TÔ TẮC TRUYỆN
Tô Tắc tự Văn Sư, người
quận Phù Phong huyện Vũ Công. Thời trẻ vì có học vấn và phẩm hạnh nên có tiếng
tăm, được đề cử Hiếu liêm và Mậu tài, công phủ cho vời, đều không tới. Sau bắt
đầu làm Thái thú Tửu Tuyền, rồi chuyển đến An Định, Vũ Đô, ở đâu cũng có uy
danh.
Ngụy thư chép: Tắc là
người cương trực, ghét kẻ ác, thường muốn bắt chước làm người như Cấp Ảm(1).
Ngụy lược chép: Tắc
trước đó mang họ Trữ, năm Hưng Bình trung, Tam Phụ có loạn, đói khát cô cùng,
đi tránh nạn ở đất bắc. Làm khách trọ ở An Định, nương nhờ kẻ nhà giàu là Sư Lượng.
Lượng đãi ngộ Tắc không xứng, Tắc bùi ngùi than rằng: "Cái thời thiên hạ
yên định, sẽ chẳng còn lâu nữa, tất ta về làm chức quận thú, sẽ nhún mình tiếp
đãi bọn học trò." Về sau Tắc cùng với bọn Cát Mậu ở Phùng Dực trốn ở trong
núi Thái Bạch phía nam quận. Lúc Tắc ra làm Thái thú An Định, thì bọn Sư Lượng
đều muốn chạy trốn, Tắc nghe tin, sớm sai người đến phân tích rõ ràng, và dùng
lễ báo đáp lại Lượng.
Thái tổ chinh phạt
Trương Lỗ, đi qua quận ấy, gặp Tắc rất hài lòng, sai Tắc làm quân hướng đạo. Lỗ
bị phá, Tắc phủ dụ yên định được các rợ Đê ở Hạ Biện, thông đường đi Hà Tây, được
chuyển sang làm Thái thú Kim Thành. Bấy giờ sau cơn tang loạn, dân chúng lưu li
tan tác đói khát cùng cực, số hộ khẩu hao tổn, Tắc vỗ về rất cẩn trọng. Bên
ngoài chiêu mộ phủ dụ rợ Khương Hồ, thu được trâu và dê của họ, nuôi dưỡng kẻ bần
cùng người già lão, trong vòng tuần trăng, dân lưu tán đều quay về, thu được mấy
nghìn nhà. Tắc bèn ban rõ lệnh cấm, kẻ nào phạm phải lập tức giết ngay, người
theo lệnh tất có thưởng. Tắc tự mình dạy dân cấy trồng, năm ấy mùa màng bội
thu, bởi thế người theo về nương cậy ngày một đông. Lý Việt ở Lũng tây làm phản,
Tắc thống suất người Khương Hồ vây đánh Việt, Việt lập tức xin quy phục. Thái tổ
băng hà, người ở Tây Bình là Khúc Diễn làm phản, xưng là Hộ Khương hiệu úy. Tắc
thống suất quân binh thảo phạt, Diễn sợ, xin hàng. Văn Đế vì cái công ấy, gia
thêm cho Tắc chức Hộ Khương hiệu úy, ban cho tước Quan nội hầu.
Ngụy danh thần tấu
chép tờ lệnh của Văn Đế hỏi Thứ sử Ung châu là Trương Ký rằng: "Tô Tắc trước
đây đảm nhiệm chức vụ Thái thú Kim Thành một thời gian ngắn, đã có công vỗ về
bình trị dân Di, nghe nói lại xuất quân sang tây yên định vùng sông Hoàng, gây
dựng thanh thế cho Hà Tây, ta rất khen ngợi. Cái công lao của Tắc, có thể ban
thêm tước vị và thực ấp được hay chăng? Phong tước là việc quan trọng, cho nên
ta đem ra hỏi khanh. Khanh hãy bí mật trình bày ý của mình, và chớ có tuyên bố
lộ tin tức ra bên ngoài." Ký đáp rằng: "Quận Kim Thành, trước đây bị
Hàn Toạn giết chóc áp bức, người bị chết kẻ lưu vong, hoặc chạy trốn sang chỗ
Nhung Địch, hoặc bị hãm hại trong vòng cướp bóc, số hộ còn lại chẳng đầy năm
trăm. Tắc đến nhận chức, bên trong phủ dụ chỗ điêu tàn, bên ngoài tụ họp kẻ ly
tán, đến nay số hộ đã có hơn nghìn. Lại có các chủng tộc rợ Khương ở Lương
Thiêu, trước đây giúp Toại cùng làm ác, sau khi Toại chết gục, đã vượt ra khỏi
thành luỹ. Tắc trước sau chiêu dụ vỗ yên, hơn ba nghìn bộ lạc theo đến quận, Tắc
đều cấp chẩn tỏ ân uy, phát huy được hiệu dụng của chức quan. Bọn Khúc Diễn ở
Tây Bình khởi xướng tạo gian mưu, Tắc lại xuất quân, soi xét chỗ yếu hại của
chúng, Diễn lập tức theo mệnh đưa người đến làm con tin, giặc Lương phá sạch. Tắc
đã có công lao cứu giúp dân, lại có tài hoà Nhung Địch, hết sức tiết tháo trung
trinh. Gặp được bậc chân chúa thánh minh, kẻ có công lao tất được biên chép lại.
Nếu Tắc được ban thêm tước ấp, thực đủ để khuyến khích kẻ trung thần, đã hết
lòng gắng sức vì phong tục vậy."
Về sau Diễn lại câu kết
với các quận lân bang làm loạn, Trương Tiến ở Trương Dịch bắt Thái thú Đỗ
Thông, Hoàng Hoa ở Tửu Tuyền không vâng lệnh Thái thú Tân Cơ, Tiến và Hoa đều tự
xưng là Thái thú để hưởng ứng quân phản loạn. Lại có ba tộc người Hồ ở Vũ Uy
cùng hợp nhau vào cướp bóc, giao thông bị cắt đứt. Thái thú Vũ Uy là Quán Khâu
Hưng cáo cấp với Tắc. Bấy giờ các hào kiệt ở Ung, Lương đều nổi lên cướp bóc ở
xứ Khương Hồ theo bọn Tiến, người trong quận đều cho rằng Tiến mạnh chẳng thể
đương nổi. Lại thêm tướng quân Hác Chiêu, Ngụy Bình trước đấy đều đóng đồn ở
Kim Thành, cũng nhận chiếu đánh giặc nhưng không sang phía tây được. Tắc bèn
triệu kiến các quan lại đứng đầu trong quận và bọn Hác Chiêu cùng với các đầu
lĩnh người Khương Hồ bàn tính rằng: "Nay giặc tuy đông đảo, nhưng đều mới
tập hợp, hoặc bị cưỡng bức phải theo, vị tất đã đồng lòng; ta nhân sơ hở mà
đánh chúng, người thiện kẻ ác tất chia lìa nhau, chia lìa thì tất quy phục ta,
ta thêm quân mà bên kia hao tổn vậy. Khi quân ta đã thật đông, thì khí thế lực
tăng gấp bội, ta thống suất quân tiến lên đánh dẹp, phá chúng tất xong vậy. Nếu
đợi đại quân đến, cầm giữ nhau lâu ngày, người thiện không quy phục ta, tất hợp
tác với kẻ ác, thiện ác đã kết hợp, hình thế khó mà bỗng chốc chia lìa. Dẫu đã
có chiếu mệnh, ta làm trái mà hợp lẽ quyền biến, chuyên quyền cũng có thể được
vậy." Vì thế bọn Chiêu nghe theo, bèn phát binh cứu Vũ Uy, thu hàng ba tộc
người Hồ ở đó, rồi cùng với Hưng đánh Tiến ở Trương Dịch. Diễn nghe tin, đem ba
nghìn quân bộ kỵ nghênh đón Tắc, Từ lại đến giúp quân đội, nhưng thật ra muốn
làm kế quyền biến. Tắc dụ dỗ cùng tương kiến, nhân đó chém hắn, rồi ra quát mắng
quân lính, đảng giặc đều tan chạy. Tắc bèn cùng với chư quân vây Trương Dịch,
phá được, chém Tiến và dư đảng của hắn, chúng đều ra hàng. Diễn thua quân, Hoa
sợ, buông thả những kẻ bị bắt và xin hàng, Hà Tây binh định. Tắc liền quay về
Kim Thành. Được tiến phong tước Đô đình hầu, hưởng thực ấp ba trăm hộ.
Tắc được trưng triệu
về bái làm Thị trung, cùng với Đổng Chiêu là đồng liêu. Chiêu từng gối đầu lên
đầu gối Tắc mà ngủ, Tắc đẩy đầu Chiêu ra, nói: "Đầu gối của Tô Tắc, chẳng
phải nịnh cái đầu của người ta vậy." Khi trước, Tắc cùng với Lâm Tri hầu
là Thực nghe nói Ngụy thị thay nhà Hán, đều phanh áo ra đau lòng mà khóc, Văn đế
nghe nói Thực như thế, nhưng không nghe nói đến Tắc. Khi đế ở Lạc Dương, từng
ung dung nói rằng: "Ta ứng vận trời mà thụ thiện, nhưng nghe nói có kẻ
khóc lóc, sao vậy?" Tắc cho là mình bị hỏi, râu ria đều vểnh cả lên, toan
dùng chính luận để đối đáp. Quan Thị trung là Phó Tốn bấm móng tay vào Tắc nói:
"Chẳng phải là nói ngài vậy." Vì thế Tắc liền dừng lại.
Nguỵ lược chép: Theo
lễ xưa, quan Thị trung là kẻ thân cận được coi xét việc sinh hoạt hàng ngày của
vua, cho nên tục gọi là 'Chấp hổ tử'. Ban đầu có người đồng quận với Tắc là Cát
Mậu, bấy giờ làm ra làm huyện lệnh huyện Phủ Lịch, được thăng làm Nhũng tán. Mậu
gặp Tắc, giễu cợt rằng: "Đường tiến thủ của sĩ đồ chẳng phải dừng lại ở chức
Chấp hổ tử." Tắc cười nói: "Ta chẳng thể bắt chước ngươi cung kính
thong thả ruổi xe hươu được vậy." Khi trước, Tắc ở Kim Thành, nghe nói Hán
đế truyền ngôi vị, cho là vua đã băng hà, bèn phát tang; sau nghe nói vua còn sống,
bởi vì không xét được rõ ràng, mới có ý lặng yên. Lâm Tri hầu Thực tự thương cảm
là có lỗi với ý muốn của Tiên đế, cũng oán giận cảm kích mà khóc. Sau này Văn đế
xuất du, nghĩ lại hận Lâm Tri, cho nên bảo tả hữu rằng: "Nhân tâm không
hoà, nên lúc ta lên ngôi, trong thiên hạ có kẻ khóc to." Lúc ấy kẻ bầy tôi
đi theo biết được lời Đế nói, có người phát ngôn ra, nên Tắc cho là nói mình. Tắc
muốn xuống ngựa tạ lỗi. Thị trung Phó Tốn trố mắt nhìn Tắc, Tắc bèn tình ngộ.
Một đoạn dưới chưa thể
dịch nổi (có bác nào giúp được chăng?)
孙盛曰:夫士不事其所非,不非其所
,趣舍出处,而岂徒哉!则既策名新,委质异代,而方怀二心生忿,欲奋
爽言,岂大雅君子去就之分哉?诗云"士也罔极,二三其德。"士之二三 犹丧妃偶,况人臣乎?
Văn đế hỏi Tắc rằng:
"Trước kia ngươi phá Tửu Tuyền, Trương Dịch, thông sứ với Tây Vực, quận
Đôn Hoàng dâng biếu một viên ngọc châu lớn dài một tấc, ngươi có thể xin thêm
được không?" Tắc đáp rằng: "Nếu bệ hạ làm cho giáo hoá thấm khắp
Trung Quốc, ân đức truyền tới nơi sa mạc, dù chẳng cầu thì châu báu cũng tự đến,
chẳng đáng quý lắm sao." Đế lặng yên. Về sau Tắc theo Đế đi săn, chốt chuồng
thú bị mở ra, mất một con hươu, Đế cả giận, ngồi trên hồ sàng(2) rút đao ra,
cho bắt hết bọn đốc lại, sắp đem chém chúng. Tắc khấu đầu nói: "Thần nghe
rằng bậc thánh vương đời xưa chẳng vì cầm thú mà hại người ta, nay bệ hạ đang
hưng thịnh cái giáo hoá của Đường Nghiêu(3), mà vì việc săn bắn làm vui mà sát
hại nhiều quan lại, ngu thần cho rằng không nên. Thần bạo dạn lấy cái chết để cầu
xin!" Đế nói: "Khanh, là kẻ bầy tôi thẳng thắn vậy." Rồi xá tội
hết cho bọn ấy. Nhưng vì thế mà bị Đế kiêng sợ. Năm Hoàng Sơ thứ tư, Tắc bị
giáng chức làm Đông Bình tướng. Chưa đến nhận chức, bị bệnh chết ở trên đường,
được ban thuỵ là Cương hầu. Con Tắc là Di nối tự, không có con nối, em là Du được
tập tước. Du, năm Hàm Hi trung làm quan Thượng thư.
Du tự Hưu Dự, từng trải
qua chức vị Thái thường Quang lộc đại phu, thấy nói ở Tấn bách danh quan. Sơn
Đào khải sự(4) khen Du là người thực sự trung hậu và có trí mưu.
Thần Tùng Chi xét con
của Du là Thiệu, tự Thế Tự, làm thầy của Ngô vương. Vợ của Thạch Sùng(5), là
con gái của anh trai Thiệu. Thiệu có thơ ở Kim Cốc tập. Em của Thiệu là Thận,
làm tả Vệ tướng quân.
Chú thích:
(1) Cấp Ảm tự Trường Nhụ, người quận Bộc Dương (nay thuộc
tỉnh Hà Nam), là danh thần đầu thời Tây Hán, xuất thân từ gia tộc thuộc hàng
danh môn, bảy đời làm công khanh đại phu, bản thân từng trải nhiều chức vụ, như
Thái tử tẩy mã, Yết giả, Huỳnh Dương lệnh, Thái thú Đông Hải, sau dự vào hàng Cửu
Khanh; là người nghĩa hiệp nổi tiếng, nhân dân rất quý mến.
(2) Hồ sàng là dụng cụ giống như cái ghế xích đu vừa nằm
vừa ngồi, có thể gấp lại được.
(3) Thời thịnh trị của vua Nghiêu, vua Thuấn.
(4) Sơn Đào, tự Cự Nguyên, là một người trong Trúc Lâm thất
hiền, người thời Tây Tấn, quê ở quận Hà Nội huyện Hoài, rất giỏi học thuyết
Lão, Trang, giao du với Kê Khang, Nguyễn Tịch. Khi Tư Mã Ý và Tào Sảng tranh
quyền, ông giấu mình không tham gia vào vụ việc. Tư Mã Ý chấp chính, cử ông làm
Tú tài, Lang Trung, rồi thăng làm Thượng thư bộ Lang. Thời Tư Mã Viêm, làm Đại
hồng lư, rồi Thị trung, Lại bộ Thượng thư, Thái tử Thiếu phó, tả Bộc xạ. Rất có
tài bình luận, nên được người đời gọi là 'Sơn Đào khải sự'.
(5) Thạch Sùng, tự Quý Luân, làm văn học gia thời nhà Tấn,
nổi tiếng là người đẹp trai, thời nhỏ có tên là Tề Nô. Năm Nguyên Khang nguyên
niên, làm chức Thứ sử Kinh châu, giầu có không ai lường được. Năm Vĩnh Khang
nguyên niên, bị vu là đồng đảng của Tư Mã Doãn, bị giết, gia sản bị tịch thu. Lại
có một sách khác nói rằng Sùng trải các chức Thái phó, Chinh lỗ tướng quân,
Giám quân Từ Châu, trấn thủ Hạ Bi, rồi làm Vệ uý, Sùng siểm nịnh tên quý thích
là Giả Mật. Lúc Giả Mật bị bãi miễn chức quan, Sùng cũng bị bãi chức, của cải mất
hết.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét