Nhà văn nữ trước
1975: Trùng Dương
(Tiếp theo)
Tác giả: Nguyễn Ngọc Chính
Tôi xếp Trùng Dương
[1] là nhà văn nữ cuối cùng trong loạt bài về “ngũ hổ tướng” vì nhiều lý do. Thứ
nhất, viết về Nhã Ca, Túy Hồng, Nguyễn Thị Hoàng và Nguyễn Thị Thụy Vũ tương đối
dễ dàng hơn là về Trùng Dương, người vốn được mệnh danh là lá cờ đầu của chủ
nghĩa hiện sinh trong giới nhà văn nữ của Sài Gòn trước 1975.
Thứ nhì, Trùng Dương
vừa là nhà văn vừa là nhà báo nên xếp vào danh sách 5 nhà văn nữ có phần khiên
cưỡng. Mới thoạt nhìn, nhà văn và nhà báo “tuy hai mà là một” nhưng xét cho
cùng lại thấy “trông thì một nhưng lại dứt khoát là hai”. Một người viết văn
hay chưa chắc là nhà báo giỏi, nhưng xuất phát từ một nhà báo bình thường vẫn
có cơ hội trở thành một nhà văn nổi tiếng.
Hơn nữa, người ta thường
quan niệm làm báo chỉ là hành “nghề” trong khi đó viết văn lại là cái “nghiệp”.
Ở trường hợp Trùng Dương có phần đặc biệt, xuất phát từ một nhà văn và sau này
lại bước sang làm báo, xin nhấn mạnh “làm báo” chứ không phải “viết báo”.
Trùng Dương
Như đã viết trong
bài Báo chí thời VNCH
(1) (http://chinhhoiuc.blogspot.com/2012/10/bao-chi-sai-gon-thoi-vnch-1.html),
nhà văn nữ Trùng
Dương nổi lên như một “người làm báo” với chức danh Chủ nhiệm tờ Sóng
Thần là một hiện tượng lạ trong làng báo miền Nam dù trước đó cũng có
Bà Bút Trà làm chủ tờ Saigon Mới. Báo của Bà Bút Trà thuộc loại
bình dân, nếu không nói là “lá cải”, nhưng Sóng Thần của Trùng
Dương lại là tờ báo theo đúng nghĩa của báo chí.
Trong bài phỏng vấn của
Lê Quỳnh Mai, Trùng Dương cho biết: “Khi viết báo, tôi tôn trọng dữ kiện,
sự chính xác. Khi viết văn, tôi để óc tưởng tượng của tôi thở, sống, ‘theo chân
mây’, như tựa một cái truyện ngắn viết trước 1975, thay vì nhốt nó ở đâu đó. Ở
cả hai bộ môn, văn chương và báo chí, chân thực là điều căn bản, nhất là sự
chân thực trí thức”.
Khởi đầu Sóng
Thần là cơ quan ngôn luận của nhóm chống tham nhũng Hà Thúc Nhơn, tên
một đại úy y sĩ đã bị sát hại vào năm 1970 trong khi đơn thương độc mã chống
tham nhũng trong chính quyền. Nhóm này còn có bác sĩ Phạm Văn Lương, giáo sư
Nguyễn Liệu, Hà Thế Ruyệt, Phan Nhự Thức, Uyên Thao, Lý Đại Nguyên.
Theo Trùng
Dương, Sóng Thần được hình thành là do sự đóng góp tiền bạc dưới
hình thức mua cổ phần của các cổ đông và độc giả. Tờ báo do Trùng Dương đứng
tên làm chủ nhiệm và Chu Tử làm chủ biên. Ngoài những thông tin thời sự, bình
luận thời cuộc, xã hội, Sóng Thần còn có những mục giải trí,
trong đó có việc đăng tải những tiểu thuyết nhiều kỳ (feuilleton) của Nguyên
Vũ, Cung Tích Biền, Nguyễn Thụy Long, Vũ Ngọc Đĩnh, Hoàng Hải Thuỷ…
Điều hành công việc
tòa soạn có Uyên Thao, với tư cách tổng thư ký; phụ trách về trình bầy và dàn
trang, lo in ấn có các hoạ sĩ Đằng Giao, Huy Tường và Vị Ý. Thành phần biên tập,
bình luận và nhiếp ảnh có Vũ Ánh, Đỗ Ngọc Yến, Lý Đại Nguyên, Đường Thiên Lý,
Lê Thiệp, Dương Phục, Nguyễn Tiến Sơn, Lê Thị Bích Vân, Anh Điển, Nguyễn Tân
Dân, Chóe (Nguyễn Hải Chí), Hùng Phong, Nguyễn Tuyển, Thục Viên, Triều Giang,
Chu Vi Thủy, Vũ Ngọc Long…
Trùng Dương còn mời
thêm hai nhà văn nữ Túy Hồng và Nguyễn Thị Thụy Vũ tham gia viết bài và trong
danh sách “khách mời” còn có Nhã Ca và Nguyễn Thị Hoàng nhưng chưa thực hiện được
thì biến cố năm 1975 ập đến.
Trùng Dương xác nhận: “Cả
bốn chị đều là những nhà văn có nhiều sách truyện đã xuất bản và được nhiều người
biết tới và đọc, khác với tôi, một người viết truyện ‘xuân thu nhị kỳ’, như chủ
bút Văn dạo ấy, Trần Phong Giao, đặt cho tôi, có thể vì tôi luôn có những sở
thích khác lôi cuốn mình, không chỉ mình văn chương”.
Trong những tác phẩm
thuộc loại ‘xuân thu nhị kỳ’ ấy, người ta chú ý đến Mưa không ướt đất (1967)
và Lập đông (1972) với những tư tưởng ‘nổi loạn’ của các nhân
vật theo trào lưu ‘hiện sinh’ [2] của Jean Paul Sartre [3] rồi đến Franҫois
Sagan [4]. Cũng vì thế, người ta phong cho Trùng Dương danh hiệu ‘hiện sinh’
trong số các nhà văn nữ ở miền Nam.
Qua chủ nghĩa hiện
sinh, người miền Nam làm quen với những khái niệm ‘dấn thân’, ‘chọn lựa’,
‘nguỵ tín’ trong văn chương. Về phần nhà văn theo chủ nghĩa hiện sinh, nhiều
câu hỏi được đặt ra: viết là gì? viết để làm gì? viết cái gì? viết thế
nào? Nhưng quan trọng hơn cả là viết cho ai?
Rõ ràng là những nhà
văn, nam cũng như nữ, nếu không theo trường phái hiện sinh thì truyện của họ được
quảng đại độc giả đón nhận, sách của họ được nhiều người mua đọc vì những tác
phẩm đó đi sâu vào đời thường như hơi thở và người đọc không nhất thiết phải
suy nghĩ khi bỏ sách xuống. Đó là những trường hợp của Nhã Ca, Túy Hồng, Nguyễn
Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, những nhà văn nữ đã một thời làm mưa làm gió
trên văn đàn.
Ở trường hợp Trùng
Dương lại khác. Câu hỏi viết cho ai hầu như có câu trả lời
cũng khác. Sách và truyện của Trùng Dương và các nhà văn hiện sinh khác hình
như đặt nhẹ vấn đề đối tượng độc giả, hay nói khác đi, họ chọn nhóm đối tượng độc
giả hạn chế, những người đọc để suy nghĩ chứ không đọc để đơn thuần giải trí.
Đó cũng là lý do Trùng Dương kém nổi tiếng hơn 4 đồng nghiệp nói ở trên.
Trùng Dương qua nét bút của họa sĩ Chóe
Theo nhà văn Hồ
Nam, “Để có được ‘Mưa không ướt đất’, Trùng Dương phải đem cả cuộc đời
con gái, đem cả tương lai của một cô kiến trúc sư sắp ra trường đánh cược lao
vào cuộc 'cá cược' với tất cả sự đam mê rất là thơ ngây - kết quả, Trùng
Dương đã được sống đến tận cùng cảm giác xác thịt, và phải trả giá, nhưng đã ‘nắm
bắt’ được tác phẩm văn chương. Và như thế, kể ra cũng quá đủ với một người cầm
bút”.
…
“Dù cái mục đích văn
chương của Trùng Dương chỉ là để trả hận để chửi xéo người tình cũ; nhưng
ai cũng phải thừa nhận tác giả ‘Mưa không ướt đất’ có tài văn chương, dám
sống thực, dám viết, dám đem những trải nghiệm bản thân ra giãi bầy với thiên hạ
bằng chữ nghĩa - quả văn tài Trùng Dương đã chinh phục được người đọc”.
Trong Văn học
Miền Nam, Võ Phiến gán cho Trùng Dương danh hiệu “người của
suy tư”. Quả đúng như vậy. Trong số các tác phẩm của 5 nhà văn nữ,
truyện của “người suy tư” bao giờ cũng “khó đọc” nhất vì nó
đòi hỏi người đọc cũng phải suy tư theo lối suy tư của người viết.
Trùng Dương tại Pháp, 2009
Trong Mưa
không ướt đất cái khó đầu tiên của người đọc là khó nhớ tên của quá
nhiều nhân vật xuất hiện ngay từ đoạn đầu: Thư “tính nết cứng cỏi, hơi
lạnh nhạt, mặc dù vẻ dịu dàng của những đường nét trên khuôn mặt và thân hình” và
người tình cũ Cương thì “yếu ớt, hơi giống con gái, mặc dù nhiều lúc
anh tỏ ra là một người trầm tĩnh - thực ra, Cương thiếu tính chất nóng nảy của
một người đàn ông thật sự và vì người anh quá mảnh khảnh”. Thư sống như một
con mèo hoang thì Cương khép mình trong khuôn khổ mực thước, hoàn toàn lệ thuộc
gia đình.
Nhân vật Duẩn có những
suy nghĩ:“…tôi đã gặp nhiều cô, nhưng họ làm tôi thất vọng. Tôi mong lấy được
một người vợ làm cô giáo, làm cô giáo thì hẳn là biết dạy con hơn...”. Mỗi
lần gặp Duẩn, Thư có ý nghĩ “thấy anh béo hơn và giễu hơn - phải chăng
những người béo thường hay giễu? Thư không tin như vậy. Ông cụ nàng béo, nhưng
ông chẳng giễu bao giờ. Lúc nào cũng lầm lì!”
Rồi lại xuất hiện
Khánh, Phấn… có đến hơn nửa tá nhân vật khiến người đọc cứ rối tung lên. Thế
cho nên, đọc Trùng Dương là phải đọc giữa hai dòng chữ (read
between the lines), đọc sự suy tư của tác giả là chính.
Ngôn ngữ trong truyện
của Trùng Dương cũng lạ lẫm. Thư nói chuyện với Duẩn bằng một thứ ngôn ngữ của
lớp người trẻ ảnh hưởng vì lối sống mới và lối suy nghĩ theo kiểu hiện sinh:
“- Nhiều khi
tôi có ý nghĩ giá đừng học, đừng đọc nhiều, mình lại sống dễ hơn. Suy nghĩ lắm
đầu óc đâm trì trệ. Lỡ rồi, đành chịu. Tôi có con, sẽ để nó sống hồn nhiên, như
cây cỏ... Nói vậy, cũng khó làm như mình muốn. Có thể, rồi thế hệ con mình sẽ
khác, không như bọn mình. Nhiều lúc tôi có cảm tưởng thế hệ bọn mình sinh ra để
chịu một cuộc thí nghiệm...
- Thư nói như thể là
Thư sắp có con rồi ấy!
Thư bỗng im, xúc động.
Một lát nàng cười nhẹ:
- Tôi sắp có con thật,
chẳng phải ‘như thể’ đâu.
Duẩn không tin. Thư cảm
thấy không thể không bộc lộ niềm vui vẫn lo âu của mình với Duẩn.
- Không tin tôi nói
thật à? Hai tháng rồi...
Thư nói giọng run
run, nhưng vẫn cố giữ vẻ bình tĩnh. Duẩn nhìn Thư, vẻ ngạc nhiên pha lẫn nét
vui mừng trên khuôn mặt. Anh đặt tay lên bụng Thư giản dị, tự nhiên như Thư là
người yêu của anh, và dường như đó là điều anh mong đợi.
- Thế... sao trông
Thư... tỉnh thế?
Hỏi xong, Duẩn mới thấy
mình có vẻ ngây ngô. Giọng Thư ráo hoảnh, thật nhỏ:
- Không tỉnh, thì say
à?
Thỉnh thoảng Trùng
Dương còn dùng thủ pháp để cho các nhân vật độc thoại. Chẳng hạn như đoạn viết
về Duẩn: “Thực ra, tôi ngao ngán quá đấy thôi, ngao ngán hơn cả là mỗi
bữa cơm tôi về nhà, thấy mâm cơm úp lồng bàn phần tôi trên bàn và mẹ tôi đi với
một trăm hai chục quân [đánh chắn, một loại bài người Bắc hay chơi –
chú thích của NNC], thằng em mười bốn tuổi bỏ đi lang thang.
Chẳng có gì giữ tôi ở
trong gia đình cả. Tôi cũng thiếu một cái điều mà tôi cho là đẹp và đáng theo
đuổi ở ngoài đời. Tôi đi dạy như một cái máy, mê học trò con gái (một cách thầm
kín cố nhiên vì bắt buộc thế) như một cái máy và không thấy điều đó là quan hệ,
lê la các tiệm cà-phê quen tán dóc với tụi bạn như một cái máy, và đây chính là
điều tôi cần. Duẩn nốc cạn ly ba ba, nhìn người con gái đối diện, đôi mắt cận
thị không đeo kính - (Duẩn kỵ đeo kính cận) - hồn buồn bã...”
Đoạn độc thoại trên
khiến người đọc nghĩ đến Buồn nôn (La Nausée) của Jean-Paul
Satre và đoạn đối thoại trước đó có gì đó hao hao giống Franҫois Sagan
trong Buồn ơi chào mi (Bonjour tristesse). Cả hai nhà văn hiện
sinh này đã có tầm ảnh hưởng không nhỏ đến các cây bút niền Nam trong
thời kỳ 1960-1970.
Trùng Dương
Trong tập truyện Lập
đông (1972) gồm nhiều truyện ngắn, Trùng Dương áp dụng nhiều thủ pháp
mới, chẳng hạn như những đối thoại của nhiều người nhưng lại không giải thích ai
nói câu nào, người đọc chỉ biết mỗi lần xuống dòng là ý của một người khác:
“Thèm làm một chuyến
đi xa ghê. Hôm nào phải tổ chức đi một tuần cả bọn chứ?
Một tuần ít quá. Nửa
tháng mới đủ.
Thì cứ đi, nửa chừng,
người nào muốn về cứ việc lẳng lặng về, người nào muốn ở lại thì ở lại.
Đi vài ngày thì cũng
phải thu xếp công việc cả tuần trước…
Đi thì phải đi có
đôi, chứ đi một mình hay mấy thằng với nhau, chán bỏ mẹ!
Mỗi kỳ lập đông mình
đều có một kỷ niệm, không biết kỳ này có gì đây?
Lập đông! Miền Nam làm
quái gì có tiết lập đông mà đòi!
Thì cứ tạm cho là như
vậy đi. Chết ai chưa? Sao khó vậy?
Người ta thường ở một
chỗ và nghĩ và thèm về một chỗ khác…
Lập đông! Nhớ những
ngày lập đông ở ngoài kia chi lạ…”
Lại thêm một thủ pháp
mới nữa: nhân vật trong Giáng sinh bên kia sông cũng là những
người không tên, thay vào đó là Hắn, Nàng, Người bạn, Người đàn bà…
“Để râu trông già
quá, hỉ?
Hắn nói xong cười sực
sực làm cả thân hình rung lên, rồi hắn nghiêm ngay nét mặt lại, vẫn xoa xoa bàn
tay trên những sợi râu, nói:
“Mấy hôm nay, tôi
trông bà quá. Hôm qua có việc đi về Quảng Nam, tôi có tạt qua Hội An đi vơ vẩn
hy vọng gặp bà với cái áo dài màu nâu”.
“Nếu gặp, làm sao anh
nhận ra tôi được?”
Nàng nghịch ngợm hỏi.
“Tự nhiên, tôi nghĩ
là tôi sẽ nhận ra được. Chỉ tại không gặp đó thôi”.
Hắn nói xong rồi lại
bật cười sực sực. Nàng thu hai tay vào áo lên nói một câu không cần thiết:
“Trời lạnh quá. Mưa,
lạnh và khung cảnh ở đây làm tôi nhớ đến miền Bắc. Lâu lắm rồi mới lại sống lại
một Giáng sinh có tiết trời lạnh như thế này. Thực tình thì tôi nhớ rất ít về
nơi tôi đã sinh ra”.
…
“Nàng đã thấy chán ở
một chỗ. Nàng muốn đi đây đó. Nàng bày tỏ ý định đó với một đôi người bạn thân,
lúc rối loạn như thế này, không nên đi làm gì, nhất là lại đi chỉ vì thích, và
theo họ, không ở đâu bằng ở thủ đô. Nàng đáp: Chính vì thế mà nàng muốn đi. Có
nhiều cái nàng muốn thấy, muốn xem, muốn cảm. Để làm gì, chính nàng cũng không
biết. Chỉ biết rằng, nếu phải chôn chân mãi một chỗ thì nàng sẽ cuồng điên lên
mất.
Mỗi ngày với bấy
nhiêu hình ảnh phố xá; với bấy nhiêu những con đường giờ ấy là giờ kẹt xe, bụi
bay mờ mắt cả tâm trí làm con người cáu bẳn hay nhẫn nhịn đến vô hồn; với bấy
nhiêu khuôn mặt bạn hữu tâm tình quen thuộc (mặc dù biết vậy mà vẫn chẳng thể
đóng cửa nằm im trong nhà vùi đầu vào sách vở đôi-khi-bỗng-mất-hết-mọi-vẻ-hào-quang-mầu-nhiệm-của-chúng
– sao không có lúc như vậy chứ; dù sách vở vẫn là người bạn thân yêu nhất của
nàng? Và dù đó là một người tình duyên dáng đáng yêu, sao không khỏi có lúc thấy
chán mứa và mơ tưởng đến những chân trời khác?)”.
Tài viết thư tình của
Trùng Dương cũng khá đặc sắc, cả về lời văn lẫn ý tưởng. Dưới đây là bức thư của
người con gái gửi cho người tình đã chia tay trong truyện ngắn Qua cơn
nắng lửa:
“Miền biển, ngày 29-3
Anh,
Đây là lá thư thứ mấy, không biết nữa, em viết cho anh mà không gửi. Nhưng em cảm thấy không thể không viết cho anh. Đôi khi em thu hết can đảm để bỏ một lá thư vào phong bì, đề tên anh, dán tem và quyết định mang đến bưu điện cùng với những lá thư khác. Nhưng kết quả là em lại trở về với lá thư định gửi cho anh còn lại trong xắc tay. Em lại xé lá thư ra, đọc lại và xếp vào một chỗ. Rút cục, em làm sưu tập chính những lá thư em viết cho anh.
Đôi khi em nghĩ một
cách khôi hài là biết đâu em sẽ trở thành điên như người đàn bà em gặp trên bãi
mỗi ngày và người ta sẽ lục được xấp thư có vết gấp mà không gửi kia, người ta
sẽ đọc, người ta sẽ xuất bản và cuối cùng, chúng đến tay anh không do quyết định
của em để anh chua xót chơi, để anh ân hận chơi. Nhưng, cố nhiên, như em đã
nói, đó chỉ là một ý nghĩ khôi hài thôi.
Mình điên được, đâu
phải dễ, nhất là lại điên vì tình. Vậy mà mình vẫn khổ, vẫn đau, vẫn bị dằn vặt,
ray rứt cho được, mới lạ chứ! Và trong khi đó, mình vẫn có cả chục lý do để biện
minh cho sự căm lặng của tình mình. Buồn cười thật, phải không anh? Và cũng khó
hiểu và khó chịu thật, phải không anh?”
Một trong những thế mạnh
của các nhà văn nữ là vậy. Họ rất giỏi trong việc viết thư tình, nhất là những
khi… thất tình. Cả 5 nhà văn nữ - Nhã Ca, Túy Hồng, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị
Thụy Vũ và Trùng Dương - đều có những bức thư tình ướt át, đau khổ của các nhân
vật nữ mà các nhà văn nam thường không thể nào viết hay hơn.
Đó cũng là một trong
những lý do tại sao các nhà văn nữ chiếm một ngôi vị, dù rất khiêm tốn, trong
làng văn của miền Nam, thời VNCH.
***
Chú thích:
[1] Trùng
Dương, tên khai sinh là Nguyễn Thị Thái, sinh năm 1944 tại Sơn Tây, di cư
vào Nam và lớn lên tại Sài Gòn từ 1954. Nguyễn Thị Thái nổi danh rất sớm, qua
hai sáng tác Vừa đi vừa ngước nhìn và Mưa không ướt đất.
Sau thời gian du học Hoa Kỳ trở về, bà đứng tên Chủ nhiệm báo Sóng Thần
(1971-1975) mà nhóm chủ biên gồm nhà văn Chu Tử và nhà báo Uyên Thao.
Nhật báo Sóng
Thần – đúng với danh xưng của nó – mang đến những đợt sóng dư luận chấn
động miền Nam, như việc khai quật những xác nạn nhân chôn vùi tập thể ở Huế và
Quảng Trị trong mùa xuân 1968, phong trào chống tham nhũng của Linh mục Trần Hữu
Thanh, phong trào đòi tự do báo chí với những đợt công kích Luật 007, ngày ký
giả đi ăn mày, và nhất là những cuộc tịch thu báo mới in xong, không cho phát
hành, nhằm bóp chết sự sống các cơ quan ngôn luận chống chính quyền. Ðó là chưa
nói đến việc truy tố chủ nhiệm và các ký giả, nhà văn ra tòa.
Dù bị áp bức, trù dập, Sóng
Thần không chịu khuất phục trước thủ đoạn và sự trấn áp của nhà
cầm quyền lúc đó. Trùng Dương, Uyên Thao cùng nhóm chủ biên Sóng Thần (nhà
văn Chu Tử đã rút lui vì lý do riêng) tiếp tục cuộc tranh đấu cho tự do báo
chí.
Trùng Dương là tác giả
của nhiều truyện ngắn, truyện dài, biên khảo, phóng sự, minh hoạ, và một vở kịch
ba màn, Các con tôi đã về (xuất bản tại Hoa Kỳ năm 1978). Rời
Việt Nam từ 1975, Trùng Dương tốt nghiệp cử nhân và cao học ngành báo chí, công
quyền và các vấn đề quốc tế, Đại học Tiểu bang California, Sacramento, làm
phóng viên cho tờ The Mountain Democrat, Placerville, Calif., từ
1991-1993; sau đó về cộng tác với nhật báo The Record, Stockton,
Calif., làm copy editor rồi trưởng thư viện tin tức (chief news librarian) từ
1993 tới khi về hưu năm 2006.
Các tác phẩm văn
chương đã xuất bản trước 1975:
Văn xuôi:
- Vừa đi vừa ngước
nhìn,
tập truyện (Khai Trí, 1966);
- Mưa không ướt đất, tập truyện
(Văn, 1967);
- Cơn hồng thủy và
bông hoa quỳ (Trình
Bầy, 1968);
- Chung cư, tập truyện
(Tân Văn, 1971);
- Một cuộc tình, tập truyện
(Tân Văn, 1972);
- Lập đông, tập truyện
(Văn, 1972);
- Thành trì cuối
cùng,
truyện dài (đăng từng kỳ trên nhật báo Thần Phong, Saigòn, khoảng
1970-71, chưa in thành sách);
- Những người ở lại, truyện dài
(đăng từng kỳ trên nhật báo Sóng Thần, 1973, chưa in thành
sách).
Văn dịch:
- The Prophet (Kahlil
Gibran, đăng rải rác trong một số tạp chí, 1968-1970);
- Ngàn cánh hạc (Kawabata
Yasunari, Trình Bầy, 1969);
- Đường về Trùng
Khánh (Han
Suyin, chung với Hồ Hải Nguyễn Vũ Thiện, 1970);
- Người đàn bà
trong cồn cát (Kobo
Abe, An Tiêm, 1971).
[2] Chủ nghĩa
Hiện sinh: Thuật ngữ nói về nghiên cứu của một nhóm các triết gia cuối
thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Họ tuy khác nhau về học thuyết nhưng có chung niềm
tin rằng tư duy triết học xuất phát từ chủ thể con người — không chỉ là chủ thể
tư duy, mà là cá thể sống, cảm xúc, và hoạt động. Trong chủ nghĩa hiện sinh, xuất
phát điểm của cá nhân được đặc tả bởi cái từng được gọi là “thái độ hiện
sinh” (the existential attitude), hay một tình trạng mất định hướng và
bối rối khi đứng trước một thế giới có vẻ như vô nghĩa và phi lý.
Soren Kierkegaard và
Friedrich Nietzsche là hai nhà triết học được xem là nền tảng cho chủ nghĩa hiện
sinh. Họ chú trọng vào những sự trải nghiệm chủ quan của con người hơn những chân
lý khách quan của khoa học, cái mà họ coi rằng quá xa cách để hiểu được những
trải nghiệm của con người.
Sau chiến tranh thế
giới lần thứ hai, chủ nghĩa hiện sinh trở thành một phong trào triết học và văn
hóa nổi tiếng, chủ yếu thông qua hai ngòi bút Pháp nổi tiếng: Jean Paul Sartre
và Albert Camus. Chủ nghĩa hiện sinh đã từng bước trở thành một trào lưu của
triết học châu Âu trong những thập kỷ đầu của thế kỷ 20.
Đến cuối Đệ nhị thế
chiến, nó trở thành một phong trào được biết đến rộng rãi, đặc biệt qua danh tiếng
và các tác phẩm của Jean-Paul Sartre cùng một số các tác giả khác ở Paris sau
giải phóng. Các tác phẩm của họ chú trọng vào các chủ đề như "nỗi sợ, sự
buồn chán, sự lạc lõng trong xã hội (social alienation), sự phi lý, tự do, cam
kết (commitment), và hư vô" như là nền tảng của sự hiện sinh con người.
Trên tạp chí Bách
Khoa, dưới bút hiệu Trần Hương Tử, linh mục Trần Thái Đỉnh đã viết một loạt
bài giới thiệu chủ nghĩa hiện sinh, về sau được tập hợp thành chuyên khảo Triết
học hiện sinh (NXB Thời mới, Sài Gòn, 1967, tái bản 1968). Văn phong
khúc chiết, cách dẫn giải linh hoạt của một ngòi bút am hiểu và có chủ kiến đã
khiến cuốn sách của Trần Thái Đỉnh vượt ra ngoài ranh giới trường ốc, đến với
đông đảo bạn đọc và có một tác động không nhỏ thời ấy. Sau khi trình bày một
cái nhìn tổng quan về chủ nghĩa hiện sinh, những đề tài và hai ngành chính của
nó, tác giả đã đi sâu phân tích quan niệm của Kierkegaard, Nietzsche, Husserl,
Jaspers, Marcel, Sartre và Heidegger.
Nếu Trần Thái Đỉnh
chưa chú ý thích đáng đến vai trò của Heidegger trong sự phát triển của tư tưởng
hiện sinh, thì Lê Tôn Nghiêm – lúc đó cũng là một linh mục và giáo sư Đại học
Văn khoa Sài Gòn – lại dành một sự quan tâm sâu sắc cho triết gia này.
Ông đã viết hai công trình khá dày dặn để trình bày triết học Heidegger: Heidegger
trước sự phá sản của tư tưởng Tây phương (NXB Lá Bối , Sài Gòn,
1970); Đâu là căn nguyên tư tưởng hay con đường triết lý từ Kant đến
Heidegger (NXB Trình Bầy, Sài Gòn, 1970).
Ở cuốn thứ nhất, tác
giả giới thiệu Heidegger như là lời giải đáp cho những vấn nạn và bế tắc của
triết học phương Tây hiện đại. Ở cuốn thứ hai, trong một phối cảnh rộng hơn
theo tiến trình tư tưởng từ thời Cận đại, Lê Tôn Nghiêm đã cho thấy những đóng
góp của Heidegger trong việc trả lời những câu hỏi của Kant trong Phê
phán lý tính thuần tuý về vấn đề con người (Tôi có thể biết gì? Tôi phải
làm gì? Tôi được phép hy vọng gì?), từ đó tiến đến giải quyết câu hỏi then chốt
làm nền tảng cho việc trả lời ba câu hỏi trên: “Thế nào là tính thể con
người”, nhằm đặt nền móng cho khoa nhân thể học (tức nhân loại học,
anthropologie).
[3] Jean-Paul
Charles Aymard Sartre (1905 – 1980) là nhà triết học hiện sinh, nhà soạn
kịch, nhà biên kịch, tiểu thuyết gia và là nhà hoạt động chính trị người Pháp.
Ông là một trong những nhân vật nòng cốt trong hệ thống triết học của chủ nghĩa
hiện sinh, và một trong những nhân vật có ảnh hưởng lớn trong nền triết học
Pháp thế kỷ 20 và chủ nghĩa Marx.
Tác phẩm của ông cũng
đã ảnh hưởng đến xã hội học, lý thuyết phê bình, lý thuyết hậu thuộc địa, phê
bình văn học, và vẫn còn tiếp tục ảnh hưởng đến các ngành này. Sartre cũng có mối
quan hệ với nhà lý thuyết nữ quyền nổi tiếng là Simone de Beauvoir. Được trao
giải Nobel Văn học vào năm 1964 nhưng ông từ chối, ông nói rằng ông luôn từ chối
những danh hiệu chính thức và “một nhà văn không nên cho phép mình trở
thành người của một tổ chức”.
Jean-Paul Sartre là một trong số các nhà văn coi quan điểm triết học là trung tâm của hoạt động sáng tạo. Tác phẩm triết học chính L'Être et le Néant (Tồn tại và hư vô, 1943) là sự tổng hợp quan điểm chính của ông về cuộc sống.
Chủ nghĩa
nhân đạo hiện sinh mà Sartre truyền bá trong tiểu luận nổi tiếng L'existentialisme
est un humanisme (Chủ nghĩa hiện sinh là chủ nghĩa nhân đạo)
cũng được thể hiện rõ trong tiểu thuyết Les chemins de la liberté (Những
con đường của tự do, 1945-1949).
Từ giữa thập niên
1940, ông nghiên cứu chủ nghĩa Marx, thành lập tạp chí Les temps
modernes (Thời mới), tuyên truyền các ý tưởng cách mạng, hoạt động
xã hội. Sartre nhiệt tình ủng hộ các cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân
Algérie, Trung Quốc, Cuba, cùng với Bertrand Russell thành lập Ủy ban
chống tội ác chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam.
Những năm cuối đời
Sartre bị mù, không viết được nhưng ông trả lời vô số phỏng vấn, thảo luận các
vấn đề chính trị với bạn bè. Sartre cũng được biết đến nhiều với tư cách một
nhà viết kịch phi lý. Ông nổi tiếng với các vở kịch Les Mouches (Ruồi)
và Huis clos (Phía sau cửa đóng). Ngoài ra, Sartre còn
viết phê bình văn học và các bài nghiên cứu về Charles Baudelaire, Jean Genet.
Cuốn sách viết về thời niên thiếu của ông, Les mots (Lời
nói), được xuất bản năm 1964.
La Nausée (Buồn nôn,
1938) là một trong những tác phẩm đáng chú ý nhất của ông. Mặc dù có một số ý
kiến rằng nó chỉ là một trò chơi triết học ngụy trang dưới hình thức tiểu thuyết,
nhưng sức lôi cuốn và hấp dẫn của nó là không thể phủ nhận. Câu chuyện có vẻ
như là một chuỗi tự sự tiêu cực và buồn chán, chứa đựng đầy nỗi ngờ vực và trĩu
nặng suy tư về tồn tại, hư vô.
Chủ nghĩa nhân đạo hiện
sinh mà J. P. Sartre truyền bá trong tiểu luận nổi tiếng Chủ nghĩa hiện
sinh là chủ nghĩa nhân bản cũng được thể hiện rõ trong tiểu thuyết bộ
ba Les chemins de la liberté (Những con đường của tự do,
1945-1949). Tác phẩm nói về các nhân vật bị dằn vặt vì những lựa chọn, những
nguyên tắc, những đòi hỏi và sự khao khát tự do; và chính trong hành trình đến
với tự do hay chối bỏ tự do là điều kiện cho sự hiện hữu của các nhân vật này.
Tác phẩm này là một tiếp cận ít lý thuyết và nhiều thực tế hơn, giúp cho nhiều
người hiểu rõ chủ nghĩa hiện sinh.
Jean-Paul Sartre
[4] Franҫois
Sagan (1935 – 2004) tên thật Franҫois Quoirez, là một hiện tượng độc
đáo bậc nhất của văn đàn Pháp thế kỷ XX. Tác phẩm đầu tay Buồn ơi chào
mi (Bonjour tristesse) được in vào năm 1954 khi bà mới 19 tuổi đã gây
tiếng vang, ngay năm đầu tiên sách đã được ấn hành tới cả triệu bản và nhanh
chóng được dịch ra 15 thứ tiếng. Suốt mấy chục năm sáng tác sau đó, không khi
nào Sagan còn gặt hái được một thành công tương tự.
Sau khi tác phẩm hoàn
thành, Sagan gửi bản thảo cho hai nhà xuất bản Plon và Julliard. Cuối cùng thì
phần thắng đã thuộc về nhà xuất bản Julliard khi đại diện của nhà xuất bản chỉ
đọc bản thảo trong một đêm và ngay sáng hôm sau thì quyết định đưa in. Với chưa
đầy 200 trang, cuốn sách ngay lập tức gây chấn động dư luận nước Pháp, nhất là
giới trẻ. Song song với việc cuốn sách được phát hành với số lượng kỷ lục (tới
cả triệu bản trong vòng một năm), nữ tác giả trẻ cũng đã bị một số nhà phê bình
bảo thủ gán cho danh hiệu: "người phát ngôn của một thế hệ hư hỏng" và
là "kẻ đề cao chủ nghĩa hưởng lạc".
Xinh đẹp và thông
minh, nhưng với lối sống đầy cá tính, ưa thích "nổi loạn" của mình,
Sagan đã gặp nhiều trắc trở trong cuộc sống riêng tư. Năm 1958, Sagan kết hôn với
Guy Schoeller - một người lớn gấp đôi tuổi cô và đang hoạt động trong lĩnh vực
xuất bản. Hai năm sau họ ly dị. Năm 1962, Sagan tái hôn với nhà thiết kế đồ gốm
người Mỹ Bob Westhof. Họ có với nhau một cậu con trai nhưng chỉ một năm sau, cuộc
hôn nhân cũng lại kết thúc bằng một vụ ly dị.
Khi chia tay người chồng
đầu tiên, Sagan đã tâm sự với báo giới: “Thường thì phải 4 giờ sáng tôi
mới lên giường, còn chồng tôi thì thức dậy lúc 7h. Chúng tôi đã suy nghĩ nhiều
rồi. Nói chung không thể kéo dài cuộc sống thế này mãi được”. Với người chồng
thứ hai, năm 1963, khi ra tòa, Sagan đã cho biết lý do họ chia tay nhau: “Ông
ấy thích đồ gốm hơn vợ’.
Cho tới thời điểm trước
khi mất, Francoise Sagan đã sáng tác trên 30 cuốn truyện và 9 vở kịch. Có những
tác phẩm đã được dựng thành phim, tuy nhiên, dù đã là một trong những nhà văn
Pháp nổi tiếng trên thế giới nhưng chưa bao giờ Sagan đoạt bất kỳ giải thưởng
văn học chính thức nào.
Franҫois Sagan
***
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét