Lâm Đại Ngọc |
Hồi 89.
Người
đâu vật còn đây, công tử làm bài từ;
Bóng
cung ngỡ là rắn, Tần Khanh đành tuyệt thực.
Phượng Thư vừa ngủ dậy đang bực mình, lại nghe a hoàn nói như vậy, giật mình vội vàng hỏi: Việc quan gì thế?
Cháu cũng không biết. Vừa rồi thấy người hầu trai ở cửa
trong vào, thưa có việc quan rất khẩn cấp, nên bà lớn bảo cháu đi tìm cậu Hai.
Phượng Thư nghe nói là việc trong bộ Công, mới hơi yên
tâm liền nói:
Em về thưa với bà, cậu Hai chiều hôm qua ra ngoài thành
có việc cần, đến nay vẫn chưa về, nên cho người tìm cậu Cả Trân thôi.
A hoàn vâng lời đi ra.
Một chốc Giả Trân đến, gặp người trong bộ, hỏi rõ ràng, rồi
vào nhà nói với Vương phu nhân:
Người trong bộ đến trình: Hôm qua Ty coi sông có tâu: Ở
miền Nam vỡ đê, ngập mất mấy phủ, châu, huyện, cần phải chi tiêu công quỹ, sửa
sang đê điều. Các quan trong bộ Công lại phải đi trông nom lo liệu. Vì thế
trong bộ cho người đến báo tin với ông lớn.
Nói xong Giả Trân lui ra. Giả Chính về, người nhà trình lại
tất cả. Từ đó cho đến mùa đông, ngày nào Giả Chính cũng bận việc quan. Nhờ vậy
việc học của Bảo Ngọc cũng hơi lỏng lẻo. Nhưng Bảo Ngọc cũng sợ Giả Chính biết,
nên thường thường vẫn phải tới trường, ngay cả chỗ Đại Ngọc cũng không mấy khi
đến.
Một hôm, vào trung tuần tháng mười. Bảo Ngọc ngủ dậy, đi
học. Trời bỗng trở lạnh, thấy Tập Nhân đã sắp sẵn một gói áo quần, nói với Bảo
Ngọc:
Hôm nay trời lạnh lắm, buổi sớm và buổi chiều phải mặc
cho ấm.
Nói xong, chị ta đem gói áo ra, chọn một chiếc cho Bảo Ngọc
mặc, lại gói một chiếc nữa, bảo a hoàn nhỏ đem giao cho Bồi Dính và dặn:
Trời lạnh, coi chừng sắp sẵn, để khi cậu cần mà thay. Bồi
Dính vâng lời, ôm lấy gói áo, theo Bảo Ngọc đi.
Bảo Ngọc đến trường đang làm bài, bỗng nghe gió thổi sột
soạt trên cửa sổ. Đại Nho nói: Tiết trời thay đổi rồi!
Ông ta mở cửa sổ ra xem thì thấy về phía tây bắc có đám
mây đen, đang bay về phía đông nam.
Bồi Dính chạy vào nói với Bảo Ngọc: Cậu ạ, trời lạnh rồi,
mặc thêm áo vào.
Bảo Ngọc gật đầu. Bồi Dính đem áo tới. Trông thấy áo, Bảo
Ngọc bỗng ngẩn người. Bọn học trò nhỏ đều chăm chú nhìn, thì ra cái áo ấy chính
là áo lông công năm trước Tình Văn đã mạng cho.
Bảo Ngọc nói: Tại sao lại mang cái áo ấy đến? Ai đưa cho
mày thế?
Các chị ở trong ấy gói đưa cho cháu đấy.
Ta không lạnh lắm, chưa mặc đâu, hãy gói lại thôi.
Giả Đại Nho tưởng là Bảo Ngọc thấy áo quí không dám mặc,
nên trong bụng cũng mừng là Bảo Ngọc biết tiết kiệm. Bồi Dính nói:
Cậu mặc lấy kẻo bị lạnh cháu lại mắc lỗi. Cậu thương cháu
với. Bảo Ngọc bất đắc dĩ phải mặc áo vào, rồi ngồi ngơ ngẩn.
Đại Nho tưởng Bảo Ngọc xem sách, nên cũng không chú ý. Đến
chiều tan học, Bảo Ngọc nói dối người mệt, xin phép nghỉ một ngày. Đại Nho nhiều
tuổi, ngày thường chỉ làm bạn với mấy đứa trẻ cho đỡ buồn, lại đau yếu luôn nên
bớt một cậu học trò cũng đỡ lo một tý. Vả lại ông ta cũng biết Giả Chính bận việc.
Giả mẫu thì nuông chiều cháu, cho nên thấy Bảo Ngọc xin nghỉ, liền gật đầu cho
ngay.
Bảo Ngọc chạy một mạch về nhà, vào chào Giả mẫu và Vương
phu nhân, cũng nói như vậy. Mọi người tất nhiên đều tin. Bảo Ngọc ngồi một chốc
rồi về trong vườn. Thấy bọn Tập Nhân, Bảo Ngọc không cười nói như mọi ngày, cứ
mặc cả áo nằm xuống giường. Tập Nhân nói:
Cơm chiều dọn rồi, cậu ăn ngay hay để lát nữa?
Tôi trong bụng không được khoan khoái, không ăn đâu. Các
chị ăn đi thôi.
Thế thì cậu cũng nên thay cái áo kia ra. Áo ấy không chịu
được giày vò như thế đâu.
Không cần thay.
Áo này là thứ mềm mỏng, mà cậu xem đấy, những đường kim
mũi chỉ thật là công phu, không nên giày vò như thế.
Bảo Ngọc nghe nói có lý liền thở dài một tiếng và nói:
Thế thì chị gói lại mà cất đi, từ nay tôi không mặc nữa
đâu.
Nói xong đứng dậy cởi áo ra. Tập Nhân định đến đỡ lấy thì
Bảo Ngọc đã gấp lại rồi. Tập Nhân nói:
Tại sao hôm nay cậu lại siêng năng cẩn thận như thế? Bảo
Ngọc không đáp, xếp áo xong rồi hỏi:
Cái gói áo này đâu rồi?
Xạ Nguyệt đưa cái gói lại để Bảo Ngọc tự gói lấy tử tế rồi
chị ta ngoảnh lại nháy mắt nhìn Tập Nhân mà cười.
Bảo Ngọc cũng không để ý, ngồi buồn rũ ra! Bỗng nghe tiếng
chuông đồng hồ lớn “keng keng” đánh mấy tiếng. Bảo Ngọc cúi đầu nhìn cái đồng hồ
nhỏ trong người thì đã chỉ đến khắc thứ hai đầu giờ Dậu rồi. Một lúc sau, bọn a
hoàn nhỏ thắp đèn lên. Tập Nhân nói:
Cậu không ăn cơm thì húp lấy nửa bát cháo nóng, đừng nhịn
như thế, nhịn đói sinh ốm lại làm tội chúng tôi. Bảo Ngọc lắc đầu nói:
Tôi không đói, ăn gắng vào lại càng khó chịu.
Đã thế thì cậu ngủ sớm đi.
Tập Nhân và Xạ Nguyệt buông màn giải nệm tử tế. Bảo Ngọc
nằm xuống nhưng cứ trằn trọc mãi không sao ngủ được. Đến gần sáng mới mơ màng
ngủ thiếp đi, chừng gần ăn xong bữa cơm thì lại tỉnh dậy. Lúc đó Tập Nhân và Xạ
Nguyệt đều đã dậy. Tập Nhân nói:
Đêm qua tôi nghe cậu cứ trằn trọc mãi đến tận canh năm,
tôi không dám hỏi. Sau đó tôi ngủ quên mất, không biết cậu có ngủ được không?
Tôi cũng ngủ được một lát, không biết tại sao lại thức dậy
liền.
Cậu xem có khó ở không?
Có gì đâu, nhưng chỉ thấy trong lòng buồn bực.
Thế thì hôm nay có học không?
Hôm qua tôi đã xin nghỉ một ngày. Tôi định đi chơi trong
vườn một hôm cho khuây khỏa, nhưng lại sợ lạnh. Chị bảo quét dọn một gian nhà,
bày một cái lư hương, để bút nghiên giấy mực ở đấy, rồi các chị cứ làm công việc
của mình, tôi phải ngồi yên một buổi mới được, đừng cho ai tới quấy rầy tôi.
Xạ Nguyệt đỡ lời:
Cậu cần yên tĩnh để làm bài, ai dám đến quấy rối nữa. Tập
Nhân nói:
Như thế cũng tốt, đỡ phải lạnh, ngồi yên một lát tâm thần
cũng thư thái đấy.
Nhưng cậu đã không muốn ăn cơm thì hôm nay định ăn gì nói
cho sơm sớm, để bảo nhà bếp làm.
Cái đó tùy thôi, đừng làm ồn lên, nhưng phải có mấy thứ
quả để vào trong nhà cho thơm.
Ở phòng nào hơn? Các phòng đều không được sạch sẽ, chỉ có
cái phòng trước kia chị Tình Văn ở, lâu nay bỏ không. Xem chừng còn sạch sẽ
hơn, nhưng hơi lạnh.
Không hề gì, đem lò sưởi vào đấy là được. Tập Nhân vâng lời.
Đang nói chuyện thì thấy a hoàn nhỏ mang đến một khay
trà, trong có một cái bát và một đôi đũa ngà. Nó đưa cho Xạ Nguyệt và nói:
Đây là chị Hoa bảo làm nên bà già ở nhà bếp đưa đến.
Xạ Nguyệt đỡ lấy, thấy một bát canh yến sào, liền hỏi Tập
Nhân:
Chị dặn họ làm đấy à?
Chiều qua cậu Hai không ăn cơm, lại trằn trọc suốt đêm,
sáng nay chắc là đói, cho nên tôi bảo bọn a hoàn nhỏ nói với nhà bếp làm đấy.
Tập Nhân vừa nói vừa gọi bọn a hoàn nhỏ dọn ra. Xạ Nguyệt
hầu cho Bảo Ngọc ăn và súc miệng xong, thấy Thu Văn chạy vào nói:
Phòng bên kia đã dọn xong, chờ một chốc than bén, cậu hãy
sang.
Bảo Ngọc gật đầu, nhưng trong lòng vẫn băn khoăn, không
buồn nói năng gì. Một lúc a hoàn nhỏ đến mời và nói:
Bút nghiên đều sắp đặt xong rồi. Bảo Ngọc gật đầu nói:
“Biết rồi”. Lại một a hoàn nhỏ vào nói:
Cơm sáng có rồi, cậu định ăn ở phòng nào?
Mang vào đây thôi, bày vẽ làm gì.
A hoàn nhỏ vâng lời đi ra. Một lúc cơm bưng lên. Bảo Ngọc
nói với Tập Nhân và Xạ Nguyệt:
Trong bụng tôi sao mà buồn bực thế? Ăn một mình sợ nuốt
không trôi. Hai chị cùng ngồi ăn với tôi có thể ngon miệng, tôi ăn được nhiều
cũng nên.
Xạ Nguyệt cười nói:
Đó là cậu cao hứng nói như thế chứ chúng tôi đâu dám. Tập
Nhân nói:
Thực ra thì cũng được, chúng ta đã nhiều lần ngồi chung uống
rượu với nhau. Có điều một đôi khi làm cậu đỡ buồn thì được chứ cứ thế mãi thì
còn ra thể thống gì nữa? Nói đoạn ba người ngồi xuống. Bảo Ngọc ngồi giữa, Tập
Nhân và Xạ Nguyệt ngồi hai bên, cùng ăn cơm. Ăn xong, a hoàn bưng trà súc miệng,
rồi dọn mâm đi. Bảo Ngọc tay bưng chén trà, lặng lẽ như nghĩ ngợi gì, lại ngồi
một lúc rồi hỏi:
Nhà bên kia dọn xong chưa? Xạ Nguyệt nói:
Đã nói xong rồi, bây giờ cậu lại còn hỏi.
Bảo Ngọc ngồi một lát rồi qua phòng bên kia, tự mình thắp
một nén hương, bày lên mấy thứ quả, bảo mọi người đi ra, đóng cửa lại. Bọn Tập
Nhân ở ngoài im lặng, không một tiếng động. Bảo Ngọc lấy ra một tờ hoa tiên đỏ,
miệng khấn mấy câu rồi cầm bút viết:
“Chủ nhân viện Di Hồng kính đôi giấy này để linh hồn chị
Tình biết. Chén chè nén hương, ngõ hầu tới hưởng!”
Từ rằng:
Cùng
sát cánh, tình khăng khít đôi ta,
Ngờ đâu
đất bằng nổi phong ba,
Cho
thân kia bỗng hóa hồn ma!
Cùng
ai chuyện đượm đà?
Nước
chảy xuôi lại quay ngược được a?
Cỏ hoài
mộng khó mong tìm được,
Áo
thúy vân còn khoác đây mà!
Lệ chảy
lòng xót xa!
Bảo Ngọc ngồi một lát rồi qua phòng bên kia, tự mình thắp một nén hương, bày lên mấy thứ quả, bảo mọi người đi ra, đóng cửa lại. Bọn Tập Nhân ở ngoài im lặng, không một tiếng động.
Viết xong Bảo Ngọc châm vào đầu nén hương đốt ngay và ngồi yên lặng chờ cho nén hương cháy hết mới mở cửa ra. Tập Nhân nói:
Sao cậu lại ra? Chắc buồn quá chứ gì? Bảo Ngọc cười, rồi
vờ nói:
Ban nãy trong lòng tôi thấy buồn phiền, mới tìm chỗ yên lặng
để ngồi một lúc. Nay đã đỡ rồi, nên ra ngoài dạo chơi đấy.
Nói xong đi một mạch đến quán Tiêu Tương, vừa đến sân đã
hỏi:
Cô Lâm có ở nhà không?
Tử Quyên ở trong hỏi: “Ai đấy?” Rồi vén rèm trông ra cười
nói:
Té ra cậu Bảo. Cô tôi ở trong nhà. Mời cậu vào chơi.
Bảo Ngọc cùng Tử Quyên đi vào. Đại Ngọc ngồi ở phòng
trong nói với ra:
Chị Quyên mời cậu Hai vào trong này ngồi.
Bảo Ngọc vào đến cửa phòng trong, thấy một đôi câu đối viết
trên giấy tím vẽ rồng mây bằng vàng:
Trăng
trong vẫn đó ngoài song biếc
Người
cũ còn đâu trên sử xanh.
Bảo Ngọc nhìn thấy, cười rồi đi vào, hỏi:
Cô em làm gì thế?
Đại Ngọc đứng dậy, bước ra mấy bước, cười nói:
Mời anh ngồi. Em đang viết kinh, còn hai hàng nữa thôi.
Chờ em viết xong sẽ nói chuyện.
Đoạn gọi Tuyết Nhạn pha trà.
Em cứ ngồi mà viết cho xong đi.
Bảo Ngọc vừa nói vừa ngắm nghía bức tranh treo giữa nhà vẽ
Hằng Nga có một người hầu gái; và một nàng tiên cũng có một người hầu gái bưng
một cái gì dài dài như cái bọc áo.
Ngoài hai vị tiên ra chỉ điểm xuyết đám mây, không có gì
khác. Lối vẽ hoàn toàn sơ sài giống lối phác họa của Lý Long Miên ngày xưa, bên
trên đề mấy chữ: “Đấu hàn đồ”43. Liền hỏi:
Bức tranh này có phải mới treo lên không?
Đại Ngọc nói:
Vâng. Hôm qua dọn dẹp nhà cửa, em chợt nhớ đến, mới lấy
ra treo lên đấy.
Tích ấy ở đâu ra?
Anh biết thừa, còn hỏi người ta.
Trong chốc lát, tôi chưa nghĩ ra. Cô nói cho tôi biết với.
Anh lại không nghe câu thơ: “Thanh Nữ, Tố Nga không sợ
rét; Dám đua vẻ đẹp trước trăng sương” à?
Ừ nhỉ! Cảnh này mới mẻ và nhã thật! Lúc này đem ra treo lại
càng hợp.
Nói đoạn chạy lại nhìn ngang nhìn dọc các nơi. Tuyết Nhạn
bưng trà đến. Bảo Ngọc uống trà. Chờ một chốc Đại Ngọc mới viết xong kinh, rồi
đứng dậy nói:
Xin lỗi.
Bảo Ngọc cười, nói:
Cô em vẫn giữ cái lối khách sáo ấy.
Cô tôi ở trong nhà.
Mời cậu vào chơi.
Bảo Ngọc nhìn kỹ thấy Đại Ngọc mặc cái áo lông thêu hoa, ngoài khoác cái khăn choàng bằng da cáo trắng, đầu búi tóc, cài chiếc trâm vàng, không cắm hoa, bên dưới mặc quần bông thêu, thật chẳng khác gì:
Cây
ngọc rỡ ràng phơi trước gió;
Sen
vàng thơm ngát nở bên sương.
Bảo Ngọc hỏi:
Hai ngày nay em có gảy đàn không?
Không, vì em viết kinh đã giá cả tay rồi, còn gảy đàn sao
được nữa.
Không gảy cũng được. Tôi nghĩ, đàn tuy là vật thanh cao,
nhưng không phải thứ hay ho gì. Xưa nay người ta gảy đàn sinh ra lo buồn oán giận,
chưa hề thấy ai gảy đàn mà được giàu sang sống lâu cả. Vả lại, muốn gảy thì phải
nhớ bản đàn, rất mất công. Theo tôi, em vốn đã yếu, đừng nên bận lòng về việc
đó.
Đại Ngọc nghe nói, nhoẻn miệng cười. Bảo Ngọc chỉ tay lên
vách, hỏi:
Có phải cái đàn này không? Sao mà ngắn thế?
Đàn này không phải ngắn đâu, vì khi em còn nhỏ, học gảy
các đàn khác đều không vừa tầm, nên làm riêng cái này. Tuy không phải là thứ gỗ
đồng khô sém đuôi44, nhưng các bộ phận hạc tiên, phượng vĩ phối hợp
rất chỉnh tề; long trì, nhạn túc45 cao thấp đúng cách thức. Anh
thử xem cái vằn gỗ46 có phải như lông trâu không? Vì thế cho
nên âm vận cũng trong trẻo.
Mấy hôm nay em có làm thơ không?
Từ khi lập thi xã tới nay em chẳng mấy khi làm.
Thôi, em đừng giấu tôi nữa, tôi nghe em hát câu gì… “Hoài
công lo lắng, sao bằng trăng giữa trời kia lòng trong trắng” phổ vào đàn nghe rất
réo rắt. Có phải thế không?
Anh ở đâu mà biết?
Hôm nọ tôi ở Lục Phong hiên qua đây, nghe em gảy, tôi sợ
làm gián đoạn, cho nên im lặng nghe một hồi rồi đi. Tôi đang muốn hỏi em: tại
sao đoạn trước đều bằng cả, mà đoạn sau lại bỗng chuyển sang trắc, là có ý gì?
Đấy là âm điệu tự nhiên trong đáy lòng người ta, làm thế
nào thì nó ra thế, chứ có nhất định sao được.
Thế à! Đáng tiếc tôi không phải là tri âm, nghe cũng uổng
thôi! Xưa nay tri âm dễ có mấy người?
Bảo Ngọc nghe xong biết lời nói của mình nông nổi quá lại
sợ chạnh lòng Đại Ngọc. Ngồi một chốc, Bảo Ngọc thấy trong lòng có nhiều câu muốn
nói, nhưng không biết nói gì. Về phần Đại Ngọc thì câu vừa rồi chẳng qua buột
miệng nói ra, nay nghĩ lại thấy có phần lãnh đạm quá, nên cũng ngồi im. Bảo Ngọc
đoán chừng Đại Ngọc nghi ngờ gì mình liền thẫn thờ đứng dậy nói:
Thôi, em hãy ngồi, tôi đến đằng cô Ba một tý.
Anh gặp cô Ba, nhờ hỏi thăm hộ tôi một tiếng. Bảo Ngọc nhận
lời rồi đi ra.
Đại Ngọc đưa ra đến cửa phòng rồi đi vào, buồn bực ngồi một
mình, nghĩ bụng: “Gần đây Bảo Ngọc nói chuyện nửa úp nửa mở, khi thân mật khi lạnh
lùng, không biết là ý tứ gì?”
Đại Ngọc đang ngồi nghĩ ngợi, thì thấy Tử Quyên chạy lại
nói:
Cô không viết kinh nữa à? Tôi cất bút nghiên đi nhé?
Tôi không viết nữa đâu. Chị cất đi thôi.
Nói xong cô ta chạy vào phòng, nằm trên giường suy nghĩ.
Tử Quyên vào hỏi:
Cô uống trà nhé?
Không uống đâu. Tôi nằm một tý. Chị ra ngoài thôi.
Tử Quyên vâng lời đi ra, thấy Tuyết Nhạn đang ngẩn người
đứng một mình ở đây. Tử Quyên lại gần hỏi:
Mày cũng đang có tâm sự gì phải không? Tuyến Nhạn nghe
nói, giật nảy mình nói:
Đừng làm ồn lên, hôm nay tôi nghe một câu chuyện, tôi nói
với chị, xem có lạ không? Nhưng chị đừng có nói với ai đấy!
Nói đến đó, Tuyết Nhạn hất hàm về phía trong nhà, ra hiệu,
rồi đi trước gật đầu bảo Tử Quyên theo ra. Đến phía thềm bên ngoài, Tuyết Nhạn
nói nhỏ:
Chị có nghe nói cậu Bảo hỏi vợ không? Tử Quyên nghe vậy
cũng giật mình, và hỏi:
Câu nói ấy ở đâu mà ra? Có lẽ không thật đâu.
Sao lại không thật? Ai cũng biết cả, chỉ chúng mình là
không nghe thấy thôi.
Mày nghe ở đâu thế?
Chị Thị Thư nói đấy. Nghe đâu là con quan phủ, gia tư
cũng giàu, người lại đẹp. Bỗng thấy Đại Ngọc ho một tiếng, hình như đã dậy. Tử
Quyên sợ Đại Ngọc nghe thấy, liền nắm lấy Tuyết Nhạn xua tay ra hiệu rồi trông
vào trong nhà. Thấy trong nhà vẫn im lặng. Tử Quyên lại khẽ hỏi nhỏ Tuyết Nhạn:
Thị Thư nói như thế nào?
Hôm trước cô bảo tôi đến cảm ơn cô Ba. Cô Ba đi đâu vắng,
chỉ có Thị Thư ở nhà. Chúng tôi ngồi nói chuyện, tình cờ nhắc đến chuyện cậu Bảo
hay nghịch ngợm. Chị ta nói: “Cậu Bảo chẳng biết rồi ra thế nào, chỉ biết chơi
đùa, không ra dáng người lớn. Đã dạm vợ rồi mà còn ngốc nghếch như thế”. Tôi hỏi
chị ta: “Có chắc chắn không?” Chị ta nói: “Chắc chắn rồi, ông Vương nào đó làm
mối. Ông Vương là bà con bên phủ Đông, cho nên không cần phải thăm dò, nói là
xong ngay”.
Tử Quyên cúi đầu nghĩ ngợi: “Chuyện này lạ thực!” Rồi lại
hỏi:
Tại sao trong nhà không thấy ai nói đến?
Thị Thư cũng nói, ý cụ cho rằng: nói lộ ra sợ cậu Bảo Ngọc
lại nghĩ vơ nghĩ vẩn cho nên không nhắc đến. Thị Thư nói với tôi rồi dặn đi dặn
lại, nhất thiết đừng nói lộ ra, để họ lại cho là mình bép xép.
Nói đến đó, Tuyết Nhạn lấy tay chỉ vào trong nhà:
Vì thế, trước mặt cô, tôi cũng không hề nhắc đến. Nay chị
hỏi không lẽ tôi giấu chị. Vừa nói đến đó thì nghe con vẹt bắt chước tiếng người,
gọi: “Cô về rồi, pha nước mau lên”. Tử Quyên và Tuyết Nhạn giật nẩy mình, ngoảnh
lại chẳng thấy có ai, liền mắng con vẹt mấy tiếng. Hai người vào nhà thì thấy Đại
Ngọc vừa ngồi xuống ghế, đang thở hổn hển.
Tử Quyên ân cần hỏi han. Đại Ngọc hỏi:
Hai chị đi đâu? Gọi không thấy người nào cả.
Nói đoạn, đi vào vật mình ngả lưng lên giường và bảo
buông màn. Tuyết Nhạn và Tử Quyên vâng lời đi ra. Hai người nghi ngờ là câu
chuyện vừa rồi, bị cô ta nghe được, chỉ còn cách là đừng nhắc nhở gì đến.
Ngờ đâu Đại Ngọc vốn đã sẵn một bầu tâm sự, lại nghe trộm
được câu chuyện của Tử Quyên và Tuyết Nhạn. Tuy nghe không rõ lắm, nhưng cũng
đã hiểu được bảy tám phần. Cô ta thấy hình như bị ai vứt xuống bể. Nghĩ trước,
nghĩ sau, thật là đúng như trong giấc chiêm bao ngày trước, muôn sầu nghìn tủi,
chất chứa trong lòng. Suy tính trước sau, chi bằng chết đi cho rảnh, để đừng
trông thấy cái chuyện bất ngờ, lại càng khó chịu. Cô ta lại nghĩ đến cảnh khổ của
mình không cha không mẹ và quyết định từ nay về sau hàng ngày mình cứ giày vò
thân mình, như thế một năm, năm bảy tháng, thế nào cũng thoát khỏi nợ đời. Đại
Ngọc định ý như thế, nên chăn cũng không đắp, áo cũng không mặc, cứ nhắm mắt lại
giả ngủ.
Tử Quyên và Tuyết Nhạn tới hầu mấy lần, không thấy Đại Ngọc
động đậy gì cả, lại không dám gọi. Bữa cơm chiều hôm ấy, Đại Ngọc cũng không
ăn. Sau khi lên đèn, Tử Quyên giở màn ra xem, thấy Đại Ngọc đã ngủ rồi; chăn, nệm
đều tụt xuống dưới chân.
Tử Quyên sợ cô ta lạnh, nhè nhẹ đắp chăn lên. Đại Ngọc cứ
nằm im, chờ Tử Quyên ra rồi lại tụt chăn xuống.
Tử Quyên hỏi Tuyết Nhạn: Câu chuyện vừa rồi thật hay giả
đấy?
Sao lại không thật?
Tại sao Thị Thư biết?
Vì Tiểu Hồng nghe bên nhà nói rồi thuật lại.
Lúc nãy chúng ta nói chuyện, không khéo cô nghe được thì
phải. Mày xem vẻ mặt cô vừa rồi, chắc không phải là tự nhiên mà thế. Từ nay về
sau, chúng ta đừng nhắc chuyện ấy nữa.
Nói xong, hai người cùng thu xếp định đi nghỉ. Tử Quyên
vào xem, thấy chăn nệm của Đại Ngọc tụt xuống, lại nhè nhẹ kéo lên.
Hôm sau, vừa hửng sáng, Đại Ngọc đã thức dậy, cũng không
gọi ai, chỉ một mình ngồi ngẩn người ra. Tử Quyên tỉnh dậy, thấy Đại Ngọc đã dậy
rồi, sợ hãi hỏi:
Sao cô dậy sớm thế?
Tôi ngủ sớm thì dậy sớm chứ sao đâu?
Tử Quyên vội vàng đứng dậy, đánh thức Tuyết Nhạn, hầu hạ
Đại Ngọc chải đầu rửa mặt.
Đại Ngọc soi gương, ngơ ngẩn nhìn mình. Nhìn một lúc, nước
mắt chảy ràn rụa, ướt đẫm khăn. Thật là:
Đem
bóng gầy này soi mặt nước;
Mình
thương tớ với, tớ thương mình.
Tử Quyên đứng một bên cũng không dám khuyên, sợ vô tình
làm Đại Ngọc thêm nhớ lại chuyện cũ. Một lát sau, Đại Ngọc chải đầu rửa mặt qua
loa, ngấn lệ trong mắt vẫn còn chưa ráo, lại ngồi một lát rồi gọi Tử Quyên:
Chị đốt hương lên.
Cô chẳng ngủ được mấy tý, đốt hương làm gì? Định viết
kinh phải không?
Đại Ngọc gật đầu, Tử Quyên nói:
Hôm nay cô dậy sớm quá, giờ lại viết kinh, e mệt đấy.
Sợ gì! Viết xong sớm chừng nào hay chừng ấy. Vả lại tôi
cũng không phải là thích viết kinh, chỉ là mượn công việc viết lách để giải buồn.
Sau này các chị thấy nét chữ của tôi cũng như thấy mặt tôi vậy.
Nói đến đó, nước mắt lại chảy ròng ròng.
Tử Quyên nghe đoạn, chẳng những không khuyên, lại cũng chảy
nước mắt, không nín được nữa. Đại Ngọc đã định sẵn chủ ý. Từ đó về sau, cố ý
giày vò thân mình, chẳng nghĩ gì đến cơm nước, ngày một yếu dần. Mỗi khi Bảo Ngọc
đi học về, cũng thường nhân lúc rảnh đến hỏi thăm. Nhưng Đại Ngọc biết mình đã
lớn, tuy có nhiều điều muốn nói nhưng không thể dùng tình tứ khêu gợi như khi
còn nhỏ, vì thế nỗi niềm tâm sự không thể nói ra. Bảo Ngọc muốn dùng lời nói thực
để an ủi, thì lại sợ Đại Ngọc đâm giận, bệnh càng thêm nặng. Hai người gặp mặt
nhau, chỉ dùng những lời khuôn sáo mà khuyên lơn an ủi, thật là: “thân quá hóa
sơ”.
Giả mẫu và Vương phu nhân thương yêu Đại Ngọc nhưng chỉ
biết mời thầy chữa bệnh và cho rằng đó là bệnh thường, biết sao được căn bệnh
trong đáy lòng cô ta. Bọn Tử Quyên tuy hiểu ý, cũng không dám nói. Từ đó Đại Ngọc
càng ngày càng yếu dần. Sau độ nửa tháng tỳ vị càng hư, cháo cũng không ăn được
nữa.
Hằng ngày nghe ai nói gì Đại Ngọc cứ tưởng như họ nói
chuyện Bảo Ngọc cưới vợ; thấy người trong viện Di Hồng không kể trên dưới đều
có vẻ lo liệu cho Bảo Ngọc cưới vợ. Tiết phu nhân đến thăm, Đại Ngọc không thấy
Bảo Thoa, lòng lại càng ngờ vực. Do đó càng không muốn để ai đến thăm cũng
không chịu uống thuốc, chỉ muốn mau chết. Trong khi mơ ngủ, Đại Ngọc thường
nghe như có người gọi “mợ Hai Bảo”. Trong lòng ngờ vực nên thấy gì cũng đâm
nghi ngờ. Hôm ấy, Đại Ngọc không ăn được nữa, cháo cũng không nuốt vào, chỉ còn
hơi thở thoi thóp chờ chết.
Chú thích.
[←43]
Bức tranh đua chịu rét.
[←44]
Ngày xưa Thái Ung thấy
người ta đốt gỗ cây đồng khô, ông biết là gỗ tốt có thể dùng làm đàn, liền xin
về làm một cây đàn; tiếng rất trong, nhưng đầu đuôi bị cháy sém, nên gọi là tiểu
vĩ cầm (đàn sém đuôi).
[←45]
Hạc tiên, phương vĩ,
long trì, nhạn túc, đều là những danh từ riêng dùng để chỉ các bộ phận trên cây
đàn.
[←46]
Vằn gỗ trên đàn, cái nào
như lông trâu là thứ đàn tốt.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét