư trong vùng đệm trở nên táo bạo
hơn, và làm Trung Quốc suy yếu thêm. Mới chỉ là một thế kỷ trôi qua kể từ lần
nhục nhã gần đây nhất, khi Trung Quốc bị các cường quốc nước ngoài ức hiếp; đối
với Bắc Kinh, sự thống nhất và sự tiến bộ kinh tế là những ưu tiên hàng đầu so
với các nguyên tắc dân chủ.
Cách nhìn của người Trung Quốc về xã hội
rất khác với phương Tây. Tư duy phương Tây thấm nhuần ý tưởng về quyền cá nhân;
tư duy Trung Quốc coi tập thể cao hơn cá nhân. Điều mà phương Tây coi là quyền
con người thì lãnh đạo Trung Quốc coi là những lý thuyết nguy hiểm gây hại cho
đa số, và phân lớn dân chúng chấp nhận rằng, ít nhất, gia đình họ tộc phải được
đặt lên trên so với cá nhân.
Có lần tôi đã đưa vị đại sứ Trung Quốc
ở London tới một nhà hàng Pháp cao cấp với hy vọng ông ta sẽ lặp lại câu trả lời
được trích dẫn nhiều lần của Thủ tướng Chu Ân Lai cho câu hỏi của Richard
Nixon: “Tác động của cuộc Cách mạng Pháp là gì?” Vị thủ tướng trả lời: “Quá sớm
để nói.” Đáng buồn là điều này không xảy ra, nhưng tôi đã nhận được một bài giảng
nghiêm khắc rằng sự áp đặt đầy đủ của “cái mà quý vị gọi là nhân quyền” ở Trung
Quốc sẽ dẫn tới tình trạng bạo lực và chết chóc trên diện rộng như thế nào. Sau
đó tôi nhận được câu hỏi, “Tại sao anh nghĩ những giá trị của các anh sẽ áp dụng
được trong một nền văn hóa mà các anh không hiểu?”
Thỏa thuận giữa các lãnh đạo đảng và
người dân Trung Quốc, cho một thế hệ hiện nay, vẫn là “Chúng tôi sẽ làm cho các
anh sống tốt hơn - các anh sẽ tuân thủ mệnh lệnh của chúng tôi”. Chừng nào nền
kinh tế còn giữ được đà tăng trưởng, giao kèo vĩ đại này vẫn có thể tồn tại lâu
dài. Nếu nền kinh tế khựng lại, hoặc suy thoái, thỏa thuận đó sẽ bị hủy bỏ. Tâm
mức hiện thời của các cuộc biểu tình, và sự tức giận trước tình cảnh tham nhũng
và thiếu hiệu quả chính là bằng chứng cho những điều sẽ xảy ra nếu thỏa thuận
đó tan vỡ.
Còn một vấn đề đang lớn dần đối với Đảng
Cộng Sản Trung Quốc là khả năng cung cấp lương thực cho dân cư. Theo bộ Nông
nghiệp, hơn 40% đất trồng trọng đang bị ô nhiễm hoặc có lớp đất bề mặt đang bị
bào mòn dần.
Trung Quốc rơi vào một trò chơi đuổi bắt.
Họ cần phải duy trì công nghiệp hóa do họ đang hiện đại hóa và nâng cao mức sống,
nhưng chính quá trình đó lại đe dọa đến việc sản xuất lương thực. Nếu Trung Quốc
không thể giải quyết được vấn đề này thì, tình trạng bất ổn sẽ xảy ra.
Hiện nay có khoảng 500 cuộc biểu tình
mỗi ngày trên khắp Trung Quốc, chủ yếu là biểu tình ôn hòa, về nhiều vấn đề
khác nhau. Nếu xuất hiện tình trạng thất nghiệp hàng loạt, hoặc nạn đói ở quy
mô lớn, hai vấn đề này sẽ bùng nổ cả về số lượng và mức độ sử dụng bạo lực cả
hai bên.
Vì vậy, về phương diện kinh tế, hiện
nay Trung Quốc cũng có một thỏa thuận lớn với thế giới - “Chúng tôi sẽ làm ra
những thứ rẻ tiền - các anh mua nó với giá rẻ.
Tạm gác lại cái thực tế là chi phí lao
động ở Trung Quốc đang tăng lên và đang bị cạnh tranh bởi Thái Lan và
Indonesia, cạnh tranh là về giá nếu không phải là về lượng. Điều gì sẽ xảy ra nếu
các nguồn tài nguyên cần thiết để sản xuất hàng hóa trở nên cạn kiệt, nếu ai đó
giành được tài nguyên trước, hoặc nếu hàng hóa bị phong tỏa trên đường biển - cả
xuất và nhập khẩu? Đề đối phó với chuyện đó, bạn sẽ cần có hải quân.
Người Trung Quốc là dân đi biển cừ
khôi, đặc biệt là trong thế kỷ 15, khi họ rong ruổi trên Ấn Độ Dương. Những
chuyến thám hiểm của Đô đốc Trịnh Hòa đã mạo hiểm đi xa tới tận Kenya. Nhưng
đây là những cuộc thao diễn nhằm kiếm tiền, không phải là những trù tính về quyền
lực, và chúng không được hoạch định để thiết lập những căn cứ tiên phương nhằm
hỗ trợ các hoạt động quân sự.
Sau khi mất bốn ngàn năm hỗn loạn để củng
cố khối đại lục của mình, Trung Quốc hiện đang xây dựng một lực lượng Hải quân
Nước xanh dương (blue-water navy). Hải quân Nước xanh lục (Green-water navy) tuần
tra lãnh hải của Trung Quốc, trong khi Hải quân Nước xanh dương tuần tra các đại
dương. Phải mất ba mươi năm nữa (giả định rằng nền kinh tế vẫn phát triển),
Trung Quốc mới xây dựng được lực lượng hải quân đủ mạnh để có thể thực sự thách
thức lực lượng hải quân hùng mạnh nhất từng thấy trên thế giới - hải quân Hoa Kỳ.
Nhưng về trung hạn và ngắn hạn, trong khi xây dựng, huấn luyện học hỏi, hải
quân Trung Quốc sẽ va chạm với các đối thủ trên biển; và việc xử lý những va chạm
ấy ra sao - đặc biệt là với Hoa Kỳ - sẽ xác định cục diện quyền lực chính trị lớn
của thế kỷ này.
Những trẻ hiện đang được huấn luyện
trên chiếc tàu sân bay “second-hand” (tàu Liêu Ninh) mà Trung Quốc tận dụng từ ụ
tàu phế thải của Ukraine sẽ là những người, nếu họ lên đến cấp bậc đô đốc, có đủ
kiến thức để biết cách đưa một biên đội tàu sân bay mười hai chiến hạm đi vòng
quanh thế giới rồi quay về - và tham chiến dọc đường nếu cần thiết. Như một số
nước Ả-rập giàu có giờ đây đã hiểu, bạn không thể đến siêu thị và mua một đội
quân thiện chiến.
Mùa hè năm 2017, người Trung Quốc đưa
tàu Liêu Ninh tới cảng Hồng Kông, đi cùng là hai tàu khu trục tên lửa dẫn đường,
một tàu chiến nhỏ với tên lửa dẫn đường và hai tàu hộ vệ cỡ nhỏ. Đó là thời điểm
tôn vinh chuyến thăm của Chủ tịch Tập Cận Bình - nhưng đồng thời đó cũng là một
lời nhắc nhở cho Hồng Kông, và cả thế giới, về việc ai là kẻ thực sự nắm quyền
kiểm soát Hồng Kông, và ai chủ định kiểm soát biển Đông một ngày gần đây.
Một vài tháng trước đó, Trung Quốc đã
hạ thủy tàu sân bay thứ hai của mình. Con tàu này có thể vượt biển, nhưng chưa
sẵn sàng tham gia chiến đấu. Tàu sân bay thứ ba dự định sẽ được xuất xưởng năm
2021. Người ta nghi ngờ việc con tàu này sẽ sử dụng năng lượng hạt nhân, và nó
thiếu một số năng lực của các tàu sân bay Hoa Kỳ; tuy nhiên, nó sẽ cho phép
Trung Quốc vươn xa hơn và có nhiều lựa chọn hơn.
Dần dần, Trung Quốc sẽ đưa ngày càng
nhiều tàu chiến ra các vùng biển ngoài khơi của họ, và ra Thái Bình Dương. Mỗi
lần thêm một tàu Trung Quốc được hạ thủy, Hoa Kỳ sẽ bớt đi một ít không gian
trên các vùng biến. Hoa Kỳ biết điều này, và biết Trung Quốc đang nỗ lực xây dựng
một hệ thống tên lửa đất đối hạm để nhân đôi lý do tại sao hải quân Hoa Kỳ, hay
bất kỳ đồng minh nào của họ, một ngày nào đó sẽ phải suy nghĩ kỹ về việc đi
ngang biển Đông. Hay đúng hơn, đi ngang bất kỳ vùng biển “Trung Hoa” nào khác.
Hỏa lực đất đối hạm ngày càng mạnh của Trung Quốc sẽ cho phép hải quân đang
phát triển của họ có thể mạo hiểm rời xa bờ biển hơn vì vai trò phòng thủ của hải
quân sẽ bớt quan trọng hơn. Một dấu hiệu về điều này đã xuất hiện vào tháng
Chín năm 2015 khi Trung Quốc cho năm tàu chiến đi qua (một cách hợp pháp) các
vùng lãnh hải của Hoa Kỳ ở ngoài khơi Alaska. Sự việc này xảy ra tại thời điểm
ngay trước chuyến thăm Hoa Kỳ của Chủ tịch Tập không phải là một sự trùng hợp
ngẫu nhiên. Eo biển Bering là con đường nhanh nhất để tàu chiến Trung Quốc đến
Bắc Băng Dương, và chúng ta sẽ còn thấy nhiều tàu Trung Quốc hơn ở ngoài khơi bờ
biển Alaska trong những năm tới. Trong khi đó, những dự án không gian đang trên
đà phát triển của Trung Quốc sẽ dõi theo mọi động thái của Hoa Kỳ và đồng minh.
Như vậy, sau khi đã đi theo chiều kim
đồng hồ quanh biên giới đất liền, giờ đây chúng ta nhìn về phía đại dương nằm ở
hướng đông, nam và tây nam.
Giữa Trung Quốc và Thái Bình Dương là
quần đảo mà Bắc Kinh gọi là “Chuỗi đảo thứ nhất” trong chiến lược Chuỗi ngọc
trai. Ngoài ra còn có tường Chín đoạn (đường lưỡi bò), gần đây đã trở thành mười
đoạn vào năm 2013 để bao gồm cả Đài Loan. Trung Quốc tuyên bố đây là đường đánh
dấu lãnh hải của mình. Cuộc tranh chấp về quyền sở hữu hơn 200 hòn đảo nhỏ và
những rạn san hô đang đầu độc mối quan hệ của Trung Quốc với các nước láng giềng.
Niềm tự hào dân tộc khiến Trung Quốc muốn kiểm soát hành lang xuyên qua chuỗi đảo
này; còn địa chính trị bắt họ phải làm như vậy. Sự kiểm soát này giúp họ tiếp cận
các tuyến vận tải đường biển quan trọng nhất thế giới trên biển Đông. Trong thời
bình, tuyến đường này được để mở ở nhiều vị trí khác nhau, nhưng trong thời chiến,
chúng có thể dễ dàng bị chặn lại, do đó phong tỏa Trung Quốc. Tất cả các cường
quốc đều tận dụng thời gian hòa bình để chuẩn bị cho thời điểm chiến tranh nổ
ra.
Thông lộ ra Thái Bình Dương bị cản trở
trước hết bởi Nhật Bản. Tàu Trung Quốc xuất phát từ biển Hoàng Hải và vòng qua
bán đảo Triều Tiên sẽ phải băng qua biến Nhật Bản và ngược lên để vượt qua eo
biển La Perouse phía trên Hokkaido rồi đi vào Thái Bình Dương. Phần lớn vùng biển
này thuộc lãnh hải của Nhật Bản hoặc Nga, và vào thời điểm căng thẳng chính trị
lên cao, hệ thậm chí là có chiến sự, Trung Quốc sẽ không thể tiếp cận được,
Nhưng kể cả khi làm được điều đó, họ vẫn phải bẻ lái qua quần đảo Kuril ở phía
đông bắc của Hokkaido, nằm dưới quyền kiểm soát của Nga nhưng Nhật Bản cũng
đang đòi quyền sở hữu.
Nhật bản còn tranh chấp với Trung Quốc
về chuỗi đảo không có người ở mà họ gọi là Senkaku và người Trung Quốc gọi là
Điếu Ngư, nằm ở phía đông bắc Đài Loan. Đây là vấn đề gây bất đồng lớn nhất
trong tất cả các tuyên bố về chủ quyền lãnh thổ giữa hai nước. Thay vào đó, nếu
tàu Trung Quốc đi qua, hoặc thực ra là rời cảng, từ biển Hoa Đông ngoài khơi
Thượng Hải và đi theo một đường thẳng ra Thái Bình Dương, thì họ phải vượt qua
quần đảo Ryukyu, bao gồm Okinawa - nơi không chỉ có một căn cứ quân sự khổng lồ
của Hoa Kỳ, mà còn một số lượng cực nhiều tên lửa đất đối hạm mà người Nhật có
thể bố trí dày đặc tại mũi đất của hòn đảo này. Thông điệp từ Tokyo là: “Chúng
tôi biết các anh đang đi ngang ngoài kia, nhưng đừng làm phiền chúng tôi trên
đường ra.
Một mồi lửa tiềm tàng nữa cũng có nguy
cơ bùng nổ, với việc Nhật Bản tập trung vào các mỏ khí đốt ở biển Hoa Đông. Bắc
Kinh đã tuyên bố một “Vùng nhận dạng phòng không“ bao trùm hầu hết vùng biển
này, yêu cầu bất kỳ ai cũng phải thông báo trước khi bay qua nó. Hoa Kỳ và Nhật
đang cố phớt lờ tuyên bố này, nhưng nó sẽ trở thành một vấn đề nóng bỏng vào một
thời điểm nào đó mà Bắc Kinh lựa chọn, hoặc khi có một sự cố bị xử lý sai lầm.
Bên dưới Okinawa là Đài Loan, nằm
ngoài khơi bờ biển Trung Quốc và tách biển Hoa Đông ra khỏi biển Đông (mà Trung
Quốc gọi là biển Hoa Nam). Trung Quốc tuyên bố Đài Loan là tỉnh thứ hai mươi ba
của mình, nhưng hiện tại Đài Loan là một đồng minh của Hoa Kỳ với lực lượng hải
quân và không quân được Washington trang bị đến tận răng. Đài Loan thuộc quyền
kiểm soát của người Trung Hoa từ thế kỷ 17, nhưng chỉ bị cai trị bởi Trung Quốc
trong 5 năm ở thế kỷ trước (từ năm 1945 đến năm 1949).
Tên chính thức của Đài Loan là Cộng
hòa Trung Hoa (ROC), để phân biệt nó với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, mặc dù cả
hai bên đều tin rằng họ phải có quyền quản hạt đối với cả hai vùng lãnh thổ.
Đây là một tên gọi mà Bắc Kinh có thể chấp nhận được vì nó không tuyên xưng Đài
Loan là một quốc gia riêng biệt. Hoa Kỳ cam kết bảo vệ Đài Loan trong trường hợp
Trung Quốc xâm lược, chiếu theo Đạo luật Quan hệ Đài Loan năm 1979. Tuy nhiên,
nếu Đài Loan tuyên bố độc lập hoàn toàn với Trung Quốc, điều mà Trung Quốc sẽ
coi như một hành động chiến tranh, thì Hoa Kỳ không bắt buộc phải đến giải cứu
Đài Loan, vì động thái tuyên bố độc lập sẽ bị coi là một sự khiêu khích.
Chính phủ hai bên ganh đua quyết liệt
để giành sự công nhận cho chính mình và sự phủ nhận cho phía bên kia ở mỗi một
quốc gia trên thế giới, và trong hầu hết các trường hợp Bắc Kinh là bên chiến
thắng. Khi bạn có một thị trường tiềm năng 1,4 tỷ người để mời chào so với thị
trường 23 triệu người của đối thủ, thì hầu hết các quốc gia không phải cân nhắc
quá lâu. Tuy nhiên có hai mươi quốc gia (chủ yếu là các quốc gia đang phát triển
như Swaziland, Burkina Faso và các đảo São Tomé và Príncipe) lựa chọn Đài Loan,
và thường được tưởng thưởng hào phóng.
Trung Quốc quyết tâm phải có được Đài
Loan, nhưng còn lâu mới đủ khả năng thách thức nó về mặt quân sự. Thay vào đó,
họ đang sử dụng sức mạnh mềm, bằng cách tăng cường thương mại và du lịch giữa
hai thể chế. Trung Quốc muốn lôi kéo Đài Loan trở lại vòng tay của mình. Vào thời
điểm diễn ra cuộc biểu tình sinh viên năm 2014 tại Hồng Kông, một trong những
lý do khiến giới chức trách không lập tức đánh họ văng khỏi đường phố - như họ
đã làm tại Urumqi chẳng hạn - là do ống kính máy quay của toàn thế giới đang
chĩa vào đó và sẽ thu được những cảnh bạo lực. Ở Trung Quốc, phần lớn những thước
phim này sẽ bị kiểm duyệt, nhưng ở Đài Loan, người dân sẽ thấy những gì cả thế
giới đã thấy và họ sẽ tự hỏi mình muốn một mối quan hệ gần gũi đến mức nào với
một thế lực như vậy. Bắc Kinh do dự; họ đang chơi trò chơi dài hạn.
Cách tiếp cận bằng quyền lực mềm nghĩa
là thuyết phục người dân Đài Loan rằng họ không có gì phải sợ khi trở về với “Đất
mẹ”. Vùng Nhận dạng Phòng không, việc cho tàu ngầm nổi lên gần tàu Hoa Kỳ và việc
xây dựng lực lượng hải quân đều nằm trong một kế hoạch dài hạn nhằm làm suy yếu
quyết tâm của Hoa Kỳ hòng bảo vệ một hòn đảo cách 140 dặm ngoài khơi Trung Quốc
đại lục, nhưng cách vùng duyên hải phía tây của Hoa Kỳ tới 6.400 dặm.
Từ biển Đông, tàu Trung Quốc vẫn gặp
nhiều vấn đề, cho dù họ hướng đến Thái Bình Dương hay sang Ấn Độ Dương - vốn là
con đường vận chuyển hàng hải của thế giới cho mặt hàng khí đốt và dầu mỏ,
không có nó Trung Quốc sẽ sụp đổ.
Để đi về phía tây đến với các quốc gia
xuất khẩu năng lượng vùng vịnh Ba Tư, họ phải đi qua Việt Nam. Như chúng ta đã
lưu ý, Việt Nam gần đây đã bắt đầu thương lượng với Hoa Kỳ. Họ còn phải đi gần
Philippines, một đồng minh của Hoa Kỳ, trước khi cố gắng xuyên qua eo biển
Malacca nằm giữa Malaysia, Singapore và Indonesia, tất cả đều có quan hệ với
Hoa Kỳ về ngoại giao và quân sự. Eo biển này trải dài xấp xỉ năm trăm dặm và rộng
chưa đầy hai dặm ở nơi hẹp nhất của nó. Nó luôn luôn là một nút thắt - và Trung
Quốc vẫn luôn dễ bị mắc kẹt tại đó. Tất cả các quốc gia nằm dọc theo và ở gần
những ngả đường vào eo biển này đều lo ngại trước ưu thế áp đảo của Trung Quốc,
và hầu hết đều có tranh chấp lãnh thổ với Bắc Kinh.
Trung Quốc đòi chủ quyền gần như toàn
bộ biển Đông, và các nguồn cung cấp năng lượng được cho là năm dưới đáy vùng biển
này. Tuy nhiên, Malaysia, Đài Loan, Việt Nam, Philippines và Brunei cũng có những
tuyên bố chủ quyền chống lại Trung Quốc và chống lẫn nhau. Ví dụ, Philippines
và Trung Quốc tranh cãi gay gắt về Đá Vành Khăn, một rạn san hô lớn hình vòng
thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam trên biển Đông mà một ngày nào đó có thể
sẽ xứng với tên gọi của nó (tên tiếng Anh của Đá Vành Khăn là Mischief: mối
bất hòa). Mỗi rạn trong số hàng trăm rạn san hô đang tranh chấp, đôi khi chỉ
là một mỏm đá nhô lên khỏi mặt nước, cũng có thể biến thành một cuộc khủng hoảng
ngoại giao, bởi vì xung quanh mỗi mỏm đá là một tranh chấp tiềm tàng về khu vực
đánh cá, quyền thăm dò tài nguyên và chủ quyền lãnh thổ.
Để xúc tiến các mục tiêu của mình,
Trung Quốc sử dụng các phương pháp hút cát và bởi lấp để bắt đầu biến một loạt
các rạn và vòng san hô trong lãnh thổ tranh chấp thành các đảo nhỏ. Ví dụ, Đá
Chữ Thập thuộc quần đảo Trường 5a của Việt Nam hiện nay đã là một hòn đảo hoàn
chỉnh với một hải cảng và đường băng có thể tiếp nhận chiến đấu cơ phản lực,
giúp Trung Quốc kiểm soát không phận trong khu vực tốt hơn trước đây rất nhiều.
Một rạn san hô khác đã có các đơn vị pháo binh đóng quân tại đó.
Phát biểu vào mùa hè năm 2015, bộ trưởng
Quốc _ phòng Hoa Kỳ, Ash Carter nói, “Việc biến một mỏm - đá ngầm thành một sân
bay đơn giản không đem lại các quyền hạn về chủ quyền lãnh thổ cũng chẳng được
quyền cấp phép quản lý quá cảnh hàng không hoặc hàng hải quốc tế.“ Phát biểu
này được đưa ra chẳng bao lâu sau khi Trung Quốc tuyên bố đã chuyển tư thế quân
sự của mình trong khu vực, từ phòng thủ sang vừa tấn công vừa phòng thủ. Động
thái này nhấn mạnh ý định của Trung Quốc muốn làm kẻ thiết lập luật chơi trong
khu vực, và vì điều đó Trung Quốc phải nắm chắc các tuyến đường qua biển Đông,
cả vì mục đích xuất khẩu hàng hóa của mình ra thị trường thế giới, cũng như việc
nhập các mặt hàng thiết yếu vào Trung Quốc để chế tạo những hàng hóa xuất khẩu ấy
- trong đó có dầu mỏ, khí đốt và các kim loại quý - cho nên Trung Quốc không thể
để cho con đường này bị phong tỏa. Ngoại giao là một giải pháp; phát triển hải
quân là một giải pháp khác; nhưng giải pháp đảm bảo nhất vẫn là các đường ống dẫn,
đường bộ và hải cảng.
Về ngoại giao, Trung Quốc sẽ cố gắng
lôi kéo các quốc gia Đông Nam Á tách khỏi Hoa Kỳ bằng cả cây gậy và củ cà rốt.
Dùng quá nhiều gậy, các quốc gia này vẫn trông chờ vào sự bảo hộ đến từ bên kia
Thái Bình Dương.
Các bản đồ khu vực mà Trung Quốc hiện
đang in ra cho thấy họ coi gần như toàn bộ biển Đông là của họ. Đây là một
tuyên bố tỏ rõ ý định, được hậu thuẫn bằng các cuộc tuần tra hải quân hung hăng
và các tuyên bố chính thức. Bắc Kinh toan tính thay đổi cách suy nghĩ và hành xử
của Hoa Kỳ - liên tục thúc đẩy mưu đồ riêng của mình cho đến khi những kẻ cạnh
tranh với họ phải nhường bước. Nguy cơ mất mát ở đây chính là khái niệm về các
vùng biển quốc tế và quyền đi lại tự do trong thời bình; đó không phải là điều
các cường quốc khác dễ dàng từ bỏ.
Với ý nghĩ đó, Anh đã thông báo vào
mùa hè năm 2017 rằng một trong những sứ mệnh đầu tiên được thực hiện bởi hai
tàu sân bay mới của họ chính là một cuộc hành quân vì “quyền tự do hàng hải”
xuyên qua biển Đông. Bắc Kinh giữ một quan điểm rất mập mờ về điều này, dù đây
được coi là một hành động khiêu khích, và điều đáng chú ý là người Anh đã không
nói cụ thể khi nào họ sẽ bắt đầu cuộc hành quân.
Tác giả địa chính trị Robert Kaplan đã
dẫn giải lý thuyết cho rằng biển Đông đối với Trung Quốc trong thế kỷ 21 cũng
tương tự vùng Caribe đối với Hoa Kỳ vào đầu thế kỷ 20. Hoa Kỳ đã củng cố khối đại
lục của họ, trở thành một cường quốc trên hai đại dương (Đại Tây Dương và Thái
Bình Dương), và sau đó tiến tới kiểm soát các vùng biển xung quanh, đẩy Tây Ban
Nha ra khỏi Cuba.
Trung Quốc cũng có ý định trở thành cường
quốc hai đại dương (Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương). Để đạt được điều này,
Trung Quốc đang đầu tư vào các cảng nước nước sâu ở Miến Điện, Bangladesh,
Pakistan và Sri Lanka - những khoản đầu tư mang lại cho họ các mối quan hệ tốt,
mang lại cho hải quân tương lai của họ khả năng có được các căn cứ thân thiện để
ghé qua hoặc trú đóng, và các mối làm ăn thương mại bắc cầu trở lại quê nhà.
Các cảng tại Ấn Độ Dương và vịnh
Bengal là một phần của kế hoạch lớn hơn để đảm bảo tương lai của Trung Quốc. Việc
thuê cảng nước sâu mới tại Gwadar, Pakistan, sẽ là chìa khóa (nếu khu vực
Baluchistan của Pakistan đủ ổn định) để tạo ra một tuyến đường bộ thay thế dẫn
tới Trung Quốc. Từ bờ biển phía tây của Miến Điện, Trung Quốc đã xây dựng các
đường ống dẫn khí thiên nhiên và dầu mỏ nối vịnh Bengal với vùng Tây Nam Trung
Quốc - một biện pháp của Trung Quốc nhằm giảm bớt sự phụ thuộc đáng quan ngại
vào eo biển Malacca, nơi gần 80% nguồn cung cấp năng lượng của họ được vận chuyển
qua. ĐIều này phần nào giải thích lý do tại sao, khi Miến Điện bắt đầu từng bước
mở cửa ra thế giới bên ngoài vào năm 2010, Trung Quốc không phải là kẻ duy nhất
đắp con đường đến tận cửa nhà họ. Hoa Kỳ và Nhật Bản nhanh chóng thiết lập những
quan hệ tốt hơn và cả Tổng thống Obama lẫn Thủ tướng Abe đều đích thân đến thăm
Miến Điện để bày tỏ sự tôn trọng. Chính quyền Trump nói rằng họ không muốn bị
vướng vào những chuyện mạo hiểm ở nước ngoài, nhưng trò đôi co ở Miến Điện
không phải là một trò mạo hiểm, đó là một chiến lược dài hạn. Nếu Hoa Kỳ có thể
gây ảnh hưởng đến Miến Điện, điều đó góp phần chặn đứng Trung Quốc. Cho đến
nay, Trung Quốc đang thắng trong ván cờ đặc biệt này trên bàn cờ toàn cầu,
nhưng Hoa Kỳ vẫn có khả năng giành ưu thế chừng nào chính quyền Miến Điện còn
tin rằng Washington sẽ đứng về phía họ.
Trung Quốc cũng đang xây dựng các cảng
ở Kenya, các tuyến đường sắt ở Angola và một đập thủy điện ở Ethiopia. Họ đang
lùng sục suốt chiều dài và chiều rộng của toàn bộ châu Phi để vơ vét khoáng sản
và kim loại quý.
Các công ty và công nhân Trung Quốc
tràn đi khắp thế giới; dần dần quân đội Trung Quốc sẽ theo sau. Quyền lực lớn dẫn
đến trách nhiệm lớn. Trung Quốc sẽ không để mặc các tuyến đường biển trong khu
vực của mình cho Hoa Kỳ kiểm soát. Sẽ có những sự kiện đòi hỏi Trung Quốc phải
hành động ở bên ngoài khu vực của mình. Thiên tai hoặc một vụ khủng bố/bắt con
tin liên quan đến một số lượng lớn công nhân Trung Quốc sẽ đòi hỏi Trung Quốc
phải hành động, và việc đó tất sẽ dẫn đến việc thiết lập các căn cứ ở hải ngoại,
hoặc ít nhất là sự chấp thuận từ các quốc gia khác cho phép Trung Quốc đi qua
lãnh thổ của họ. Hiện có hàng chục triệu người Trung Quốc trên khắp thế giới,
trong một số trường hợp họ lưu trú trong những khu nhà tập thể liên hợp khổng lồ
dành cho công nhân ở nhiều vùng của châu Phi.
Trung Quốc sẽ phải phấn đấu để trở nên
nhanh nhạy trong thập niên tới. Họ hầu như không thể điều động trang thiết bị cứu
trợ của Quân đội Nhân dân trong công tác giải quyết hậu quả của trận động đất
tàn khốc năm 2008 tại Tứ Xuyên. Họ huy động được quân đội, nhưng không thể huy
động trang thiết bị của quân đội; việc di chuyển ra nước ngoài với
tốc độ cao còn là một thách thức lớn hơn nữa.
Điều này sẽ thay đổi. Trung Quốc không
bị áp lực hoặc bị thúc đẩy bởi vấn đề nhân quyền, xét về phương diện ngoại giao
hoặc kinh tế, trong các giao dịch với thế giới. Họ được an toàn trong biên giới
của mình trong khi căng sức chống lại các mối liên kết của “Chuỗi đảo thứ nhất”
trong Chuỗi ngọc trai, và hiện nay đang tự tin tiến ra toàn cầu. Nếu có thể
tránh được một cuộc xung đột nghiêm trọng với Nhật Bản hay Hoa Kỳ, khi ấy nguy
cơ thực sự duy nhất đối với Trung Quốc là chính bản thân họ.
Có 1,4 tỷ lý do tại sao Trung Quốc có
thể thành công, và 1,4 tỷ lý do tại sao Trung Quốc không thể vượt qua Hoa Kỳ để
trở thành thế lực lớn nhất trên thế giới. Một công cuộc đại suy thoái trong thập
niên 1930 có thể khiến Trung Quốc thụt lùi nhiều thập niên. Trung Quốc đã tự
khóa mình vào nền kinh tế toàn cầu. Nếu chúng ta không mua, họ sẽ không thể sản
xuất. Và nếu họ không sản xuất, sẽ xảy ra thất nghiệp hàng loạt. Nếu có sự thất
nghiệp hàng loạt và dài hạn, trong một thời đại khi người Trung Quốc là một dân
tộc sống chen chúc trong các khu đô thị, tình trạng bất ổn xã hội tất phải xảy
ra trên quy mô chưa từng thấy – giống như tất cả những thứ khác của Trung Quốc
hiện đại.
Chú thích
[←3] “Mùa xuân Ả-rập”
Có nhiều địa danh và danh từ liên quan
đến Arap (Arap Saudi, các nước Arap, Arap Sunni...), chúng tôi chọn cách phiên
âm của dịch giả, vốn là cách phiên âm cũ vẫn quen được sử dụng là Ả-rập (ví dụ
các nước Ả-rập Bắc Phi). [BT]
[←4]
Bạn đọc có thể tìm cuốn sách này của
tác giả đã được Nhã Nam phát hành, cuốn Phương Đông lướt ngoài cửa sổ.
[←5]
Tác giả mượn chữ Gà Sắt (Iron
Rooster) từ tên cuốn sách Riding the Iron Rooster của P.Theroux
đã nói ở trên.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét