Ngô Nguyệt Nương. Tranh Đới Đôn Bang
HỒI 100.
Giòng Tây Môn tuyệt tự
Chỉ ít ngày sau, vì không còn sự giúp đỡ của Kính Tế nữa, vợ chồng Đạo Quốc lại lâm cảnh túng thiếu, phải nhờ Trần Tam Nhị mời Hà quan nhân tới. Hà quan nhân thấy Lưu Nhị đã chết, mối hại ở địa phương không còn, nên lại tiếp tục lui tới với Vương thị.
Một hôm Hà quan nhân bảo vợ chồng Đạo
Quốc rằng:
– Con gái hai người đã vào phủ Thống
chế sống đời góa bụa rồi, nó cũng yên thân nó, bây giờ để tôi lo bán hết hàng
hóa tại đây rồi hai người theo về ở với tôi tại Hồ Châu, hơn là cứ ở đây lông
bông như thế này.
Đạo Quốc nói:
– Quan nhân đã có lòng đoái tưởng như
vậy thì còn gì bằng.
Ít hôm sau, Hà quan nhân bán hết hàng,
thuê thuyền đem vợ chồng Đạo Quốc về Hồ Châu.
Về phần Ái Thư, cùng Cát thị ở góa thủ
tiết thờ Kính Tế, hai người xưng hô với nhau là chị em, rất là tương đắc. Ngày
ngày hai người bầu bạn với Xuân Mai trong thời gian Thống chế xa nhà.
Thời gian thấm thoát trôi qua, Kim ca
nhi ngày một lớn.
Năm đó Kim ca nhi đã sáu tuổi, con gái
của Tôn Nhị nương cũng đã tám tuổi. Sinh hoạt trong nhà cứ bình thản êm đềm, nhờ
có hai đứa trẻ nên cũng không buồn thảm lắm. Xuân Mai thì đường đường là một bậc
mệnh phụ phu nhân, ăn ngon mặc đẹp, trân châu bảo ngọc kim ngân trong nhà không
thiếu thứ gì, chỉ phải sống đời cô độc chăn gối lạnh lùng.
Trong thời gian đó, Lý An chăm chỉ
trông coi mọi việc trong nhà, được Xuân Mai đem lòng để ý, vì Lý An cũng không
phải là người xấu xí, lại có công cứu Xuân Mai thoát khỏi bàn tay sát nhân của
Trương Thắng ngày trước.
Một đêm trời đông tháng giá, sau khi
tuần phòng quanh phủ, Lý An về ngủ tại phòng riêng, bỗng nghe có tiếng gõ cửa
nhè nhẹ, vội nhỏm dậy hỏi:
– Ai đó?
Chỉ nghe tiếng đàn bà nói nhỏ:
– Mở cửa mau đi.
Lý An bước ra mở cửa. Cánh cửa vừa hé
mở, một người đàn bà lách vội vào. Lý An quay lại vặn đèn lớn lên, nhận ra nhũ
mẫu Kim Quỹ, bèn hỏi:
– Chị tới đây giờ này có chuyện gì vậy?
Kim Quỹ đáp:
– Không phải tôi tự ý đến mà là phu
nhân sai đến.
Lý An lại hỏi:
– Phu nhân cần dạy bảo chuyện gì?
Kim Quỹ cười:
– Làm sao anh biết được, phu nhân sai
tôi đến đây xem anh đã ngủ chưa để cho anh cái này.
Nói xong lấy ra một bộ quần áo, nói tiếp:
– Đây là mấy bộ quần áo đàn ông và đàn
bà, phu nhân bảo đem thưởng cho anh và mẹ anh, để gọi là đền công anh đã chở
kim ngân từ Tế Nam về, lại để cảm tạ anh đã cứu phu nhân, nếu không có anh thì
phu nhân đã bị Trương Thắng hại rồi.
Để mấy bộ quần áo lên bàn, Kim Quý nói
tiếp:
– Mà còn chuyện này nữa, chút nữa thì
quên.
Nói xong lấy ra năm lạng bạc Nguyên Bảo
sang chói đưa cho Lý An rồi vội vã bước ra.
Lý An tự nhiên được tiền bạc quần áo
thì cứ ngẩn ngơ chẳng hiểu tại sao.
Sáng sớm hôm sau, Lý An đem các thứ về
nhà đưa cho mẹ. Mẹ hỏi:
– Ở đâu mà ra vậy?
Lý An kể lại chuyện đêm qua. Người mẹ
nghe xong dậm chân kêu khổ mà bảo:
– Ngày trước thằng Trương Thắng vì làm
chuyện này nọ mà bị đánh tới chết. Nay ngươi có hiểu ý phu nhân khi cho người
những thứ này không? Ta nay ngoài sáu mươi tuổi rồi, từ khi cha ngươi qua đời,
ta chỉ lo lắng săn sóc cho ngươi, nay nếu ngươi chạm vào chuyện tội lỗi gì thân
già ta biết nương tựa vào đâu. Bây giờ ngươi ở nhà đi, đừng vào phủ nữa.
Lý An chợt hiểu ra, nhưng hỏi lại:
– Con không vào phủ thì phu nhân cho
người tới gọi, biết làm sao?
Bà mẹ nói:
– Ngươi cứ trả lời là ta bị cảm hàn,
ngươi phải ở nhà săn sóc ta ít hôm.
Lý An nói:
– Nhưng sớm muộn gì cũng lại phải vào
phủ, vả lại lỡ lão gia về, không thấy con thì biết ăn nói làm sao?
Bà mẹ bảo:
– Thì ngươi tạm đến ở với thúc thúc
ngươi là Sơn Đông Dạ Xoa Lý Quý ít tháng đi. Rồi xem sự thể ra sao sẽ tính sau.
Lý An vốn là người có hiếu, nghe mẹ
nói vậy thì chuẩn bị hành lý, ngay hôm đó tìm đến Thanh Châu ở với chú là Lý
Quý.
Xuân Mai thấy Lý An không vào phủ lo
việc thì năm lần bảy lượt sai gia nhân tới nhà hỏi. Bà mẹ lúc đầu nói là mình cảm
hàn, Lý An phải ở nhà săn sóc, sau thì nói là Lý An đã về quê quán làm ăn.
Xuân Mai vừa buồn vừa giận, nhưng
không biết làm sao.
Thời gian qua mau, thấm thoắt đã tới
thượng tuần tháng giêng, Chu Thống chế xa nhà đã lâu, liền sai Chu Trung đem
thư về, bảo Xuân Mai đem Tôn Nhị nương và hai đứa trẻ cùng gia nhân, xếp hành
lý lên xe tới cư ngụ tại phủ Đông Xương cho gần. Lại sai Chu Trung về quê gọi
người em của mình là Chu Tuyên tới coi nhà tại huyện Thanh Hà.
Sau đó Chu Trung cùng Chu Tuyên, Cát
thị và Ái Thư cùng một ít gia nhân ở lại phủ, còn Chu Nhân dẫn Xuân Mai, Tôn Nhị
nương, hai đứa trẻ và một số gia nhân lên đường tới phủ Đông Xương.
Dọc đường bình an. Tới nơi, Chu Thống
chế thân ra đón tiếp gia quyến. Thấy thê thiếp vợ con bao năm xa cách, Chu Thống
chế mừng rỡ khôn cùng, đem tất cả về cư ngụ tại công thự sau phủ Thống chế.
Xếp đặt xong xuôi, mọi người họp mặt uống
trà, Chu Nhân thưa lại mọi chuyện. A hoàn gia nhân lần lượt tới lạy chào. Chu
Thống chế hỏi:
– Lý An đâu, sao không thấy?
Xuân Mai đáp:
– Nhắc đến nó làm gì nữa, tôi thấy nó
có công cứu tôi thoát khỏi tay thằng Trương Thắng, lại có công tuần phòng canh
giữ phủ nên đối với nó rất tốt, cho tiền bạc quần áo để nó đem về cho mẹ nó.
Nào ngờ, mới đây nó lén vào trong hậu đường, có gói bạc năm chục lạng để trên
bàn, nó ăn trộm luôn rồi trốn đi. Tôi mấy lần sai gia nhân tới hỏi mẹ nó thì mới
đầu mẹ nó còn nói dối quanh, sau mới nói thật là nó trốn về quê ở Thanh Châu rồi.
Chu Thống chế bảo:
– Tôi cứ nghĩ là thằng đó trung thành,
không ngờ cũng là đứa phụ ân như vậy, để rồi thủng thẳng tôi sẽ cho người bắt
nó.
Hôm đó, Xuân Mai không nói tới vụ Hàn
Ái Thư.
Hôm sau, Xuân Mai lo trông coi gia
nhân sửa soạn lại nhà cửa, trang hoàng chỗ ăn ở cho hợp ý mình.
Liên tiếp mấy hôm nữa, Chu Thống chế
suốt ngày bận việc quân binh, bận rộn mệt nhọc quên cả ăn ngủ, ngày đêm không
được nghỉ ngơi, đến cả chuyện chăn gối cũng hững hờ. Xuân Mai thấy vậy buồn bực
lắm, vì được ở gần chồng mà cũng như không. Do đó Xuân Mai để ý tới người con
trai thứ của lão gia nhân Chu Trung là Chu Nghĩa, mới mười chín tuổi, mặt mũi
khôi ngô, mi thanh mục tú, liền tìm cách gần gũi mua chuộc rồi mắt qua mày lại,
giở trò quyến rũ. Chu Nghĩa trẻ tuổi hiếu sắc, toa rập với Xuân Mai làm chuyện
tồi bại. Chủ tớ lén lút tư thông. Xuân Mai thường gọi Chu Nghĩa vào phòng riêng
đánh cờ uống rượu, không cần che đậy, chỉ cần giấu một mình Chu Thống chế mà
thôi.
Sau đó ít lâu, Hoàng đế nước Đại Kim ở
phía Bắc diệt được nước Liêu, rồi đem đại binh theo hai đường sang quấy nhiễu
Trung Nguyên. Đại nguyên soái nước Kim là Niêm Một Hát đem mười vạn binh mã
theo đường Thái Nguyên tiến về Đông Kinh. Phó soái nước Đại Kim là Cán Ly Bất
theo đường Đàn Châu vào đánh phá ải Cao Dương. Binh mã biên phòng của Trung Quốc
không chống nổi. Binh bộ thượng thư Lý Cương và Đại tướng Chủng Sư Đạo hoảng
lên, phải ra lệnh cho quan binh tại Sơn Đông, Sơn Tây, Hà Nam, Hà Bắc, Quan
Đông ra Thiểm Tây phải cố sức phòng ngự.
Chu Thống chế được văn thư từ triều
đình, ra lệnh phòng ngự thì vội vàng chỉnh đốn nhân mã, tiến binh ra gần biên
giới. Nhưng chưa tới nơi thì đã nghe tin Phó soái nước Đại Kim là Cán Ly Bất hạ
ải Cao Dương, tướng sĩ triều đình tử trận vô số.
Lúc đó là vào thượng tuần tháng năm,
gió lốc mù mịt, cát bụi bay đầy trời. Chu Thống chế vẫn đem binh tiến đánh,
nhưng Cán Ly Bất phản công dũng mãnh. Chu Thống chế bị một mũi tên ghim trúng yết
hầu, ngã xuống ngựa mà tử trận. Các tướng bộ hạ thấy vậy xô tới cứu, bị quân
Kim dùng tên bắn ngã rất nhiều. Quan binh thiệt hại nặng nề, số tử trận và bị
thương không sao đếm hết.
Thương cho Chu Thống chế, phận tướng
tài một phút vong thân. Năm đó mới bốn mươi bảy tuổi.
Thật là:
Tôi trung tướng giỏi là đâu
Biên cương thân giãi, địa đầu máu
loang.
Tuần phủ Trương Thúc Dạ thấy Chu Thống
chế đã tử trận, thì lui binh về phủ Đông Xương cố thủ, kiểm điểm sĩ tốt rồi cấp
báo về triều.
Các tướng bộ hạ đem được tử thi Chu Thống
chế về phủ Đông Xương. Xuân Mai và toàn gia vật mình lăn khóc không thôi. Sau
đó mới lo việc tẩm liệm đồng thời trao trả binh phù ấn tín của chồng lại cho
triều đình.
Lễ nghi quân cách xong xuôi, Xuân Mai
cùng Chu Nhân và toàn gia đem linh cữu Chu Thống chế về huyện Thanh Hà làm đám
tang.
Lại nói về Cát thị và Hàn Ái Thư, từ
khi Xuân Mai tới phủ Đông Xương thì hai người ở nhà ăn uống thanh đạm, thủ tiết
thờ Kính Tế.
Một hôm vào tiết cuối xuân sơ hạ, trời
bắt đầu nóng nực, hai người tản bộ tới ngôi nhà mát ngoài hoa viên, gần thư
phòng, thấy trong vườn muôn hoa nở đẹp, trên cành oanh hót yến cười. Ái Thư thấy
cảnh xinh tươi, nghĩ tới người tình đã chết, bất giác rơi lệ, lòng đau như thắt.
Cát thị cũng không ngăn nổi bi thương.
Hai người đang ngồi ủ rũ sầu thương
thì Chu Tuyên em trai Chu Thống chế tới khuyên giải:
– Hai chị em đừng nên buồn rầu nữa,
chuyện gì qua rồi thì thôi, vì còn phải nghĩ tới chuyện hiện tại. Để tôi nói
chuyện này cho mà nghe. Luôn mấy hôm nay không hiểu sao cứ đêm nằm làm tôi mộng
mị toàn những chuyện chẳng lành. Đêm qua tôi lại mơ thấy một cây cung treo trên
cột cờ, cột cờ gãy làm đôi, không hiểu là điềm lành hay điềm dữ.
Ái Thư nói:
– Chắc nhị gia muốn nói tới việc chẳng
lành xảy ra cho lão gia ở biên cương phải không?
Ba người còn đang phân vân nghĩ ngợi
thì thấy lão gia nhân Chu Nhân mặc tang phục lật đật chạy vào lạy chào mà thưa:
– Tai họa lớn lắm, lão gia đã vị quốc
vong thân. Nguyên hồi thượng tuần tháng năm, vào ngày mồng bảy, lão gia tử trận
gần ải Cao Dương. Hiện phu nhân và toàn gia quyến đã đem linh cữu lão gia về tới.
Ba người sững sờ kinh ngạc. Chu Tuyên
vội sai phái gia nhận sắp đặt nhà cửa để nghênh tiếp linh cữu, bày bàn thờ tế lễ.
Toàn gia phục xuống mà kêu khóc. Chu
Tuyên sai mời các vị tăng tới lập đàn tụng niệm. Sau đó ít ngày thì chọn ngày tốt
an táng tại nghĩa địa tổ tiên.
Sau đó Chu Tuyên làm đơn về triều xin
cho Kim can nhi được tập chức của cha. Ít ngày sau, triều đình gửi sắc thư về.
Sắc thư viết:
“Binh bộ thấy cố Thống chế Chu Tú vong
thân báo quốc, chết vì việc quân vương, lòng trung dũng thật đáng khen thưởng,
do đó truy phong chức Đô đốc, con trai được nuôi dưỡng theo lệ cũ và được kế tập
chức tước của cha.”
Xuân Mai mừng lắm, quên cả tang chồng,
được yên về phần con, nên chỉ đêm ngày nghĩ chuyện dâm loạn vui thú. Chu Nghĩa
thường xuyên lui tới tư thông với Xuân Mai, nhiều khi bị Xuân Mai giữ chặt
trong phòng cả mấy ngày đêm.
Xuân Mai dâm dục quá độ, sinh bệnh mệt
mỏi, mới đầu uống thuốc, sau thì không ăn không ngủ được, thân thể gầy còm,
tinh thần hỗn loạn, nhưng tính dâm vẫn không bớt, Chu Nghĩa vẫn phải tận lực thỏa
mãn.
Chẳng bao lâu, vào đầu tháng sáu, Xuân
Mai từ trần[129]. Chu Nghĩa thấy Xuân Mai chết thì vội
mở rương lấy trộm nhiều kim ngân châu báu mà trốn đi. A hoàn và đám gia nhân
lúc đó mới thưa sự thật với Chu Tuyên. Chu Tuyên một mặt sai giam Chu Nhân lại,
một mặt sai gia nhân tìm kiếm Chu Nghĩa. Chu Nghĩa đang ẩn náu tại nhà cô ở ngoại
thành thì bị bắt trói đem về.
Chu Tuyên không muốn chuyện vỡ lở, sợ
tai tiếng, triều đình có thể không cho kim ca nhi kế tập chức tước của cha, bèn
cho dẫn Chu Nghĩa tới đại sảnh, không thèm hỏi han, ra lệnh đánh bốn chục trượng.
Thương cho Chu Nghĩa, không chịu nổi đau mà chết.
Sau khi cho chôn cất Chu Nghĩa, Chu
Tuyên cũng cho các nhũ mẫu và a hoàn như Hải Đường, Nguyệt Quế ra khỏi phủ. Cát
thị và Ái Thư khuyên can Chu Tuyên thế nào cũng không được.
Sau đó ít lâu, binh Đại Kim tiến vào
Đông Kinh. Thái thượng Hoàng đế và Tĩnh Khang Hoàng đế đều bị bắt về nước Kim.
Trung Nguyên vô chủ, trộm cướp giặc giã nổi lên như ong khắp nơi, dân gian điêu
linh không sao kể xiết. Binh Kim lại kéo nhau tới các tỉnh các huyện mà cướp
phá.
Khi binh Kim kéo tới tỉnh Sơn Đông, dân
trong tỉnh lũ lượt bồng bế nhau chạy giặc, cha mất con vợ mất chồng, kêu khóc
vang trời.
Cát thị được cha mẹ đem về, đưa đi trốn
nạn. Ái Thư không biết nương tựa vào đâu, nhưng cũng phải thu vén của cải và ít
quần áo rồi ra khỏi huyện Thanh Hà, đến bến Lâm Thanh định tìm cha mẹ. Nào ngờ
tới nơi thì tửu lầu của Tạ Tam đã đóng cửa im ỉm, hỏi thăm thì biết Tạ Tam đã bỏ
đi lánh nạn, may gặp Trần Tam Nhị. Tam Nhi bảo:
– Phụ mẫu của thư thư đã theo Hà quan
nhân về Hồ Châu từ trước rồi.
Ái Thư không biết làm sao, đành lang
thang trên đường về Hồ Châu tìm cha mẹ. Dọc đường, tiền bạc hết, Ái Thư phải ôm
cây đàn nguyệt, đàn hát rong ngoài đường để sống qua ngày. Đêm nghỉ ngày đi, khổ
cực trăm phần không sao nói hết.
Đi như vậy được mấy tháng thì tới Từ
Châu. Ái Thư thấy trời đã chiều, ghé vào một ngôi nhà xin tá túc. Một bà lão
khoảng thất tuần đang ở trong bếp nấu cơm, thấy vậy chạy ra. Ái Thư vái chào mà
nói:
– Cháu là người huyện Thanh Hà, vì loạn
lạc nên muốn đến Hồ Châu, đi ngang đây thì trời đã chiều, muốn xin tá túc lão
bà qua đêm, sáng mai sẽ xin đi sớm. Chuyện tiền bạc xin đưa đủ, không dám thiếu.
Bà lão ngắm nghía Ái Thư, thấy dung
nhan xinh đẹp, cử chỉ đoan trang ăn nói dịu dàng, không phải con nhà nghèo hèn,
bèn đáp:
– Nếu quả nương tử muốn nghỉ đỡ tại đây
đêm nay thì mời vào trong này ngồi nghỉ, lão còn phải lo làm cơm cho mấy người
lo việc vét sông tới ăn.
Nói xong thì thấy mấy người đàn ông
kéo vào, người nào cũng đội nón, đóng khố, chân tay mình mẩy bê bết bùn đất.
Đám người này hỏi:
– Lão nương đã có cơm cho chúng tôi
chưa?
Lão bà vội dọn cơm ra, gồm một thau
cơm, mấy đĩa đậu kho và vài món thức ăn đạm bạc, đoạn bảo:
– Xong xuôi rồi đấy, vào mà ăn đi.
Mấy người quây xung quanh mâm cơm mà
ăn uống ngon lành. Trong số có một người khoảng ngoài tứ tuần, mặt mũi hồng
hào. Người này thấy Ái Thư đang ngồi trong giường thì hỏi bà lão:
– Ai ngồi trong đó vậy?
Lão bà đáp:
– Nương tử đây là người huyện Thanh
Hà, đang trên đường tới Hồ Châu, đi ngang đây thì trời tối nên ghé đây tạm trú
qua đêm.
Người nọ hỏi Ái Thư:
– Chẳng hay quý tính nương tử là gì?
Ái Thư đáp:
– Tôi họ Hàn, cha tôi là Hàn Đạo Quốc.
Người này đứng vụt dậy, bước tới gần
mà nói:
– Cháu ơi, vậy cháu là Hàn Ái Thư,
cháu gái của ta phải không?
Ái Thư cũng vừa nhận ra, bèn hỏi lại:
– Còn thúc thúc đây là em của phụ thân cháu, tên là Hàn Nhị phải không?
Chú cháu cầm tay nhau mà khóc.
Lát sau Hàn Nhị mới hỏi:
– Thế bây giờ cha mẹ cháu đâu? Còn
cháu thì ở Đông Kinh cơ mà, sao lại lưu lạc tới đây?
Ái Thư gạt nước mắt kể lại đầu đuôi mọi
chuyện rồi nói thêm:
– Gần đây cháu về làm vợ một người
trong phủ Thủ bị, nhưng chồng chết, cháu ở góa thờ chồng. Trong khi đó thì cha
mẹ cháu theo Hà quan nhân tới Hồ Châu. Gặp cảnh loạn lạc hiện nay, tuy không ai
mong dẫn dắt, cháu vẫn một mình tìm đường tới Hồ Châu mong thấy lại mẹ cha. Dọc
đường cháu phải đàn hát rong để kiếm tiền độ nhật, không ngờ lại may mắn gặp
thúc thúc nơi đây.
Hàn Nhị nói:
– Từ khi cha mẹ cháu lên Đông Kinh với
cháu thì ta không kế sinh nhai, phải bán cả nhà cửa của cha mẹ cháu đi mà ăn, rồi
sau phải tìm đến nơi này làm phu vét sông, kiếm miếng cơm qua ngày. Bây giờ chú
cháu đã gặp nhau thì ta và cháu cùng tới Hồ Châu tìm cha mẹ cháu.
Ái Thư đáp:
– Nếu có thúc thúc cùng đi thì còn gì
bằng.
Hàn Nhị quay ra lấy một bát cơm và ít
thức ăn cho Ái Thư. Cơm gạo xấu, đồ ăn lại chẳng ra gì. Ái Thu cố lắm mới ăn được
nửa bát, rồi đi nghỉ.
Sáng sớm hôm sau, đám phu vét sông kéo
nhau đi làm việc. Hàn Nhị trả tiền trọ cho Ái Thư rồi chào lão bà, dắt Ái Thư
đi.
Ái Thư thân thể yếu đuối, sau mấy
tháng đi đường bộ đã hao mòn sức khỏe, nay còn chút ít tư trang, liền đem bán
đi, lấy tiền đáp thuyền, cùng Hàn Nhị tới Hồ Châu.
Thuyền đi ít ngày sau thì tới nơi. Chú
cháu dắt nhau lên bờ hỏi thăm nhà Hà quan nhân, không ngờ Hà quan nhân đã chết,
vợ chồng Hàn Đạo Quốc được hưởng ít của cải và vài mẫu ruộng mà sống. Sau đó ít
lâu thì Đạo Quốc cũng bệnh mà chết. Vương thị sống với đứa con gái sáu tuổi của
Hà quan nhân.
Hàn Nhị và Ái Thư hỏi thăm, tìm được tới
nhà Vương thị. Vương thị lúc trước vốn tư thông với Hàn Nhị, gặp lại, hai người
nối lại tình xưa, sống thành vợ chồng, lo làm ruộng mà sống.
Có một người con nhà hào phú ở Hồ
Châu, thấy Ái Thư có nhan sắc thì nhờ người tới cầu thân, nhưng Ái Thư nhất định
không chịu, quyết thủ tiết cùng Kính Tế. Hàn Nhị và Vương thị khuyên lơn ép buộc,
Ái Thư liền cắt tóc vào chùa làm ni cô. Đến năm ba mươi mốt tuổi thì bị bệnh mà
chết.
Thật là:
Sắc đẹp vùi sâu ba tấc đất
Hồn trinh bay bổng chín từng trời.
Lại nói binh mã Đại Kim tràn qua phủ
Đông Xương rồi tới huyện Thanh Hà, thì chỉ thấy cảnh điêu tàn hoang vắng, quan
lại dân gian lánh nạn hết, cửa thành mở toang, bốn bề lạnh lẽo. Rải rác đây đó
một vài tử thi hoặc sình thối hoặc khô đét của những người vô gia cư chết vì
đói. Đường phố hoang tàn, đồ đạc ngổn ngang. Những con chó đói, những con chuột
chạy lang thang ngoài đường kiếm ăn.
Một số gia đình không biết chạy đâu,
liền ở lại đóng cửa, sống nơm nớp qua ngày. Khi nghe tin quân Kim kéo tới, những
gia đình này hoảng lên, thu nhặt quần áo tư trang tìm đường chạy trốn.
Nguyệt nương cũng thu vén kim ngân
châu báu, giắt vào người.
Lúc đó thì Ngô Đại cữu đã chết vì bệnh,
chỉ có Ngô Nhị cữu, Đại An và Tiểu Ngọc, dẫn Hiếu ca nhi, năm đó đã mười lăm tuổi,
cùng Nguyệt nương định tới phủ Tế Nam nương nhờ Vân chỉ huy. Nhà cửa khóa hết cả
lại. Nguyệt nương định tới Tế Nam, một là để lánh nạn binh đao, hai là để lo
chuyện hôn nhân cho Hiếu ca nhi.
Dọc đường, chỉ thấy toàn người bồng bế
gánh gồng chạy loạn, người nào cũng kinh hoàng. Nhóm Nguyệt nương năm người
cũng đi lẫn vào đám người chạy loạn.
Đi tới một vùng hoang dã thì thấy một
vị hòa thượng, mặc áo cà sa, tay chống gậy, chân đi dép cỏ, vai đeo một túi vải,
từ xa tới, chặn Nguyệt nương lại, vái chào rồi lớn tiếng hỏi:
– Ngô nương tử đi đâu vậy? Trả đứa đồ
đệ này cho tôi chứ?
Vừa nói vừa chỉ Hiếu ca nhi. Nguyệt
nương thất sắc hỏi lại:
– Sư phụ bảo tôi trả đứa đồ đệ nào?
Sao có chuyện lạ vậy?
Vị hòa thượng nói:
– Xin nương tử đừng giả vờ không biết.
Hẳn nương tử còn nhớ mười lăm năm trước, nương tử bị tên Ân Thiên Tích lùng đuổi,
phải tới động của tôi ở ngọn núi phía Đông Đại Nhạc tá túc qua đêm. Tôi là Tuyết
động hòa thượng, pháp danh Phổ Tĩnh đây. Nương tử có hứa là cho tôi một đứa con
làm đồ đệ, sao bây giờ lại thất hứa?
Ngô nhị cữu đứng bên nói:
– Sư phụ là người tu hành, đức độ cao
thành, cũng thấy rằng thời buổi loạn ly này, thư thư tôi bỏ nhà cửa mà lánh nạn,
bên mình chỉ có mỗi đứa con trai, sau này còn mong nối dõi tông đường, lo việc
hương hoả, chẳng lẽ thư thư tôi lại chịu bỏ con, cho làm đồ đệ đi theo sư phụ
hay sao?
Hòa thượng hỏi Nguyệt nương:
– Có thật nương tử nhất định không cho
tôi tên đồ đệ này phải không?
Ngô nhị cữu bảo:
– Sư phụ à, xin đừng nói chuyện dông
dài mất thì giờ của chúng tôi, dùng dằng thế này, lỡ quân giặc đuổi tới đằng
sau thì sao?
Vị hoàng thượng nói:
– Bây giờ trời cũng chiều rồi, có đi
cũng chẳng được xa, binh Kim dù tới, cũng không đến nơi này, chi bằng mọi người
theo tôi về chùa gần đây nghỉ đỡ một đêm, rồi mai đi sớm cũng không sao.
Nguyệt nương hỏi:
– Sư phụ hiện trụ trì chùa nào vậy?
Vị hòa thượng lấy tay chỉ mà bảo:
– Chùa gần ngay đây thôi.
Nói xong dẫn mọi người tới chùa. Nguyệt
nhương nhận ra là chùa Vĩnh Phúc, đã có dịp đến một lần. Vào tới nơi, thấy cảnh
chùa hoang vắng, các hòa thượng bỏ đi gần hết, chỉ còn vài vị ở lại. Trên điện
Phật có mấy nén hương đang cháy, bên cạnh có ngọn đèn leo lét. Nhóm Nguyệt
nương năm người được mời, vào nghỉ trong phương trượng. Sa di đem ít cơm ra, mọi
người ăn qua loa đỡ bụng. Trong lúc đó, vị Phổ Tĩnh thiền sư gõ mõ tụng kinh.
Trời tối hẳn, Phổ Tĩnh thiền sư mời Nguyệt
nương, Tiểu Ngọc và Hiếu ca nhi vào ngủ trong trai phòng còn Ngô Nhị cữu và Đại
An thì ngủ ngoài phương trượng.
Một ngày đường mệt nhọc khiến mọi người
đặt lưng là ngủ, riêng Tiểu Ngọc ngủ không say, thỉnh thoảng lại trở mình trằn
trọc. Lát sau, Tiểu Ngọc trở dậy, trở ra phương trượng ngồi xem Phổ Tĩnh thiền
sư tụng kinh, Tiểu Ngọc cứ ngồi như thế cho đến canh ba. Bên ngoài trăng chiếu
lờ mờ, cảnh vật hoàn toàn tịch mịch. Trên điện Phật, ngọn đèn leo lét tỏa một
vùng sáng nhỏ nửa vàng nửa xanh.
Phổ Tĩnh thiền sư nhân buổi loạn ly,
quan binh dân chúng chết nhiều, kẻ thân phơi chiến địa, người xác bỏ dọc đường
thì động lòng từ bi, tụng một hơi một trăm thiên kinh giải oan để cầu cho các
vong hồn được siêu sinh tịnh độ.
Lát sau thì những cơn gió buốt thấu
xương theo nhau thổi tới, chập chờn trong gió như có hàng trăm hàng ngàn bóng
người, kẻ cụt đầu kẻ mất tay, người mất chân, vỡ trán, kéo nhau tới nghe kinh,
kẻ đứng người ngồi la liệt hai bên. Phổ Tĩnh thiền sư nói:
– Chúng sinh các ngươi chẳng qua là
oan oan tương báo, tuy chết đi cũng không thể giải thoát, nay hãy nghe ta để
vong hồn được siêu độ, nghe xong thì đi.
Nói xong đọc một bài kệ rằng:
“Khuyên người đừng tạo oan
Oan sâu không giải được
Oan sâu đã kết thành
Ngàn năm cũng khó giải
Nếu lấy oan giải oan
Như mặt trời tan tuyết
Nếu lấy oan báo oan
Đến bao giờ mới diệt
Những kẻ đã tọa oan
Sẽ bị oan đeo miết
Sám hối đi là vừa
Tỉnh ngộ sẽ thấu triệt
Nếu nghe theo lời ta
Oan kia tự nhiên hết
Nhờ kinh kệ lực thâm
Xoa tan giúp ác nghiệp
Các ngươi nếu thác sinh
Oan khiên chẳng nên kết.”
Đám oan hồn nghe xong đều lạy tạ mà
đi. Tiểu Ngọc ngồi im lặng, vừa sợ vừa nhìn khắp các oan hồn, nhưng không nhận
được ai. Lát sau có một người đàn ông thân hình cao lớn, mặt mũi tuấn tú, họng
dính mũi tên, bước vào:
– Ta là Thống chế Chu Tú, nhân giao
tranh với binh Kim mà tử trận, nay được sư phụ giải thoát, sẽ tới Đông Kinh,
thác sinh là con trai thứ ba của Trầm Trấn.
Lại thấy một thiếu phụ ôm bụng bước
vào, bụng đầy máu me mà nói:
– Tôi là vợ Võ Đại, họ Phan, sau làm
thiếp của Tây Môn Khánh, bất hạnh bị kẻ thù là Võ Tòng sát hại, nay được sư phụ
gia ân giải thoát, sẽ tới Đông Kinh làm con gái nhà họ Lê.
Lại thấy một thanh niên toàn thân đầy
máu bước vào nói:
– Tôi là Trần Kính Tế, lúc trước bị
Trương Thắng giết, nay nhờ sư phụ giải thoát, sẽ tới Đông Kinh, thác sinh là
con của nhà họ Vương.
Lại thấy một người đàn ông nhỏ bé, mặt
xanh như tàu lá bước vào nói:
– Tôi là Võ Đại, Vương bà xui Phan thị
dùng thuốc đầu độc tôi, nay được sư phụ giải thoát, sẽ tới Từ Châu làm con một
người nông dân họ Phạm.
Lại thấy một thiếu phụ mặt mày gầy gộc
võ vàng, quần bê bết máu, bước vào nói:
– Tôi là Lý thị, trước là vợ Hoa Tử
Hư, sau làm thiếp của Tây Môn Khánh, bị bệnh băng huyết mà chết, nay được sư phụ
giải thoát, sẽ lên Đông Kinh, thác sinh làm con gái của Viên Chỉ huy.
Lại thấy một người đàn ông bước vào
nói:
– Tôi là Hoa Tử Hư, bị vợ làm nổi giận,
mang bệnh mà chết, nay được sư phụ giải thoát, sẽ lên Đông Kinh, thác sinh làm
con của Trịnh thiên hộ.
Lại thấy một thiếu phụ cổ đeo dây thừng
bước vào nói:
– Tôi là Tống thị, vợ của Lai Vượng,
gia nhân trong nhà Tây Môn Khánh, tự ải mà chết, nay nhờ sư phụ giải thoát, sẽ
thác sinh làm con gái nhà họ Chu ở Đông Kinh.
Lại thấy một thiếu phụ mặt mày xanh
mét bước vào nói:
– Tôi là Bàng thị, vợ của Chu Thống chế,
vì dâm dục quá độ mà chết, nay được sư phụ giải thoát, sẽ thác sinh làm con gái
nhà họ Cự ở Đông Kinh.
Lại thấy một người đàn ông, quần áo tả
tơi, toàn thân nát bấy vì trượng, bước vào nói:
– Tôi là Trương Thắng, bị đánh trượng
chết, nay được sư phụ giải thoát sẽ thác sinh làm con của người nhà nghèo họ
Cao ở đường Đại Hưng Đông Kinh.
Lại thấy một thiếu phụ, quanh cổ có sợi
dây thừng bước vào nói:
– Tôi là Tôn Tuyết Nga, thiếp của Tây
Môn Khánh, tự ải mà chết, nay được sư phụ giải thoát sẽ lên ngoại ô Đông Kinh
làm con gái người nhà nghèo họ Đào.
Lại có một người con gái trẻ tuổi, bước
vào nói:
– Tôi là Tây Môn Đại thư, con gái của
Tây Môn Khánh, vợ của Trần Kính Tế, tự ải mà chết, nay được giải thoát, sẽ tới
làm con nhà họ Phan ở ngoại ô Đông Kinh.
Lại thấy một thanh niên mình đầy vết
trượng bước vào nói:
– Tôi là Chu Nghĩa, bị đánh trượng mà
chết, nay được giải thoát, sẽ thác sinh làm con nhà họ Cao ở ngoại ô Đông Kinh.
Mọi người nói xong thì vụt biến mất.
Tiểu Ngọc ngồi chết lặng, nghĩ thầm:
– Thì ra vị hòa thượng này nói chuyện
được cả với ma quỷ.
Nói xong vào trai phòng, định báo với
chủ. Trong khi đó Nguyệt nương giật mình thức dậy, kiểm điểm kim ngân, dắt kỹ
trong mình, rồi dắt gia quyến lên đường đi Tế Nam.
Tới nơi hỏi thăm đường tìm đến nha môn
của Vân Chỉ huy. Vân Chỉ huy lúc đó đã thăng chức Tham tướng. Vân Tham Tướng
nghe nói Nguyệt nương đem Hiếu ca nhi lại thì mừng rỡ ra nghênh tiếp. Cách đối
xử nồng hậu chẳng khác ngày xưa.
Chủ khách thi lễ xong ngồi uống trà
nói chuyện. Vân phu nhân bất hạnh đã qua đời cách nay không lâu. Do đó Vân Tham
tướng phải nhờ người hàng xóm là Vương bà sang tiếp đãi Nguyệt nương, mời vào hậu
đường dùng đại tiệc. Ngô Nhị cữu và Đại An được khoản đãi tại đại sảnh.
Tiệc xong, Nguyệt nương giao một số lớn
kim ngân tư trang cho Vân Tham tướng, gọi là làm lễ cầu thân cho con trai mình
với con gái tham tướng, theo lời ước lúc xưa. Vân Tham tướng nhận hết, nhưng
không đả động gì tới chuyện hôn nhân.
Tối hôm đó, Vân Tham tướng lại nhờ
Vương bà khoản đãi Nguyệt nương. Trong tiệc, Vương bà nói:
– Tham tướng đây chẳng may góa vợ,
nhưng là người hiền hậu lắm. Tuy là võ quan, nhưng cũng là người có học, từng đọc
sách thánh hiền, nên có đức độ của người quân tử. Ở đây chỉ là chức tham tướng,
nhưng trên thì lo việc vua, dưới thì lo việc dân, một tay nắm quyền sinh quyền
sát trong vùng. Nếu nương tử đây không chê thì duyên Tấn Tần sẵn đó, nương tử
cùng Tham tướng vui điều loan phụng, mà ca nhi cũng thành đôi lứa. Nương tử tạm
ở đây, chờ lúc thái bình trở về nhà cũ cũng không muộn. Chẳng hay tôn ý nương tử
thế nào?
Nguyệt nương nghe xong thì kinh ngạc
thất sắc, không nói được gì, mãi sau mới bảo:
– Tôi không biết phải nghĩ sao, chuyện
này cứ để đó đã.
Vương bà không nói gì thêm. Hôm sau
thưa lại với Vân tham tướng.
Tối hôm sau, Vân tham tướng thết tiệc
tại hậu đường, thân ngồi tiếp rượu mà nói:
– Tẩu tẩu không biết, tôi tuy là chức
quan nhỏ cai quản nơi xa, nhưng dưới tay cũng mấy vạn nhân mã, lại cũng không đến
nỗi thiếu thốn, kim ngân gấm lụa không thứ gì là không có, chỉ thiếu mỗi một
người làm chủ mọi việc trong nhà. Từ bao lâu nay, tôi chỉ tưởng nhớ tẩu tẩu như
người khát nước, như đại hạn mong mưa. Không ngờ ngày nay tẩu tẩu tới đây lo
chuyện hôn nhân cho lệnh lang, âu cũng là duyên trời đã định, việc con đã xong
mà chuyện mẹ cũng vuông tròn, mẹ con cùng ở lại đây sống sung sướng, chẳng hay
tẩu tẩu nghĩ thế nào?
Nguyệt nương nghe xong nổi giận tái sắc
mà mắng:
– Vân Lý Thủ, không ngờ ngươi mặt người
dạ thú. Chồng ta lúc sinh tiền chưa hề bạc đãi nhà ngươi, nay sao ngươi dám
buông lời vô lễ như vậy.
Vân Tham tướng không giận, trái lại
còn tươi cười nói:
– Xin nương tử bớt giận, linh vị lão
gia đã để ở nhà, nếu chung thủy với lão gia thì nương tử tìm tới đây làm gì?
Thú thật với nương tử, từ lúc gặp được lại nương tử, chiêm ngưỡng tôn nhan, hồn
vía tôi đã bay đâu mất, bây giờ tôi biết sao. Thôi thì nương tử nên suy nghĩ để
cho việc tốt lành được thành tựu.
Nói xong, lại rót rượu cung kính mà mời.
Nguyệt nương bảo:
– Nếu vậy thì đại quan phải cho mời em
trai tôi vào đây bàn chuyện.
Vân Tham tướng cười:
– Em trai nương tử và Đại An đã bị tôi
giết rồi.
Đoạn quát gia nhân:
– Đem cái đó vào đây cho nương tử coi.
Gia nhân đem vào một cái hộp gỗ, bên
trong đựng đầu của Ngô Nhị cữu và Đại An, máu me bê bết.
Nguyệt nương nhìn qua, thất kinh biến
sắc, rồi khóc ngất đi, ngã xuống đất. Vân tham tướng vội ôm dậy lay gọi mà bảo:
– Nàng đừng quá buồn phiền, em nàng đã
chết nhưng nàng sẽ trở thành vợ tôi. Tôi chẳng gì cũng là chức Tham tướng, có
gì là không xứng đáng với nàng đâu.
Nguyệt nương nghĩ thầm: “Thằng khốn
này nó đã hại em mình và gia nhân của mình, nếu mình không thuận theo nó tất
cũng bị nó giết...” Nghĩ vậy bèn làm mặt vui vẻ mà bảo:
– Nhưng nếu chàng nghe lời tôi thì tôi
mới chịu cùng chàng kết nghĩa vợ chồng.
Vân Tham tướng đáp:
– Chuyện gì tôi cũng xin nghe theo
nàng hết.
Nguyệt nương bảo:
– Chàng phải lo việc hôn nhân cho con
trai tôi xong đã.
Vân Tham tướng bảo:
– Chuyện đó dễ.
Đoạn cho gọi con gái là Vân tiểu thư
ra, bảo gặp mặt Hiếu ca nhi, rồi sai gia nhân dọn phòng hoa chúc cho hai trẻ
làm lễ hợp cẩn rồi động phòng ngay.
Sau đó Vân Tham tướng kéo Nguyệt nương
về phòng riêng của mình nài ép chuyện mây mưa. Nguyệt nương không chịu, giẫy giụa
cự tuyệt. Vân Tham tướng nhỏm dậy nổi giận mắng:
– À thì ra nàng lừa ta phải không? Nàng
để con gái ta thất thân với con trai nàng rồi nàng cự tuyệt ta. Nàng tưởng ta
không dám giết con trai nàng hay sao?
Nói xong đứng dậy với thanh kiếm treo
trên tường, xồng xộc chạy tới giết Hiếu ca nhi. Nguyệt nương chạy theo tới, thấy
con trai mình nằm chết giữa nhà, máu chảy lênh láng. Nguyệt nương thấy con đã
chết thì thất kinh kêu lên một tiếng. Ngờ đâu bừng tỉnh dậy, mới biết tất cả những
chuyện vừa rồi chỉ là cơn ác mộng, tức thì mồ hôi tháo ra như tắm, tứ chi bải
hoải, miệng lầm bầm:
– Lạ thật, lạ thật.
Tiểu Ngọc nằm cạnh thức dậy hỏi:
– Sao Đại nương giật mình kêu khóc vậy?
Nguyệt nương đáp:
– Ta vừa trải qua cơn ác mộng.
Đoạn kể lại đầu đuôi cho Tiểu Ngọc
nghe. Thì ra chủ tớ còn đang nằm trong trai phòng của chùa Vĩnh Phúc. Tiểu Ngọc
nghe xong nói:
– Hồi nãy tôi không ngủ, lén ra ngoài
phương trượng coi, thì thấy lão hòa thượng nói chuyện với ma quỷ. Hồi nãy Ngũ
nương, Lục nương, cậu Kính Tế, Chu Thủ bị, Tứ nương, vợ Lai Vượng, và Đại thư đều
có tới nói chuyện với hòa thượng, sau đó thì tất cả cùng biến mất.
Nguyệt nương bảo:
– Mấy người đó đều được mai táng sau
chùa này, đêm khuya yên tĩnh, hồn họ đi ra đi vào là chuyện thường.
Chủ tớ thì thầm trò chuyện, trong khi
bên ngoài gà gáy sáng, trời canh năm đã thấy tờ mờ. Nguyệt nương dậy rửa mặt chải
đầu rồi quần áo chỉnh tề vào lễ trước Phật đài, thắp hương khấn khứa.
Phổ Tĩnh thiền sư ngồi trên giường gần
đó cao giọng bảo:
– Ngô nương tử, bây giờ thì nương tử
đã tỉnh ngộ chưa?
Nguyệt nương vội bước tới trước giường
quỳ lạy mà nói:
– Bẩm với tôn sư, đệ tử là Ngô thị người
trần mắt thịt, không biết tôn sư là Phật sống, rõ cả giấc mộng vừa rồi của đệ tử.
Sau giấc mộng đó thì đệ tử đã tỉnh ngộ rồi.
Thiền sư bảo:
– Nếu đã tỉnh ngộ thì đừng đi đâu cả,
ngươi có đi thì cũng chỉ đến như giấc mơ hồi nãy mà thôi, nghĩa là cả năm người
đều có thể mất mạng. Con trai ngươi có phận có duyên nên mới gặp ta, ấy cũng là
nhờ ngươi bình nhật vẫn một lòng làm điều thiện, nếu không thì khó tránh khỏi cảnh
cốt nhục phân ly. Lúc người chồng ngươi là Tây Môn Khánh tạo ác gây tội, nên đứa
con này mới thác sinh vào gia đình ngươi để phá gia sản ngươi. Nay ta thấy vậy
nên mới thu nhận nó làm đồ đệ để độ thoát cho nó. Vả lại người đời có câu: “Một
đứa con xuất gia thì tổ tiên từ chín đời trở xuống cũng được thăng thiên”, cho
nên oan khiên của người chồng ngươi cũng nhờ đó mà tiêu tán. Nếu ngươi không
tin, theo ta ra đây, ta chỉ cho coi.
Nói xong, bước ra phương trượng. Hiếu
ca nhi đang nằm ngủ chưa dậy. Thiền sư cầm cây gậy chỉ vào Hiếu ca nhi, tức thì
Nguyệt nương và mọi người thấy Hiếu ca nhi lăn trở trên giường rồi đột nhiên biến
thành Tây Môn Khánh cổ đeo gông, chân tay bị xiềng xích, đang lăn lộn thê thảm.
Thiền sư chỉ đầu gật một cái, lại thấy Hiếu ca nhi đang nằm ngủ như cũ. Nguyệt
nương bất giác ôm mặt khóc lớn.
Thì ra Hiếu ca nhi chính là Tây Môn
Khánh thác sinh.
Lát sau Hiếu ca nhi thức dậy. Nguyệt
nương gọi con lại hỏi:
– Bây giờ ta muốn cho con theo sư phụ
đây làm đồ đệ để tu hành, con nghĩ sao?
Hiếu ca nhi thuận ngay.
Thiền sư đưa Hiếu ca nhi vào Phật đài
làm lễ, rồi cắt tóc cho. Hiếu ca nhi tỏ vẻ mừng rỡ lắm, không hề có vẻ buồn rầu
hối tiếc gì cả. Nguyệt nương thì buồn thảm khóc lóc khôn nguôi, kể lể rằng:
– Bao công lao mang nặng đẻ đau mới có
ngươi, lại chịu bao cực khổ nuôi ngươi khôn lớn, những mong ngươi nối dõi tông
đường, nào ngờ lại có ngày nay.
Ngô Nhị cữu, Tiểu Ngọc và Đại An cũng
không nén được xúc động.
Thiền sư đặt pháp danh cho Hiếu ca nhi là Minh Ngộ, bảo Minh Ngộ lạy từ mẹ và cậu, cáo biệt hai gia nhân, rồi theo mình đi.
Lúc sắp đi, Thiền sư dặn Nguyệt nương:
– Các ngươi đừng đi đâu cả, binh Kim
cũng sắp triệt thoái nay mai, rồi nam bắc sẽ chia làm hai triều đình, trung
nguyên cũng đã có hoàng đế rồi. Chỉ trong vòng mười ngày nữa, chuyện can qua sẽ
hết, địa phương sẽ trở lại yên tĩnh, các ngươi sẽ về nhà sống yên ổn như thường.
Nguyệt nương hỏi:
– Bẩm sư phụ, nay sư phụ dẫn con tôi
đi, vậy đến bao giờ mẹ con tôi lại được nhìn thấy mặt nhau?
Hỏi xong, không ngăn nổi bi thương, lại
ôm mặt khóc lớn.
Thiền sư bảo:
– Không việc gì phải khóc, có nín ngay
không? Kìa, binh Kim kéo đến rồi kìa.
Mọi người hốt hoảng quay nhìn ra
ngoài. Tức thì Phổ Tĩnh thiền sư cùng Minh Ngộ hóa thành trận gió mà đi, không
còn thấy bóng dáng đâu nữa.
Nguyệt nương cùng em trai và hai gia
nhân tạm trú tại chùa Vĩnh Phúc khoảng mười ngày, quả nhiên vua Đại Kim lập
Trương Bang Xương làm Hoàng đế tại Đông Kinh, lập thành triều đình có đủ văn võ
bá quan.
Còn Khang Vương vượt sông, tức vị tại
Kiến Khang, tức là Cao Tông Hoàng đế, phong Tòng Trạch làm đại tướng, lấy lại
được Sơn Đông Hà Bắc, lập thành Nam triều.
Thiên hạ trở lại thái bình, dân gian
trở về nghiệp cũ.
Nguyệt nương về nhà, kiểm điểm lại, thấy
đồ đạc nhà còn y nguyên, không mất mát gì.
Về sau Nguyệt nương đổi họ cho Đại An
thành Tây Môn An, hưởng sản nghiệp của chủ để thờ phụng chủ. Người trong huyện
gọi Đại An là Tây Môn Tiểu viên ngoại.
Nguyệt nương được hai vợ chồng Đại An
nuôi nấng phụng dưỡng tuổi già, hưởng thọ ngoài thất tuần, đó cũng là nhờ Nguyệt
nương bình sinh không phải là người dâm bôn, nên mới được hưởng phúc như vậy.
Có thơ rằng:
Sách xưa ý tứ mang mang
Cho hay là lẽ tuần hoàn cao xa.
Tây Môn tuyệt tự mới là
Còn Trần Kính Tế phải sa cực hình.
Nguyệt nương phúc thọ riêng mình
Bình, Mai dâm đãng, lênh đênh hoàng
tuyền.
Hung tàn báo lại Kim Liên
Dâm ô tiếng xấu bia truyền nghìn năm.
Chú thích.
[129] Theo
bản tiếng Anh, Chu Nghĩa vừa Xuân Mai quan hệ tình dục xong thì Xuân Mai lao lực
quá độ, chết ngay trên người Chu Nghĩa. Sự việc đột ngột khiến y hoảng loạn, vơ
lấy vài châu báu mà trốn đi. Bản lược cắt đi chi tiết này khiến độc giả không
rõ tại sao Chu Nghĩa phải trốn đi như vậy.
HẾT
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét