Chân dung Tôn Quyền được vẽ bởi Diêm Lập Bản |
NGÔ THƯ QUYỂN 2 - NGÔ CHỦ TRUYỆN
Tôn Quyền tự Trọng Mưu. Anh là Sách đã định các quận, bấy giờ Quyền mười lăm tuổi, lấy làm Dương Tiện Trưởng.
Giang Biểu truyện chép: Vào thời Kiên làm Hạ Bì Thừa thì Quyền sinh, má vuông miệng lớn, mắt có ánh sáng, Kiên thấy lạ, cho là có tướng quý. Đến lúc Kiên chết, Sách nổi dậy ở Giang Đông, Quyền thường đi theo. Suy nghĩ sáng suốt, có nhân lại quyết đoán, ưa hiệp khách, nuôi kẻ sĩ, bắt đầu được biết tiếng, sánh ngang với cha anh. Hễ cùng tham gia mưu tính, Sách rất cho là kì, tự cho mình không theo kịp. Hễ mời họp tân khách, thường ngoảnh bảo Quyền rằng: “Các vị ấy là tướng của ngươi đấy”.
Quận xét làm hiếu
liêm, châu cử làm mậu tài, làm Phụng nghĩa hệu úy. Nhà Hán thấy Sách ở xa chức
cống, sai sứ giả là Lưu Uyển ban lễ cửu tích. Uyển bảo người khác rằng: “Ta xem
anh em họ Tôn dẫu đều có tài tăng sáng suốt, nhưng đều không được hưởng lộc trọn
vẹn, chỉ có em giữa làm hiếu liêm là có dáng vẻ kì vĩ, cốt cách không phải tầm
thường, có tướng đại quý, tuổi thọ lại dài nhất, ngươi thử nghĩ mà xem”.
Năm Kiến An thứ tư,
theo Sách đánh Lư Giang Thái thú Lưu Huân. Huân bị phá, đến đánh Hoàng Tổ ở Sa
Tiện.
Năm thứ năm, Sách
hoăng, trao việc cho Quyền, Quyền khóc mãi không thôi. Trưởng sử của Sách là
Trương Chiêu bảo Quyền rằng: “Hiếu liêm, lúc này là lúc khóc sao? Ngày xưa Chu
Công lập ra phép tắc nhưng Bá Li không theo, đấy không phải là trái lệnh cha,
mà là bấy giờ không vâng theo được. Thần là Tùng Chi xét: Lễ kí chép: Tăng Tử hỏi
Tử Hạ rằng: “Để tang ba năm, không tránh việc can qua, là lễ ư? Trước đây có việc
này ư’? Khổng Tử nói: “Ta nghe những người già nói rằng ngày xưa Lỗ Công là Bá
Li có làm việc ấy”. Trịnh Huyền chú giải rằng: “Người nhà Chu ngừng khóc thì
làm việc ấy. Bấy giờ có người Nhung ở nước Từ làm loạn, Bá Li ngừng khóc mà
đánh chúng, đấy là việc gấp của nhà vua vậy”. Lời mà Chiêu nói là “Bá Li không
theo”, có lẽ chỉ về việc này.
Huống chi ngày nay kẻ
gian ác rong ruổi, bọn lang sói đầy đường; vậy mà lại thương khóc người thân,
ngoảnh theo lễ chế, đấy là mở cửa mà rước giặc vào nhà. Không phải là có nhân vậy”.
Bèn đổi sửa áo cho Quyền, đỡ lên ngựa cho đi coi xét các quân. Bấy giờ chỉ có
các quận Cối Kê, Ngô, Đan Dương, Dự Chương, Lư Lăng, nhưng các chỗ hiểm trở vẫn
chưa theo về hết, mà anh hào trong thiên hạ ở khắp châu quận, bọn tân khách kẻ
sĩ ở trọ có ý nguy thì bỏ đi, yên thì ở lại, chưa có cái vững chắc của đạo vua
tôi. Bọn Trương Chiêu, Chu Du bảo Quyền nên cùng họ dựng nghiệp lớn, cho nên họ
dốc lòng theo giúp. Tào Công dâng biểu cử Quyền làm Thảo lỗ tướng quân, lĩnh chức
Cối Kê Thái thú, đóng quân ở Ngô Quận, sai đến quận coi các việc văn thư. Dùng
lễ sư phó để đãi Trương Chiêu, lại dùng bọn Chu Du, Trình Phổ, Lữ Phạm làm tướng
súy. Mời gọi bọn tuấn tú, tìm cầu danh sĩ, bọn Lỗ Túc, Gia Cát Cẩn bắt đầu làm
tân khách. Chia phân các tướng, vỗ về người Sơn Việt, đánh kẻ không theo lệnh.
Giang Biểu truyện
chép: Trước đây Sách dâng biểu dùng Lí Thuật làm Lư Giang Thái thú, sau khi
Sách hoăng, Thuật không chịu theo Quyền, lại thu nạp nhiều kẻ phản loạn trốn
tránh. Quyền gửi thư đòi bắt, Thuật báo rằng: “Có đức thì được kẻ khác theo về,
không có đức thì bị kẻ khác chống lại, không cho thả về’”. Quyền cả giận, bèn kể
việc này cho Tào Công rằng: “Khi xưa Nghiêm Thứ sử được ngài chọn dùng, lại là
tướng được châu cử, vậy mà Lí Thuật hung ác, khinh thường phép tắc của nhà Hán,
làm hại quan lại của châu, dung chứa kẻ vô đạo, nên nhanh đến đánh diệt để cắt
bỏ bọn xấu. Nay muốn đánh hắn, tiến thì vì nhà nước mà tiễu trừ kình nghê, lùi
thì vì tướng được châu cử mà báo trả thù hận, đấy việc đạt nghĩa với thiên hạ,
là điều mà ta ngày đêm dốc lòng. Thuật tất sợ bị giết mà nói dối để cầu cứu.
Ngôi vị của minh công là chức phận của quan A hành, là điều mà người trong nước
trông ngóng, xin ra lệnh cho ta nắm việc này, đừng làm lỡ hiệu lệnh”. Năm đó,
đem quân đánh Thuật ở Hoản Thành. Thuật đóng cửa tự giữ, cầu cứu với Tào Công. Tào Công không cứu.
Lương thực thiếu hết, đàn bà có người phải vo bùn mà nuốt. Cuối cùng làm cỏ
thành này, treo đầu Thuật, dời hơn ba vạn bộ khúc của Thuật đi chỗ khác.
Năm thứ bảy, mẹ của
Quyền là Ngô thị hoăng.
Năm thứ tám, Quyền đến
phía tây đánh Hoàng Tổ, phá quân thuyền của hắn, riêng thành là chưa hạ được,
mà bọn cướp trong núi lại động. Về qua quận Dự Chương, sai Lữ Phạm bình huyện
Bà Dương, sai Trình Phổ đánh huyện Nhạc An, sai Thái Sử Từ trông coi huyện Hải
Hôn, bọn Hàn Đương, Chu Thái, Lữ Mông chia ra làm trưởng lại của các huyện.
Năm thứ chín, em của
Quyền là Đan Dương Thái thú Dực bị tả hữu hại, lấy anh họ là Du thay Dực.
Ngô lục chép: Bấy giờ
Quyền tụ hội quan lại, Thẩm Hữu có chỗ đúng sai, sai người lôi ra, bảo rằng:
“Người ta nói khanh muốn phản”. Hữu biết không thoát được, bèn nói: “Nhà vua tại
đất Hứa, người có lòng không thờ ngài, có thể gọi là không phản sao”? Rồi giết
Hữu. Hữu tự Tử Chính, người quận Ngô. Lúc mười một tuổi vừa lúc Hoa Hâm sửa
phong tục, thấy Hữu thì cho là lạ, nhân đó gọi lại nói: “Chàng họ Thẩm kia,
trèo lên xe nói chuyện được không”? Hữu liền lùi lại chối rằng: “Quân tử giảng
điều hay, phải lấy lễ mở hội yến, ngày nay việc nhân nghĩa rũ bỏ, thánh đạo vỡ
lở, tiên sinh nhận lệnh, sắp sửa sang lễ giáo của Tiên vương, uốn nắn phong tục,
vậy mà khinh thường uy nghi, ví như vác củi dập lửa, chẳng phải là làm cho lửa
càng cháy mạnh sao”! Hâm thẹn nói: “Từ thời Hoàn, Linh đến nay, dẫu có nhiều kẻ
anh hào, nhưng chưa có ai trẻ nhỏ mà được như thế này”. Đến tuổi đội mũ thì học
rộng, nhiều chỗ thấu suốt, giỏi việc văn thư. Lại ưa việc quân, chú sách binh
pháp của Tôn Tử. Lại có miệng lưỡi biện luận, hễ đến chỗ nào thì mọi người đều
im lặng chịu nghe, chẳng ai cùng đối đáp được, mọi người đều cho là cái kì diệu
của bút sách, cái kì diệu của miệng lưỡi, cái kì diệu của sức khỏe, ba cái đều
vượt qua người khác. Quyền dùng lễ vật tìm hỏi, đã đến, bàn về kế sách dựng
nghiệp Vương bá, hỏi việc của thời bấy giờ, Quyền thu nạp kính trọng Hữu. Bày kế
nên chiếm Kinh Châu, bèn nghe theo. Đứng chầu nghiêm cẩn, bàn việc hăng hái, bị
bọn bầy tôi tầm thường gièm pha, vu cho tội mưu phản. Quyền cũng cho là Hữu
không giúp mình được trọn vẹn, cho nên giết Hữu, bấy giờ hai mươi chín tuổi.
Năm thứ mười, Quyền
sai Hạ Tề đánh huyện Thượng Nghiêu, chia lập thành huyện Kiến Bình.Năm thứ mười
hai, đến phía tây đánh Hoàng Tổ, bắt dân chúng của hắn rồi về.
Mùa xuân năm thứ mười
ba, Quyền lại đánh Hoàng Tổ, Tổ sai quân thuyền chống quân trước, Đô úy Lữ Mông
phá quân tiên phong của hắn, còn bọn Lăng Thống, Đổng Tập đem hết quân tinh nhuệ
đánh Tổ, bèn làm cỏ thành của hắn. Tổ giữ thân chạy trốn, quân kị là Phùng Tắc
đuổi theo chém treo đầu hắn, bắt được mấy vạn trai gái của hắn. Năm đó, sai Hạ
Tề đánh huyện Y, huyện Thiệp, Y, đọc là âm ‘y’. Thiệp, đọc là ‘nhiếp’. chia huyện
Thiệp lập ra các huyện Thủy Tân, Tân Định,
Ngô lục chép: Nhà Tấn
đổi tên Tân Định thành Toại An.
Lê Dương, Hưu Dương,
Ngô lục chép: Nhà Tấn đổi tên Hưu Dương thành Hải Ninh.
lấy huyện Lục lập
thành quận Tân Đô. Kinh Châu Mục là Lưu Biểu chết, Lỗ Túc xin vâng lệnh đến
thăm hỏi hai con của Biểu, lại để xem sự biến. Túc chưa đến thì Tào Công đã vào
đất của họ, con của Biểu là Tông đem quân ra hàng. Lưu Bị muốn vượt sông xuống
phía nam, Túc gặp nhau với Bị, nhân đó truyền ý của Quyền, nói rõ thành bại. Bị
đến đóng quân ở Hạ Khẩu, sai Gia Cát Lượng đến chỗ Quyền, Quyền sai bọn Chu Du,
Trình Phổ đi theo. Bấy giờ Tào Công vừa thu được quân của Biểu, thế lực rất mạnh,
những người bàn đều thấy qua đã sợ hãi, nhiều người khuyên Quyền đón Tào Công.
Giang Biểu truyện
chép thư của Tào Công gửi Quyền rằng: “‘Gần đây ta nhận lệnh đánh kẻ có tội,
dương cờ về phía nam, Lưu Tông phải trói tay. Nay luyện tám mươi vạn quân thủy,
sắp cùng quân tướng hội săn ở đất Ngô’. Quyền nhận thư, đem ra cho bầy tôi xem,
chẳng ai không sợ hãi thất sắc.
Chỉ có Du, Túc là giữ
ý chống lại, giống ý với Quyền. Du, Phổ làm Tả, Hữu đô đốc, đều lĩnh vạn quân,
cùng đi với Bị, gặp quân của Tào Công ở Xích Bích, đại phá quân của Tào Công.
Tào Công đốt thuyền còn lại rồi rút lui, quân sĩ đói bệnh, chết đến quá nửa. Bọn
Bị, Du lại đuổi đến Nam Quận, Tào Công bèn về phía bắc, để Tào Nhân, Từ Hoảng ở
lại Giang Lăng, sai Nhạc Tiến giữ Tương Dương. Bấy giờ Cam Ninh tại Giang Lăng
bị quân của Nhân vây, bèn dùng kế của Lữ Mông, để Lăng Thống ở lại chống Nhân,
đem nửa quân của Thống đến cứu Ninh, quân do đó thắng lại. Quyền tự đem quân
vây Hợp Phì, sai Trương Chiêu đánh huyện Đương Đồ thuộc quận Cửu Giang. Quân của
Chiêu không được lợi, Quyền đánh thành hơn một tháng không hạ được. Tào Công từ
Kinh Châu về, sai Trương Hỉ đem quân kị đến Hợp Phì. Chưa đến, Quyền lui.
Năm thứ mười bốn, bọn
Du, Nhân chống nhau hơn một năm, người bị chết thương rất nhiều. Nhân bỏ thành
chạy. Quyền lấy Du làm Nam Quận Thái thú. Lưu Bị dâng biểu cử Quyền làm Xa kị
tướng quân, lĩnh chức Từ Châu Mục. Bị lĩnh chức Kinh Châu Mục, đóng quân ở Công
An.
Năm thứ mười lăm,
chia quận Dự Chương lập ra quận Bà Dương; chia quận Trường Sa lập ra quận Hán
Xương, lấy Lỗ Túc làm Thái thú, đóng quân ở Lục Khẩu.
Năm thứ mười sáu, Quyền
dời sở trị đến huyện Mạt Lăng. Năm sau, đắp thành ở huyện Thạch Đầu, đổi tên Mặt
Lăng thành Kiến Nghiệp. Nghe tin Tào Công sắp đến lấn, đắp lũy Nhu Tu.
Tháng giêng năm thứ
mười tám, Tào Công đánh Nhu Tu, Quyền chống nhau với Tào Công hơn một tháng,
Tào Công từ xa nhìn quân của Quyền, than rằng quân của Quyền nghiêm túc, bèn
lui.
Ngô lịch chép: Tào
Công đến Nhu Tu, làm thuyền dầu, buổi đêm vượt lên bãi sông. Quyền đem quân thủy
vây lại, bắt được hơn ba nghìn người, kẻ bị chết đuối cũng đến mấy nghìn người.
Quyền nhiều lần dụ đánh, Tào Công giữ vững không ra. Quyền bèn tự đến, cưỡi
thuyền nhẹ, từ cửa Bá Tu đi vào chỗ đóng quân của Tào Công. Các tướng đều cho
là quân dụ đánh, muốn ra đánh. Công nói: “Đấy tất là Tôn Quyền muốn tự thân xem
đội ngũ của quân ta vậy”. Hạ lệnh trong quân đều nghiêm chỉnh, cung nỏ không được
bắn bừa. Quyền đi năm, sáu dặm, rồi đi về, đánh trống vang lừng. Tào Công thấy
thuyền bè vũ khí nghiêm chỉnh, tấm tắc than thở rằng: “Sinh con phải như Tôn Trọng
Mưu, con của Lưu Cảnh Lưu chỉ như chó lợn thôi”! Quyền soạn thư gửi Tào Công rằng:
“Mùa xuân đang rộ, ông nên rút nhanh”. Lại viết trên giấy riêng rằng: “Túc hạ
không chết thì ta không yên được”. Tào Công bảo các tướng rằng: “Tôn Quyền
không dối ta”. Bèn đem quân về.
Ngụy lược chép: Quyền
cưỡi thuyền lớn đến xem quân của Tào Công, Tào Công phát cung nỏ bắn loạn, tên
cắm đầy thuyền, thuyền nghiêng nặng sắp lật, Quyền do đó quay thuyền lại, lại lấy
xoay mặt khác để đón mũi tên, mũi tên cắm đều vào thuyền, rồi về.
Trước đây, Tào Công sợ
các quận huyện bên bờ sông Giang bị Quyền cướp lấy, ra lệnh dời vào trong. Dân
truyền nhau kinh động, hơn mười vạn hộ của các quận Lư Giang, Cửu Giang, Kì
Xuân, Quảng Lăng đều vượt sông về phía đông, do đó miền tây sông Giang trống rỗng,
từ Hợp Phì về phía nam chỉ có Hoản
Thành.
Tháng năm năm thứ mười
chín, Quyền đánh Hoản Thành. Tháng nhuận, hạ thành này, bắt được Lư Giang Thái
thú Chu Quang cùng Tham quân Đổng Hòa, mấy vạn người trai gái. Năm đó Lưu Bị định
đất Thục. Quyền thấy Bị đã có được Ích Châu, sai Gia Cát Cẩn đến xin lại các quận
của Kinh Châu. Bị không ưng, nói: “Ta đang đánh Lương Châu, khi Lương Châu định
mới đem Kinh Châu cho Ngô vậy”. Quyền nói: “Đấy là mượn mà không trả, lại muốn
nói lời sáo rỗng để kéo dài năm tháng”. Bèn đặt trưởng lại của ba quận phía
nam, Quan Vũ đều đuổi hết họ đi. Quyền cả giận, bèn sai Lữ Mông đem bọn Tiên Vu
Đan, Từ Trung, Tôn Quy phát quân đánh lấy ba quận Trường Sa, Linh Lăng, Quế
Dương, sai Lỗ Túc đem vạn quân đóng trại ở Ba Khâu Ba Khâu là Ba Lăng ngày nay.
để chống Quan Vũ. Quyền đóng quân ở Lục Khẩu, để trông coi các quân. Mông đến,
hai quận đều phục, riêng Linh Lăng Thái thú Hách Phổ chưa theo. Vừa lúc Bị đến
Công An, sai Quan Vũ đem ba vạn quân đến Ích Dương, Quyền bèn gọi bọn Mông về
giúp Túc. Mông sai người dụ Phổ, Phổ hàng, thu được quan tướng của ba quận, do
đó dẫn quân về, cùng Tôn Giao, Phan Chương lấy quân của Lỗ Túc cùng đi, chống
Quan Vũ ở Ích Dương. Chưa đánh, gặp lúc Tào Công vào Hán Trung, Bị sợ mất Ích
Châu, sai sứ xin hòa. Quyền sai Gia Cát Cẩn đến báo, rồi lại kết thân, bèn chia
từ các quận Trường Sa, Giang Hạ, Quế Dương đến phía đông của Kinh Châu thuộc về
Quyền, từ các quận Nam Quận, Linh Lăng, Vũ Lăng đến phía tây thuộc về Bị. Bị về,
vừa lúc Tào Công đã về. Quyền từ Lục Khẩu về, rồi đánh Hợp Phì. Không hạ được Hợp
Phì, rút quân về. Quân đều trên đường, Quyền cùng bọn Lăng Thống, Cam Ninh tại
phía bắc bờ sông bị tướng Ngụy là Trương Liêu đánh úp, bọn Thống liều chết cứu
Quyền, Quyền cưỡi ngựa khỏe vượt cầu qua bờ sông thoát được.
Hiến Đế xuân thu
chép: Trương Liêu hỏi quân hàng người Ngô rằng: “Phía trước có vị Tướng quân
râu đỏ, trên dài dưới ngắn, cưỡi ngựa nhanh bắn tên giỏi kia là ai”? Quân hàng
đáp nói: “Là Tôn Cối Kê”. Liêu gặp nhau với Nhạc Tiến, nói là không biết sớm,
liền nhanh đuổi theo, toàn quân than tiếc.
Giang Biểu truyện
chép: Quyền cưỡi ngựa khỏe lên cầu qua bờ sông, phía nam cầu đã bị gãy, hơn một
trượng không có tấm ván nào. Cốc Lợi ở sau ngựa, cho Quyền giữ dây cương yên ngựa.
Lợi ở sau quất roi để giúp sức ngựa, bèn qua cầu được. Quyền đã được thoát, bèn
bái Lợi làm Đô đình hầu. Cốc Lợi vốn là quan Tả hữu Cấp sứ, vì cẩn thận mà được
làm Thái giám thân cận, tính trung trinh cứng cỏi, lời nói không cẩu thả, Quyền
tin yêu người này.
Mùa đông năm thứ hai
mươi mốt, Tào Công đến ở Cư Sào, rồi đánh Nhu Tu.
Mùa xuân năm thứ hai
mươi hai, Quyền sai Đô úy Từ Tường đến chỗ Tào Công xin hàng, Công sai sứ kết
hòa, thề cùng kết hôn.
Tháng mười năm thứ
hai mươi ba, Quyền sắp đến quận Ngô, tự cưỡi ngựa bắn hổ ở Thăng Đình. Ngựa bị
hổ đánh thương, Quyền dùng hai cây kích đánh, hổ liền thương, có người thường
đi theo là Trương Thế lấy qua để đánh, bắt được nó.
Năm thứ hai mươi tư,
Quan Vũ vây Tào Nhân ở Tương Dương, Tào Công sai Tả Tướng quân Vu Cấm cứu Nhân.
Gặp lúc nước sông Hán dâng cao, Vũ đem quân thuyền bắt hết ba vạn quân kị bộ của
của Cấm đem về Giang Lăng, riêng thành chưa hạ. Quyền trong lòng sợ Vũ, ngoài
muốn đánh để lập công cho mình, gửi thư cho Tào Công, xin được đánh Vũ để chuộc
tội. Tào Công lại muốn cho Vũ chống nhau với Quyền để ngăn chặn, sai người theo
trạm dịch gửi thư cho Quyền, sai Tào Nhân đem nỏ bắn ra để báo cho Vũ biết. Vũ
chần chừ không bỏ đi. Tháng nhuận, Quyền đánh Vũ, sai Lữ Mông đánh úp huyện
Công An trước, bắt được Tướng quân Sĩ Nhân. Mông đến Nam Quận, Nam Quận Thái
thú Mi Phương đem thành hàng. Mông chiếm Giang Lăng, vỗ về người già yếu ở đấy,
cởi trói cho Vu Cấm. Lục Tốn đi riêng chiếm Nghi Đô, đánh lấy các huyện Tỉ Quy,
Chi Giang, Di Đạo, về đóng quân ở Di Lăng, giữ ở Hiệp Khẩu để chặn quân Thục.
Quan Vũ về Đương Dương, rút đến phía tây giữ Mạch Thành, Quyền sai người dụ Vũ.
Vũ giả hàng, dựng cờ hiệu làm người tượng ở trên thành, nhân đó chạy trốn, quân
đều tan rã, chỉ còn hơn mười quân kị. Quyền sai bọn Chu Nhiên, Phan Chương chặn
đường rút của Vũ trước. Tháng mười hai, viên Tư mã của Chương là Mã Trung bắt
được Vũ cùng bọn con của Vũ là Bình, Đô đốc của Vũ là Triệu Lũy ở Chương Hương,
bèn định Kinh Châu. Năm đó có bệnh dịch lớn, miễn hết tô thuế cho dân của Kinh
Châu. Tào Công dâng biểu cử Quyền làm Phiếu kị tướng quân, ban cờ tiết, lĩnh chức
Kinh Châu Mục, phong Nam Xương Hầu. Quyền sai Hiệu úy Lương Ngụ đem cống vật
cho nhà Hán, cùng sai Vương Đôn mua ngựa, lại sai bọn Chu Quang về.
Ngụy lược chép: Lương
Ngụ tự Khổng Nho, người quận Ngô. Quyền sai Ngụ dò xét Tào Công, Tào Công nhân
đó cho làm Quyện thuộc, rồi sai về miền nam.
Tháng giêng mùa xuân
năm thứ hai mươi lăm, Tào Công hoăng, Thái tử Phi thay làm Thừa tướng Ngụy
Vương, đổi niên hiệu là Diên Khang. Mùa thu, Tướng Ngụy là Mai Phu sai Trương
Kiệm đến xin được thu nạp. Năm nghìn hộ dân của năm huyện Âm, Tán, Trúc Dương,
Trúc âm trục. Sơn Đô,
Trung Lư thuộc quận
Nam Dương đến nương dựa. Mùa đông, Vương nối tự của nhà Ngụy xưng tôn hiệu, đổi
niên hiệu là Hoàng Sơ. Tháng tư năm thứ hai, Lưu Bị xưng Đế ở đất Thục.
Ngụy lược chép: Quyền
nghe tin Ngụy Văn Đế nhận truyền ngôi và Lưu Bị xưng Đế bèn gọi hỏi người biết
xem sao, khí sao giữa vùng phận của mình thế nào, bèn có ý tiếm hiệm. Lại cho rằng
ngôi của mình còn nhỏ, không đủ để ra oai với dân chúng, lại muốn nhún nhường
trước rồi lên ngôi sau, nhún nhường thì có thể mượn cớ để được ban ân sủng, lên
ngôi sau thì nhà Ngụy tất đến đánh dẹp, đến đánh dẹp thì mới làm cho dân chúng
hăng hái, dân chúng hăng hái thì mới có thể tự đại, cho nên ngầm cắt tuyệt Thục
mà chuyển sang theo thờ Ngụy. Quyền từ Công An đến đóng đô ở huyện Ngạc, đổi
tên là Vũ Xương, lấy sáu huyện Vũ Xương, Hạ Trĩ, Tầm Dương, Dương Tân, Sài
Tang, Sa Tiện lập thành quận Vũ Xương.
Tháng năm, người
thành Kiến Nghiệp nói là có sương ngọt giáng. Tháng tám, đắp thành ở Vũ Xương,
hạ lệnh các tướng rằng: “Người còn sống
không quên người mất, lúc yên thì lo lúc nguy, đấy là phép hay của người
xưa. Ngày xưa Tuấn Bất Nghi là danh thần của nhà Hán, vào thời yên bình mà còn
đeo đao kiếm không rời khỏi thân, đấy là vũ khí phòng bị của người quân tử,
không nên vứt bỏ. Huống chi ngày nay dẫn thân ở biên giới, gần kề với bọn lang
sói, vậy mà có thể coi thường mà không lo biến nạn sao? Nghe nói rằng các tướng
ra vào, đều còn nhún nhường, không đem quân sĩ theo, đấy rất không phải là
phòng bị lo nghĩ cho thân mình. Giữ cho được thân mình truyền tên tuổi cho đời
sau, để giữ yên người thân của các ông, thì sao nguy khốn được? Nên phòng bị
nghiêm ngặt, cho đó là việc lớn, đúng ý của ta vậy”.
Từ thời Ngụy Văn Đế
lên ngôi vị, Quyền vâng lệnh xưng thần, lại sai bọn Vu Cấm về. Tháng mười một,
ra lệnh cho Quyền nói: “Phép tắc của vua hiền là xét đức để ban chức tước, xét
công để thưởng bổng lộc. Người có công lớn thì thưởng bổng lộc nhiều, người đức
dày thì ban lễ hậu. Cho nên Thúc Đán có công giúp dỡ, Thái Công có công gây dựng,
đều được ban cho đất đai, đấy là để khen ngợi công to, tỏ cái khác lạ của bậc
hiền triết vậy. Gần đây vào đầu thời Hán Cao Tổ nhận lệnh, chia đất màu mỡ
phong Vương cho tám họ, đấy là cái hay của đời trước, là tấm gương cho bậc
Vương đời sau vậy. Trẫm là kẻ không có đức, theo vận mà sửa đổi, trông coi muôn
nước, vâng giữ mệnh trời, suy nghĩ việc đời trước, ngồi mà đợi sáng. Chỉ có ông
bản tính trung trinh, có tài giúp đời, hiểu sâu lịch số, soi thấu thịnh suy, ở
xa mà sai khiến được người khác, qua cả vùng sông Tiềm sông Hán, Vũ cống chép:
Đà, Tiềm đã đào. Chú rằng: “Xuất từ sông Giang là sông Đà, xuất từ sông Hán là
sông Tiềm”.
kẻ nghe qua đều đến
nương dựa, dâng sớ xưng thần, thu nạp tơ lụa, vật cống của phương nam, đều sai
các tướng đến cống cho triều đình. Trong lòng trung trinh thì kẻ ngoài thành thật,
tín khắc lên vàng đá, nghĩa trùm cả sông núi, trẫm rất khen ngợi. Nay phong ông
làm Ngô Vương, sai Sử trì tiết Thái thường Cao Bình Hầu là Trinh đến trao cho
ông các đồ ấn thao chiếu thư, hổ phù từ hạng nhất đến hạng năm, tả trúc sứ phù
từ hạng nhất đến hạng mười, cho làm Đại Tướng quân, cầm cờ tiết trông coi Giao
Châu, lĩnh việc Kinh Châu Mục, ban cho ông đất xanh, cờ mao trắng, nêu rõ lệnh
của trẫm, để coi xét miền đông của Hoa Hạ. Trao lại ấn thao chiếu thư Phiếu kị
tướng quân Nam Xương Hầu trước đây. Nay lại ban thêm cho ông mệnh cửu tích, nên
kính nghe lệnh của trẫm. Cho ông vỗ về miền đông nam, lập phép tắc ở vùng Giang
Ngoại, khiến cho dân vui vẻ dựng nghiệp, không có ai mang hai lòng, ban cho ông
một cỗ xe lớn, một cỗ xe binh, bốn con ngựa đực đen. Ông làm ra của cải khuyến việc trồng trọt,
kho tàng chất đầy, cho nên ban cho ông dùng áo cổn miện, kèm theo dày đỏ. Ông
dùng đức dạy dân, lễ giáo trôi chảy, cho nên ban ông dùng lễ nhạc hiên huyền.
Ông nêu cao phong tục tốt đẹp, vỗ về người Bách Việt, cho nên ban cho ông dùng
nhà cửa đỏ. Ông dùng mưu hay của mình, dùng quan hiền tài, cho nên ban cho ông
được dùng bệ cao. Ông trung dũng hăng hái, dẹp trừ kẻ gian ác, cho nên ban cho
ông dùng trăm người dũng sĩ. Ông diễu oai nơi biên giới, tỏ sức đến miền Kinh
Nam, diệt trừ kẻ xấu xa, kẻ có tội bị phạt, cho nên trao ông dùng một lưỡi phủ
việt. Ông được quan văn ở trong hòa mục, tướng võ ở ngoài tin cậy, cho nên cho
ông một cây cung đỏ, trăm cây tên đỏ, mười cây cung đen, nghìn cây tên đen. Ông
lấy trung trinh làm nền, cung kính làm đức, cho nên cho ông một hũ rượu nếp
đen, kèm theo ngọc khuê. Gắng lên! Kinh bày huấn điển để theo lệnh của trẫm, để
giúp đỡ nhà nước ta, để ngươi mãi được rạng rỡ”.
Giang Biểu truyện
chép: Bầy tôi của Quyền bàn là nên xưng làm Thượng tướng quân làm Bá của chín
châu, không nhận tước phong của nhà Ngụy. Quyền nói: “Làm Bá của chín châu thì
từ xưa chưa nghe nói đến vậy. Ngày xưa Bái Công cũng nhận phong của Hạng Vũ mà
làm Hán Vương, đấy là tùy từng thời mà thôi, há lại mất gì sao”? Bèn chịu nhận.
Tôn Thịnh nói: “Ngày xưa Bá Di, Thúc Tề không theo nhà Chu, Lỗ Trọng Liên không
chịu làm dân của nhà Tần. Là chí của kẻ thất phu còn giữ nghĩa không chịu nhục.
Huống chi là vua của nước chia ba thiên hạ? Vậy mà có thể giữ hai, ba khí tiết,
hoặc thần phục hoặc không thần phục sao? Ta xem người Ngô, người Thục đều nói
là thờ nhà Hán, đến như thời Hán, cũng chẳng ai giữ vững được khí tiết của bầy
tôi, cho nên bậc quân tử biết không giữ yên được dòng dõi, rút cuộc bị nước lớn
thôn tính. Nếu Quyền theo lời bàn của bầy tôi, cả đời xưng là tướng của nhà
Hán, há không có nghĩa thấu cả sáu cõi, nhân cảm cả trăm đời sau sao”!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét