Thứ Bảy, 18 tháng 3, 2023

THƠ LÀ CÁI CHI CHI

 

Nhà văn Y Ban

Tháp Muốn và Đế Chế Thi Ca - Y Ban 

CHƯƠNG 9

THƠ LÀ CÁI CHI CHI

 

Theo một thống kê chưa đầy đủ trong Đế chế thi ca cứ năm người dân có một người làm thơ. Thống kê này chưa chính xác vì có người có làm thơ nhưng vô cùng xấu hổ nên chẳng dám mang thơ ra khoe. Lâm tặc tàn phá rừng đến kiệt quệ cũng do một phần để có bột giấy in thơ. Thơ nhiều quá nên rất ít người đọc thơ chứ đừng nói đến thuộc thơ. Chỉ khổ bọn trẻ con đang tuổi đến trường bị nhồi thơ như nhồi vịt.

Dừng lại một chút để tả cảnh nhồi vịt. Vịt trước khi mang ra chợ được nhồi thêm thức ăn cho nặng cân. Người buôn vịt nấu bánh đúc rồi cắt ra từng miếng to bằng hai ngón tay, hai chân vịt được giẫm lên bằng một bàn chân người, mỏ vịt được banh ra bằng hai bàn tay người, một ngón tay gang mồm vịt ra, tay kia lấy bánh đúc chấm vào bát nước cho trơn để dễ nhồi, tọng miếng bánh đúc vào họng vịt rồi lấy bàn tay vuốt thẳng xuống diều, hết miếng nọ đến miếng kia, vèo cái vịt tăng thêm ba bốn lạng. Người đến mua tay sờ phao câu, tay sờ diều. Phải tay mẹ nào quá quắt xách ngược con vịt lên để nặn cho hết bánh đúc trong diều rồi mới chịu cân. Quá trình nặn bánh đúc ra đảo chiều với cảnh nhồi, nghĩa là con vịt bị xách ngược hai chân chổng lên giời, mỏ chúc xuống đất. Và bánh đúc được nặn từ diều chui ngược qua cái cổ dài ngoẳng, chịt lấy họng, vịt phải há ngay cái mỏ ra để bánh đúc tống ra ngoài.

Thì đấy bọn trẻ đến trường đứa nào chẳng phải học thơ, cô giáo cho bài tập về nhà học thuộc lòng mà không học thuộc mai đến lớp sẽ bị phạt. Thuộc một bài thơ đâu phải dễ dàng gì, ngắc nga ngắc ngoải như gà mắc tóc, bố mẹ sốt ruột quá thở dài, giá mà như nhồi vịt chấm ít nước vào thơ cho dễ thuộc.

Ừ thì thơ ca đã được nhân loại ca tụng từ khi nhân loại biết tụng ca, ai tụng ca thì tụng ca, ai không thể tụng ca được thì không tụng ca. Vì suy cho cùng cũng không phải là thứ hoàn hảo nhất để tụng ca. Một cô bé ở nước Nga đã vô cùng sung sướng nói với mẹ điều này:

- Rất may là Puskin chết sớm nếu không thì không biết còn phải học bao nhiêu bài thơ của ông nữa đây.

Ở Đế chế thi ca các nhà thơ thường trường thọ và họ sống chết với thơ. Không có thơ cuộc đời của họ như không còn gì. Một nhà thơ đồng quê thiên tài trong Đế chế thơ đã viết thơ rằng:

“Nhất kiêng đừng lấy chồng thi sĩ.
Nghèo lắm con ơi bạc lắm con”

(Thơ NB)

Ai chưa nhảy bổ vào thơ cũng ngâm nga: Lập thân tối hạ thị văn chương. Tối hạ như một nhà thơ kia là cùng. Nhà nghèo lắm, nghèo xơ nghèo xác nên lúc nào cũng đói. Vợ đói, con đói, chó đói, mèo đói, lợn gà đói. Đói quay đói quắt, đói dắt mang tai, đói dài cổ họng, đói ơi là đói. Vậy là khi có bạn thơ về đến nhà chơi bèn đi tìm mồi để đãi bạn. Nhà trống hơ trống hoác, tìm mãi tìm mãi thấy còn mỗi con gà mái đang ấp. Con gà mái này cũng là nuôi rẽ của bên bố mẹ vợ, đợi gà nở thì lấy mà nuôi còn trả lại con mái tốt. Nhà thơ ngẫm nghĩ một lèo, trứng gà đang ấp dở mất rồi có ai ăn trứng gà lộn bao giờ. Thịt con gà thì hỏng hết cả lứa trứng. Bạn thì bạn quý. Thôi thì. Thì thôi. Thì thế. Thì thôi. Thôi thôi thì thôi thế thì thôi. Nhà thơ bèn lấy con dao xẻo một bên đùi con gà mái đang ấp trứng. Chó liền da gà liền xương, chân không mọc ra được thì đi cà nhắc có sao. Nổi lửa lên luộc cái đùi gà thết bạn. Thêm mấy trái sung nữa là xong mồi. Chén chú, chén anh, chén tạc chén thù. Thơ cứ thế tuôn ra ầm ầm.

Mụ vợ nghe tin có chồng bạn đến chơi te tái chạy về, tay đã vơ được mớ ốc đá béo mầm. Chưa đến ngõ mụ đã ngửi thấy mùi thịt gà thơm. Linh cảm xấu ập đến làm mụ xây xẩm mặt mũi, còn có hai ngày nữa gà xuống ổ, 15 quả trứng 15 con gà chứ ít đâu, mụ đã soi từng quả. Con gà mái tốt nết nhất trong đàn, ông ngoại cho mượn dặn đi dặn lại phải chăm sóc cẩn thận. Mụ chạy thẳng đến ổ gà. Phim kinh dị là thế này đây ư? Con gà mái nằm chết gục trên ổ trứng máu chảy đọng trên nền bếp. Mụ nấc lên rồi hóa điên. Chẳng nói chẳng rằng mụ nổi lửa đốt nhà. Cái nhà bếp dột nát cháy đùng đùng chưa đến chục phút là xong. Hai ông nhà thơ đứng như trời trồng giữa sân. Ông bạn dùng kế tẩu vi sách. Mụ vợ chắn ngang đường:

- Chết bác đừng về vội, em đốt nhà để nướng gà bác xơi nốt đã. Xin bác cứ ở lại tí nữa đã để chứng kiến em đốt nốt cái nhà trên cho nó tiệt nọc thơ đi. Em khổ quá rồi bác ơi.

Ông bạn mặt trắng bệch như vôi rồi bật khóc hu hu. Ông khóc vì mụ vợ bạn có đốt trụi cả dãy Trường Sơn thì người làm thơ ở cái đất này cũng vẫn cứ mọc lên như nấm sau mưa. Ông khóc vì thương bạn lấy phải một mụ vợ nông cạn, không biết được chồng mình là một nhà thơ trời sinh. Ông ấy đã làm được những vẫn thơ trác tuyệt. Chỉ vì nghèo mà nhưng áng thơ hay đó không được xuất bản, chứ nói gì đến Hội thảo. Mà kinh phí cho một cuộc Hội thảo phải xây được một căn nhà tình nghĩa. Ông khóc vì ở Đế chế này tiền thì tuyền tiền đực, đã đực lại còn bị thiến nữa, nên tiền không đẻ được ra tiền. Còn thơ, nhất là thơ dở thì lại là thơ cái, đẻ sòn sòn hơn lợn sề.

Cái sự lạ ở Đế chế thơ là thần dân ở đây không mấy ai thuộc thơ Tế tử (tử tế) mà toàn thuộc thơ lái thơ nhại thơ cười. Cái hồi Đế chế thi ca quyết định lấy một ngày trong 365 ngày là ngày quốc khánh thi ca, ngay lập tức có thơ rằng:

Cố mà ăn bát bún riều.
Để còn vào chốn Văn Miêu đọc thờ.

Nhà thơ là phải có cờ.
Để cho thiên hạ phải sờ xem sao.

Sờ vào để biết thế nào.
Cửa ra Văn Miếu cửa vào càn khôn.

Từ Lũng Cú đến Côn Lôn
Đọc thơ cho đến vần ồn thì thôi.

Những sự ồn ào của thi ca trong Đế chế thi ca, không rơi vào học thuật, không rơi vào tác phẩm, mà tuyền rơi vào những thứ vớ va vớ vỉn. Lại cách đây mấy năm ào lên như một trận gió lốc kinh hoàng vụ Dí nhồn vào thơ:

Vợ tôi nửa dại nửa khôn
Ngày dăm bảy bận dí nhồn vào thơ

Còn tôi ra ngẩn vào ngơ
Ngày dăm bảy bận dí thơ vào nhồn

Lần này trao giải Quý Đôn
Thì trao cả giải cho thơ và nhồn.

Thơ này chỉ là thơ vui đọc lúc trà dư tửu hậu và chỉ được xuất bản bằng mồm ấy vậy mà nó đùng đùng được nổi tiếng khi có một nhà thơ thuộc hạng thượng thư bỗng nhiên tuyên bố, thơ chỉ đáng để dí vào nhồn. Chao ôi tất cả nhảy cầng cẫng lên xỉa xói, rỉa rói. Thì thế đụng ngay phải quốc hồn quốc túy. Các cụ có câu, mấy đời sấm chớp có mưa ngay bao giờ, sao đúng với Đế chế thi ca này đến vậy. Sấm chớp đùng đùng tưởng sập cửa, đổ nhà đến nơi, ấy vậy mà đâu vẫn đóng đấy. Chỉ còn lại một giai thoại thế này. Mà đã thành giai thoại thì nào có ai đi mà kiểm chứng. Ấy là một nhà thơ nọ, trước đây cùng vợ mở quán bán thịt chó. Quán bán đắt hàng nhưng chủ quán không cam tâm làm anh bán thịt chó nên cứ âm thầm làm thơ. Ngưu tầm ngưu mã tầm mã, chủ quán chỉ thích chơi với bạn làm thơ, vậy nên bỗng chốc chiếc lá mơ lông trong mâm thịt chó cũng có thơ rằng:

“Sinh từ trời đất mênh mông
Mà sao lá lại lắm lông thế này

Đời dầu trăm đắng, ngàn cay
Càng tươi tốt, lại càng đầy lá lông

Những ai chăm chút vun trồng
Xin đừng thấy lá lắm lông mà nghiền.”

Chủ quán âm thầm gửi thơ lên một tờ báo chuyên trị in thơ của Đế chế thơ, rồi âm thầm mơ ước âm thầm mong mỏi. Ước mơ cháy bỏng của chủ quán đã thành sự thật khi một ngày kia tờ báo thơ in hẳn một chùm thơ của chủ quán. Chủ quán vui sướng một niềm vui không thể tả xiết, nó không như bắt được vàng, nó không như trúng con lô. Có thể nó cũng là thế nhưng gấp năm mười lần. Đang trưa khách rõ đông, một mình mụ vợ tay năm tay mười. Hết chặt thịt chó lại thái riềng, còn tay nào mà pha mắm tôm. Gọi chồng, chồng cứ chết giẫm ở trong buồng, rồi tí toét đi ra tay cầm tờ báo dí dí vào mặt mụ vợ đang sưng vù lên như bị ong đất đốt:

- In rồi in rồi.

- Cái gì?

- Thơ.

- Dí nhồn vào.

Hoàn cảnh ra đời của bài thơ dí nhồn vào thơ là thế. Nhưng thực tế ấy là công sức tập thể của ba bốn nhà thơ ở T B.

Chưa có một công trình nghiên cứu cấp quốc gia nào về sự ảnh hưởng của thơ ca đến vấn đề an sinh xã hội, chỉ thấy cứ ca ngợi vống lên mà thôi. Có bác nhà thơ ẵm giải to nhất của Đế chế mà cũng chỉ có rất ít thần dân thuộc thơ của bác. Đã thế còn để lại hệ lụy, dù chỉ là cá biệt. Ấy là có một chú thợ hồ. Chú này mới có hơn 30 mà đã ra tòa ly hôn đến 5 đời vợ. Tòa mới hỏi:

- Đến bao giờ anh mới thôi làm khổ phụ nữ vậy?

- Anh có định ly hôn lần thứ 6 nữa không đấy?

- Biết đâu đấy, có thể đến lần thứ 10.

Tòa bèn hỏi cô vợ:

- Tại sao chị phải lòng anh ta. Chị không tìm hiểu quá khứ của chồng mình à.

- Em có biết anh ấy lấy vợ nào rồi cũng bỏ vợ ấy. Nhưng cơ mà anh ấy làm thơ hay lắm ạ.

- Thơ hay đến cỡ nào mà một giáo viên như chị dứt khoát phải lòng một anh thợ hồ?

- Em mà đọc ra có khi tòa cũng phải lòng đấy ạ.

- Cứ thử đọc xem nào.

Em đâu phải là chiều mà nhuộm anh đến tím.
Sóng chẳng đi đến đâu nếu không đưa em đến.
Dù sóng đã làm anh
nghiêng ngả
vì em…

(Thơ HT).

- Đấy tòa thấy có hay không? Rất tuyệt chứ ạ.

- Giời ạ, anh ta nói đấy là thơ của anh ta hử?

- Vâng, anh ấy viết tay một loạt bài thơ anh ấy sáng tác ra vào một cuốn sổ rồi đọc cho em nghe khi đến tán tỉnh em mà.

- Thôi thì tòa không hòa giải nữa mà sẽ phán quyết cho anh chị ly hôn. Vì anh chồng chị còn là một kẻ đạo thơ nữa. Đấy không phải là thơ của anh ta. Tiếc thay trong khung án hình sự lại không có điều khoản nào dành cho kẻ trộm thơ đi tán gái.



 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét