PHỤ LỤC
NHÌN LẠI QUÃNG ĐƯỜNG ĐÃ QUA
Năm nay tôi đã 69 tuổi,
đương thu xếp để về Long Xuyên, dự định từ sang năm sẽ nghỉ ngơi chấm dứt hẳn
công việc biên khảo, nếu có viết lách gì nữa thì cũng chỉ là chép ít hồi kí, ghi vài suy tư hoặc dịch ít trang sách. Vậy cuốn Kinh Dịch, đạo của người quân tử này là
tập biên khảo cuối cùng của tôi[130].
Nhớ lại trên năm chục năm trước, hồi tôi mới vào trường
Bưởi, mỗi vụ hè, Mẹ tôi cho tôi về Phương Khê (Sơn Tây) học thêm chữ Hán với
Bác Hai tôi[131] để “đọc gia phả bên nội ngoại” như Người nói, thì ngay Bác
tôi và tôi cũng cho sự học đó là một việc để tiêu khiển chớ không thể ngờ được
hoàn cảnh và thời cuộc khiến cho tôi vài chục năm sau thành một người nghiên
cứu về cổ học Trung Hoa.
Tôi học với Bác tôi được hai vụ hè, tổng cộng độ ba tháng,
biết được độ một ngàn chữ Hán rồi bỏ dở, một phần vì tôi mắc học thi, một phần
vì Bác tôi già rồi, không dạy học nữa. Số vốn ngàn chữ đó chưa dùng được vào
việc gì, nếu bỏ lâu chắc sẽ quên hết.
May sao, khoảng bốn năm sau, tôi ở trường Cao đẳng Công
chánh ra, phải đợi sáu tháng mới được bổ, không biết làm gì cho qua ngày, tôi
học lại chữ Hán. Lúc này tôi phải tự học trong bộ Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh và cuốn Grammaire Chinoise của Cordier, vì Bác tôi đã qui tiên, không còn
ai để chỉ dẫn cho tôi.
Học như vậy được bốn năm tháng, biết thêm chừng hai ngàn chữ
nữa, lõm bõm đọc xong được bộ Tam Quốc
Chí diễn nghĩa (có lời bình của Thánh Thán) thì được bổ vào làm việc trong
Nam.
Vì có nhiều thì giờ rảnh, tôi kiếm mua được một ít sách Hán:
Mạnh Tử, Luật Ngữ, Ẩm băng thất
của Lương Khải Siêu, Nam du tạp ức
của Hồ Thích, Cổ văn quan chỉ, vài
cuốn Văn Học sử Trung Quốc mò mẫm đọc lấy, chỗ nào không hiểu thì viết thư hỏi
Bác Ba tôi ở Đốc Vàng thượng, Long Xuyên.
Nhờ vậy tôi vỡ nghĩa lần lần và năm 1953, nhờ Bác Ba tôi
khuyến khích, hướng dẫn, tôi viết được bộ Đại
cương Văn học sử Trung Quốc, 3 cuốn. Bộ này tôi tự xuất bản năm 1955, biết
rằng có nhiều sơ sót, nên xin lỗi
trước độc giả và độc giả không ai nở trách mà còn cho là một tác phẩm đứng đắn,
hữu ích vì là cuốn đầu tiên bằng tiếng Việt viết về văn học Trung Quốc. Lần tái
bản tôi có sửa lại.
Hai năm sau, năm 1957, tôi viết cuốn: Nho giáo, một triết lí chính trị (tôi cũng tự xuất bản năm 1958).
Viết xong hai cuốn đó, tôi định bỏ hẳn khu vực cổ học Trung
Quốc mà soạn những sách về Việt Nam và phương Tây.
Nhưng thời cuộc khiến cho có cuộc di cư 1954, và nhờ cuộc di
cư đó mà tôi được quen ông Giản Chi NGUYỄN HỮU VĂN. Ông quê ở làng Cót (gần Hà
Nội), lớn hơn tôi sáu tuổi, hồi nhỏ học chữ Hán tới mười lăm tuổi, đậu bằng
Khóa sinh rồi mới chuyển qua học tiếng Pháp, nên sức học về chữ Hán vững hơn
tôi nhiều. Chúng tôi lần lần thân với nhau và năm 1962, tôi đề nghị với ông
viết chung bộ Đại Cương triết học Trung
Quốc, tài liệu do ông bạn TẠ TRỌNG HIỆP ở Paris tìm mua giùm cho. Ông nhận
lời, chúng tôi hăng hái bắt tay vào
việc ngay, chưa đầy hai năm thì xong, nhà Cảo Thơm in thành hai cuốn năm 1965
và 1966. Viết tuy mệt thật, nhưng càng đi sâu vào cổ học Trung Quốc tôi càng
thích, tôi liên tiếp cho ra:
Cổ Văn Trung Quốc – Tao Đàn 1966.
Chiến Quốc Sách – Viết chung với Giản Chi – Lá Bối 1968.
Văn học Trung Quốc hiện đại từ 1898 tới 1960: 2 cuốn, tôi tự xuất bản – 1969.
Sử Kí của Tư Mã Thiên,
viết chung với Giản Chi – Lá Bối 1970.
Tô Đông Pha –
Cảo thơm 1970.
Dịch Nhân sinh quan và Thơ văn Trung Hoa của Lâm Ngữ Đường. Ca Dao 1970.
Bộ Đại cương
Triết học Trung Quốc không sắp thành từng thời đại, từng
môn phái như đa số các sách viết về triết học, mà chia thành từng vấn đề. Chẳng
hạn về nhân sinh luận có những vấn đề tính, tâm, tình, dục, nhân nghĩa… mỗi vấn
đề chúng tôi xét theo thứ tự thời gian: mới đầu thời Tiên Tần, ai là người đặt
ra vấn đề, rồi tuần tự các triết gia đời sau bàn thêm về vấn đề đó ra sao, hoặc
sửa đổi, thêm bớt, hoặc phản đối hay dung hòa ý kiến của người trước.
Cách trình bày đó mới mẻ, ở Trung Hoa chúng tôi mới thấy có
Vũ Đồng trong bộ Trung Quốc Triết học đại
cương mà chúng tôi đã dùng làm tài liệu chính. Ở nước nhà, tác phẩm của
chúng tôi cũng nhờ tính cách mới mẻ
đó mà được độc giả hoan nghinh. Nhưng nó chỉ là một đại cương. Từ 1971, tôi
muốn nghiên cứu riêng về thời Tiên Tần, thời rực rỡ nhất trong lịch sử triết
học Trung Hoa, và định viết kĩ về mỗi triết gia chính, phân tích tư tưởng của
họ, dịch trọn hoặc gần trọn tác phẩm của họ.
Đã có sẵn một số tài liệu bằng tiếng Anh, tiếng Pháp, rồi
nhờ một bạn trẻ: Cô THIÊN MAI, sinh viên du
học ở Đài Bắc kiếm thêm cho tôi tất cả những sách bằng tiếng
Trung Hoa xuất bản ở Đài Loan, Hương Cảng.
Năm 1972, tôi viết xong:
Liệt Tử và Dương Tử – Lá Bối 1973.
Nhà giáo họ Khổng – Cảo Thơm 1972.
Năm 1974 xong ba cuốn nữa:
Mạnh Tử – Cảo Thơm đầu 1975.
Tuân Tử – viết chung
với Giản Chi – chưa kịp xuất bản thì chiến tranh chấm dứt, nước nhà được thống
nhất.
Trang Tử – chưa in,
cuốn này bắt đầu viết từ 1973.
Sau ngày giải phóng, mặc dầu biết loại sách này của chúng
tôi không thể xuất bản trong mười năm sắp tới được, tôi cũng vẫn tiếp tục thực
hiện cho xong chương trình đã hoạch định, rồi cứ để đó, không bao giờ in được
cũng không sao. Tôi viết vì tôi muốn học thêm, mà tôi muốn học thêm vì tôi
thích tinh thần nhân bản rất cao trong triết học thời Tiên Tần.
Tôi cặm cụi viết như trước ngày giải phóng, nhờ vậy từ 1975
đến nay, xong được sáu tập nữa, đều chưa in:
Hàn Phi, viết chung với Giản Chi, 1975.
Mặc học, dịch một phần
bộ Mặc Tử, 1976.
Lão Tử, dịch trọn Đạo
Đức Kinh, 1977.
Khổng Tử, 1978. Tập này
dài gấp năm cuốn Nhà giáo họ Khổng và
phân tích tư tưởng của triết gia họ Khổng về đạo đức, chính trị.
Luận Ngữ, dịch trọn bộ
và chú thích, 1978.
Sau cùng là Kinh Dịch, đạo của người quân tử, 1979.
Tôi kết thúc triết học Tiên Tần bằng tập này vì cho rằng
Dịch học phái trong thời Chiến Quốc đã biết lựa những tinh hoa của Nho và Lão,
rồi dung hòa để vạch cho dân tộc Trung Hoa một phép xử thế khá cao thượng mà
rất thực tiễn. Có thể nói Dịch Kinh
và Dịch truyện đại biểu cho sự minh
triết của dân tộc Trung Hoa thời cổ. Nó tổng hợp các triết thuyết chính thời
Tiên Tần.
Nhìn lại quãng đường đã qua trong hai mươi bảy năm nay từ
1953, tôi thấy mới đầu tôi chỉ tính viết hai cuốn rồi ngưng vì tự biết Hán học
không phải là sở trường của mình; nhưng nhờ gặp bạn, nhờ được độc giả khuyến
khích, tôi đã mỗi năm tiến thêm một ít bước, rốt cuộc đã viết được 19 nhan đề
về Cổ học Trung Hoa (không kể một cuốn dịch của Lâm Ngữ đường), trong số đó có
6 nhan đề về Văn học đều đã xuất bản và 13 nhan đề về triết học mà mới có 5
nhan đề đã xuất bản, còn 8 nhan đề chỉ là bản thảo. Có những nhan đề chỉ gồm
trên trăm trang, nhưng cũng có nhan đề gồm nhiều tập, dày bảy tám trăm trang,
trên ngàn rưỡi trang; trung bình là ba bốn trăm trang.
Như vậy chỉ nhờ mỗi một câu của Mẹ tôi: “Con nhà Nho không lẽ không đọc được gia phả
bên nội bên ngoại”. Khi nói với tôi như vậy, Người chỉ nghĩ đến công của tổ
tiên, có ngờ đâu rằng, đã vô tình vạch cho
tôi một hướng đi, tìm cho tôi một lẽ sống, tạo cho tôi một cuộc đời có ý
nghĩa.
Hôm nay là ngày giỗ của Người, không khí chung quanh bàn thờ
thật lạnh lẽo: về hàng con chỉ có hai vợ chồng tôi, về hàng cháu và chắt không
có một ai. Nhưng mừng rằng còn được một nén hương trầm, một bình trà ngon của
một bạn văn và một độc giả cho. Tôi ghi lại đấy mấy trang này để con cháu ở xa
nhớ công Người: “Phúc đức tại Mẫu”.
Sài Gòn, ngày Rằm tháng Ba năm Kỉ mùi (11-04-1979) Nguyễn Hiến Lê.
TRÍCH HỒI KÍ NGUYỄN HIẾN LÊ
Năm 1979 tôi viết cuối cùng về triết học Tiên Tần, tức cuốn Kinh Dịch.
Tôi đã thu thập tài liệu Hoa, Việt, Pháp, Anh về Kinh Dịch
từ non 20 năm trước, được 15 cuốn. Tôi đọc lại hết, ghi chép mất bốn tháng, rồi
viết mất sáu tháng nữa, được khoảng 500 trang.
Chủ trương của tôi khác hẳn các học giả của mình gần đây.
Tôi chỉ nhắm mục đích hướng dẫn những bạn trẻ muốn tìm hiểu triết lí trong Kinh
Dịch, nghĩa là vũ trụ quan, nhất là nhân sinh quan, cách xử thế, tu thân trong
Kinh Dịch, đạo của bậc chính nhân quân tử ngày xưa. Vì vậy tôi bỏ hết phần bói
toán huyền bí, nhất là phần tướng số và rán trình bày một cách có hệ thống,
sáng sủa tư tưởng của cổ nhân.
Tôi đã xét về:
Nguồn gốc Kinh Dịch (bỏ những thuyết huyền bí đi), sự tạo thành của tám quẻ đơn, 64 quẻ trùng,
Nội dung phần kinh,
Nội dung phần truyện, đã giảng kĩ
Các thuật ngữ và qui tắc cần nhớ: ý
nghĩa các hào, thế nào là trung, chính, tương quan giữa các hào, hào làm chủ…
Theo tôi, vũ trụ quan trong Kinh Dịch tổng hợp thuyết âm
dương có từ đời Ân (hay trước nữa) và đạo Lão; còn nhân sinh quan tổng hợp đạo
Lão và đạo Khổng. Trước sau vẫn là đạo Khổng (Kinh đó làm kinh của đạo Nho),
nhưng Dịch học phái đã biết dùng đạo Lão mà sửa đạo Khổng cho bớt hữu vi đi,
trọng khiêm nhu hơn; trọng phụ nữ hơn (quẻ Khôn và quẻ Gia nhân chẳng hạn) -
Khổng không nói đến phụ nữ, có thì chỉ chê là “nan hóa” thôi; trọng sự ẩn dật
hơn (quẻ Tiệm). Tôi có thể bảo vì vậy Dịch là tổng hợp được minh triết của dân
tộc Trung Hoa thời Chiến Quốc.
Triết lí trong Dịch thực
tế: Việc đời không bao giờ hết được, xong việc rồi (Kí tế) thì phải bắt vào
việc khác (sau Kí tế tới Vị tế); lạc quan:
tuy biết rằng không bao giờ diệt được hết ác, được tiểu nhân; thiện ác, quân
tử, tiểu nhân cũng như dương âm vẫn thay đổi nhau lên lên xuống xuống, nhưng
Dịch vẫn khuyến thiện, vẫn thiên vị với quân tử, chỉ cho quân tử cách đợi thời
ra sao, hành động ra sao; Dịch lại rất thực
tiển: 64 quẻ đều xét những việc thường ngày từ việc ăn uống, cưới xin, kiện
cáo, xuất quân, dạy con, tới những
việc trị dân, làm cách mạng, tu thân, tiến lui… cả, những cách giữ thân khi gặp
nguy khốn, khi ở đậu đất khách; mà như vậy chỉ dùng có hai vạch liền và đứt
thay đổi nhau, chồng chất lên nhau. Tôi nhấn mạnh vào phần nhân sinh quan đó
trong phần giới thiệu và cả trong phần dịch 64 quẻ.
Leibniz, một triết gia Đức ở thế kỉ XVII tìm ra được rằng 64
quẻ trong đồ phương vị của Phục Hi hợp với phép Nhị tiến (numération binaire)
của ông, tài tình thật. Nhưng tương truyền Thiệu Ung, triết gia đời Tống ở thế
kỉ XI đã vẽ đồ đó, vậy thì ông hay người thời Chiến Quốc đã tìm ra phép Nhị
tiến trước Leibniz chăng? Đáng phục hơn hết các nhà trong Dịch học phái đời
Chiến Quốc đã “tán” thoán từ và hào từ trong Kinh Dịch một cách rất lôgích,
biến một sách bói thành một bộ triết lí gom hết các tinh hoa của cổ nhân. Họ có
óc tưởng tượng mạnh thật. Càng suy nghĩ tôi càng thấy Dịch là một kì thư.
Bộ Kinh Dịch, đạo của người quân tử
viết xong tôi đưa cho vài bạn đọc, bạn nào cũng khen; một bạn chịu khó chép tay
để giữ (vì không biết bao giờ mới in được), một bạn khác nhờ đánh máy 6 bản để
tặng người thân[132]”.
(Hồi Kí Nguyễn Hiến Lê, Nxb Văn Học, năm 1993, trang 547-548).
CHÚ THÍCH
[130]. Tôi định vậy, nhưng sau vẫn viết thêm được bộ Sử Trung Quốc 700 trang nữa, và chưa biết chừng còn biên khảo thêm nữa (cước chú năm 1984).
[131].
Tôi được học vở lòng chữ Hán với Cha tôi hơn một năm, rồi tám tuổi học chữ Quốc
ngữ, mười tuổi mồ côi cha.
[132].
Trong ĐVVCT, cụ NHL còn cho biết thêm: “… bác sĩ Nguyễn Chấn Hùng, giảng viên
Đại học Y khoa Sài Gòn xin phép tôi đánh máy sáu bản, tặng tôi một bản, còn thì
tặng các bạn thân đã giúp công giúp của trong việc đánh máy. Cậu xin mười năm
nữa khi nào có dịp xuất bản thì cậu sẽ lo cho”. BS Nguyễn Chấn Hùng, trong bài Kinh Dịch và tinh thần của giếng, cho
biết: “Tôi xin ông được giữ một bản, tự tay ông đã viết phần chữ Hán trong sách
cho tôi”. (Goldfish).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét