Kim Thánh Thán (Jin Shengtan)
levinhhuy
Kim
Thánh Thán 金聖歎
(1608-1661) tên thật Trương Vị, sau đổi thành Kim Nhân Thụy, tự là Thánh Thán,
hiệu Côn Bằng Tán Sĩ. Ông sinh vào cuối Minh đầu Thanh, quê quán Ngô huyện
thuộc Tô Châu. Là nhà văn, nhà phê bình trứ danh của Trung Hoa.
Kim
Thánh Thán sinh năm 1608, tuổi thơ sống trong sự sung túc, sau khi cha mẹ mất
sớm thì gia cảnh đi xuống. Tính tình ông cuồng phóng vô cương. Sau khi đổi tên
thành Kim Nhân Thụy đã đỗ đầu khoa thi, nhưng vì lúc ấy nhà Minh bị diệt nên
ông bỏ không ra làm quan, lui về lấy việc đọc và viết sách làm thú.
Năm
Thuận Trị thứ 18 (1661), Thanh triều ra chiếu đến Giang Tô, lệnh các quan từ
tuần phủ trở xuống đều phải tới phủ trị. Nhân dịp này hơn trăm tú tài tụ họp để
tố cáo những việc thu lương nhũng lạm của viên lệnh huyện Nhậm Duy Sơ. Tuần phủ
Châu Quốc Trị cấu kết với Nhậm, bắt giam luôn 18 người cầm đầu bọn thư sinh.
Hôm sau các tú tài đến Văn miếu kêu khóc, bị bắt thêm 30 người, trong đó có Kim
Thánh Thán. Nhân lúc Giang Nam đang có nạn giặc cướp hoành hành, các tú
tài này đều bị khép tội đồng lõa thổ phĩ, lệnh tịch biên gia sản và trảm lập
quyết cả bọn. Khi ấy, Kim Thánh Thán 53 tuổi.
Công trình:
Kim
Thánh Thán sở học tinh thâm quảng bác. Thạo Dịch lý lại thông kinh Phật, ông
thường dùng Phật học để chú thích Nho, Lão; khi bình văn hay chen thêm Thiền lý
vào để luận. Thánh Thán phê bình nhiều cổ thư, đề cao Sử ký, Trang Tử, Ly Tao, Đỗ thi,
Thủy Hử và Tây Sương là “Lục tài tử thư” (nhưng chỉ mới phê
bình được hai tác phẩm sau và một phần thơ Đỗ Phủ). Ngoài ra, ông còn bình
chú Tả truyện, Đường tài tử thư và
nhiều tác phẩm kinh điển khác.
Thành
tựu lớn của Thánh Thán là phê bình văn học, ông tập trung làm sáng tỏ nội dung
tư tưởng của tác phẩm, nhân đó bàn rộng ra chính sự, nêu quan điểm xã hội của
mình. Ông chỉ trích “tội phản loạn”, cho Thủy hử là có tính ác; nhưng cũng đồng
cảm với những tai ách của dân lành, căm ghét tham quan ô lại kéo bè kết đảng
hủy hoại triều cương, khiến 108 hảo hán kia phải bất đắc dĩ tìm vào thủy bạc,
trở thành anh hùng phản kháng. Bình Thủy
hử, ông bài bác ngu trung; phê Tây sương, ông đề cao tự do luyến ái, cho
đó là “thiên địa diệu văn”. Ông tiếp thu tư tưởng hư vô của Phật giáo, xem vạn
sự chỉ là huyễn mộng; tuy nhiên, ông lại đối mặt với thực tế, và siêng năng trứ
tác. Trong ông là cả bầu mâu thuẫn đối chọi xâu xé.
Lối
phê bình văn học, phân tích tác phẩm của ông độc đáo. Bình thơ Đường, ông bác
bỏ lối kết cấu khai thừa chuyển hợp, đề xướng lối phân bài thơ làm hai “giải”
để thưởng thức. Theo lối này, bài bát cú sẽ bị tách thành 2 bài tứ tuyệt độc
lập, và tiêu chí ông đưa ra là nếu 2 bài tách ra đó có thể đứng riêng và vẫn
liên quan mật thiết nhau mới xứng là thơ hay [1]. Bình Thủy hử, ông có nhiều
phát hiện ý tại ngôn ngoại của tác giả, như vạch ra Tống Giang là kẻ gian hùng
bá đạo. Bình Tây
sương, ông chỉ ra những thủ pháp như “vén mây nẩy trăng”, “lựa khớp
lắp mộng”, v.v… Từ đó, ông đề xuất và đúc kết kinh nghiệm trong nghề; người
thích viết lách, nếu chịu khó đọc phần bình Tây sương của Thánh Thán có thể thu
được nhiều kinh nghiệm quý.
Không
chỉ bình luận, ông còn hiệu đính, cải sửa nguyên tác, biên tập câu cú, khiến
tác phẩm trở nên hoàn thiện. Thủy Hử có nhiều chỗ đã được ông biên tập nâng cao
như thế. Như ở hồi 22, trong nguyên tác, Võ Tòng khi lên đồi Cảnh Dương uống 5
lượt rượu, mỗi lượt 3 chén, tổng cộng 15 chén rượu. Cho rằng vẫn chưa đủ “đô”,
Côn Bằng tán sĩ bèn khui thêm hũ rượu, đãi Võ đô đầu thêm lượt nữa, thành
18 chén. Hoặc ở hồi thứ 25, nhờ ngòi bút nhuận sắc của ông mà cuộc tình vụng
trộm của Phan Kim Liên với Tây Môn Khánh trở nên sinh động và kỳ thú hơn hẳn
bản gốc. Ông xác định 50 hồi sau của Thủy
hử là đâm bang vớ vẩn, bèn thẳng tay cắt bỏ, rồi viết thêm một
hồi về giấc mộng kinh hoàng của Lư Tuấn Nghĩa (mơ thấy 108 anh hùng đều bị
giết, và giữa trời xuất hiện 4 chữ “thiên hạ thái bình”), lấy đó làm hồi kết
[2]. Với Tây sương ký,
cho rằng quyển 5 của kịch này là ngụy tác, không phải bút pháp của Vương Thực
Phủ, ông cũng cắt nốt và lấy chương “Tan mộng” làm hồi kết cho kịch [3].
Về
thơ, ông có tập bản thảo Trầm
Ngâm Lâu thi tuyển còn được lưu truyền.
Ảnh hưởng:
Tài
bình văn của ông được người đời ngưỡng mộ và truyền tụng. Một bông hoa dại, qua
lời bình của Thụy Nhân tiên sinh bỗng như được phun sương giữa nắng, cũng tỏa
bảy sắc cầu vồng. Các hiệu sách do đó vay mượn tên ông đề vào sách để nâng tác
phẩm thành “tài tử thư”, và bọn phê bình gia cũng đua nhau mô phỏng bút pháp
của thiên tài. Nền phê bình văn học ở Trung Hoa được Lý Trập khai phá, đến Kim
Thánh Thán được phát triển, lan tỏa, thành khuôn mẫu mãi tới đầu thế kỷ XX. Mai
Thinh Sơn bình Tỳ bà
ký, xưng đó là “Đệ thất tài tử thư”; Mao Tôn Cương cũng mạo danh
Thánh Thán để bình Tam
quốc diễn nghĩa và gọi đó là “Đệ nhất tài tử thư”; Chi Nghiễn
Trai bình Hồng lâu
mộng cũng mô phỏng theo lối Thánh Thán bình Tây sương…
Không
chỉ trong nước, ảnh hưởng của Kim Thánh Thán còn lan rộng ra cả ngoài nước.
Giữa thế kỷ XVIII, bản Thủy
hử và Tây
sương của Kim Thánh Thán truyền sang Triều Tiên, được phổ biến
rộng rãi. Trước đó, Triều Tiên chưa từng có bình luận tiểu thuyết, thì sang đầu
thế kỷ XIX đã có hàng loạt nhà phê bình lẫy lừng: Thạch Tuyền chủ nhân, Phác
Thái Tích, Thủy Sơn tiên sinh… Họ đều chịu ảnh hưởng sâu đậm của Kim, từ phong
cách, kỹ thuật cho đến ý tưởng, từ đó mà thể loại phê bình văn học ở Triều Tiên
thực sự hình thành. Truyền sang Nhật Bản, Thủy hử và Tây sương do Thánh
Thán bình chú đã tạo nguồn cảm hứng cho Lương Điền Thuế Nham, Giai Xuyên Kỳ
Viên, Thanh Điền Đam Tẩu… xuất đầu lộ diện, và trở thành những phê bình gia
danh tiếng.
Địa vị:
Kim
Thánh Thán là người đầu tiên khai thác văn bạch thoại Trung Hoa [4], ông đề cao
giá trị hiện thực của thể văn thông tục này. Nhờ văn tài của ông, nền văn học
bạch thoại ngày càng lớn mạnh và trở nên thông dụng.
Trong
văn học sử Trung Hoa, ông là đệ nhất phê bình gia. Ông bác nghệ đa tài, kiến
thức siêu trác. Ngay từ lúc sanh tiền, năm 1659, ông đã được hoàng đế Thuận Trị
thán phục, tôn làm cổ văn cao thủ. Trong cuộc vận động “Tân văn học” (một phong
trào cách tân, đã đặt nền móng cho văn học hiện đại Trung Hoa), Kim Thánh Thán
được Hồ Thích tôn làm “Đại quái kiệt” có tầm nhìn trước thời đại. Lâm Ngữ
Đường, vốn cũng là một “U Mặc đại sư”, đánh giá Kim là nhà phê bình vĩ đại nhất
thế kỷ XVII của chủ nghĩa ấn tượng. Nhưng vì khi phê bình Thủy hử, Thánh Thán cũng
không ngần ngại công kích cái ác của bọn hảo hán Lương Sơn, nên bị các học giả
đại lục cho là phản động, là “người phát ngôn của giai cấp thống trị trong xã
hội phong kiến”.
Giai thoại:
Kim
Thánh Thán tình tình cuồng ngạo quái đản, lại hài hước vô song, vẫn được mệnh
danh là U mặc đại sư.
Hãy thử đọc đôi câu đối của ông:
–
Đề kinh Phật:
流水今日 Lưu
thủy kim nhật
明月前身 Minh
nguyệt tiền thân
(Ngày
nay nước chảy; Kiếp trước trăng soi).
–
Đề thư phòng:
真讀書人天下少 Chân
độc thư nhân thiên hạ thiểu
不如意事古今多 Bất
như ý sự cổ kim đa
(Thiên
hạ người thật biết đọc sách rất hiếm;
Xưa
nay việc không vừa ý lại nhiều)
Kim
chiếm một chiếu ngồi riêng chót vót trong văn học sử, nên có nhiều giai thoại
về ông. Những giai thoại này tất nhiên đều là hư cấu, nhưng phần nào khắc họa
tính cách ngất ngưỡng của thiên tài.
–
Tương truyền Kim Thánh Thán viếng cảnh Báo Quốc tự ở núi Nga My. Đang đêm, ông
bỗng nảy hứng, hỏi trụ trì cho mượn vài quyển kinh đặng ông… bình chơi đỡ buồn.
phương trượng bèn ra vế đối, giao hẹn đối được sẽ cho Kim phê kinh. Vế ra rằng:
半夜二更半 Bán
dạ nhị canh bán
(Nửa
đêm hai canh rưỡi)
Hóc
búa ở chỗ nửa đêm cũng là lúc quá canh hai (hai canh rưỡi), và 2 chữ “bán” lặp
lại ở đầu và cuối vế. Kim đành chịu phép không đối được, phải đi nghỉ sớm.
Ba
năm sau, khi bị án trảm lập quyết nhằm tiết Trung Thu. Phút lâm hình, ông bỗng
nghĩ ra, ngửa cổ cười sằng sặc, gọi con trai đến dặn dò, là mau báo trụ trì
chùa Báo Quốc, ông đã nghĩ ra vế đối lại, là:
中秋八月中 Trung
thu bát nguyệt trung
(Trung
Thu giữa tháng Tám)
Vừa
chỉnh cả ý lẫn lời: Trung Thu cũng là giữa tháng Tám!
Chuyện
lại kể tiếp rằng, khi thủ cấp ông rơi ra, đao phủ thấy hai bên tai có nhét hai
mẩu giấy. Giở ra thì thấy một mẩu đề chữ Hảo 好 (Tốt), mẩu kia là chữ Đông 疼 (Đau), ghép lại thành câu thì là tiếng suýt xoa: “Ui da, đau quá!”, he he!
Vẫn
chưa hết, rằng sau khi ông mất, thấy có di thư để lại cho con. Quan tuần phủ
ngờ rằng trong đó thể nào cũng buông lời phỉ báng mai mỉa triều đình, dè đâu
khi giở ra chỉ thấy vỏn vẹn đôi dòng ngắn ngủi: “Gửi con: Dưa muối mà ăn với đậu
vàng thì có vị như là hồ đào, nếu phép này mà được lưu truyền thì ta chẳng còn
hận chi nữa”.
_________
[1] Lạ một điều, Thánh Thán phê bình 180 bài thơ của Đỗ Phủ,
nhưng lại làm lơ bỏ qua, không hề nhắc tới Lý Bạch nửa lời. Phải chăng Kim xem
thường thơ Lý? Hay do lẽ đồng thanh tương khắc mà người cuồng ngạo phóng túng
khó lòng dung nạp kẻ khác cũng phóng túng cuồng ngạo như mình?
[2] Thủy hử có
nhiều dị bản, nhưng 300 năm nay, bản có 71 hồi do Thánh Thán nhuận sắc vẫn được
xem là bản chính, có giá trị hơn cả. Ở ta, bản dịch Thủy hử do Thánh Thán phê bình được Á
Nam Trần Tuấn Khải dịch là bản dịch tài tình nhất. Còn phần 50 hồi bị cắt kia,
sau người ta lại cho in thành bộ riêng, gọi là “Hậu thủy hử”, đọc thấy quả thực vô duyên chán
ngắt.
[3] Muốn đọc Tây sương do Thánh Thán bình, thì phải
chọn bản dịch của nhà thơ Nhượng Tống.
[4] “Bạch thoại” là dạng văn viết dựa trên phương ngôn, khác với
“văn ngôn” là dạng văn viết theo lối từ chương. Từ thập niên 1920 trở đi,
phương ngôn được công nhận là văn phong tiêu chuẩn cho tất cả những người sử
dụng Hoa ngữ.
_________
Tài liệu tham khảo (Hoa ngữ):
– Tuyển tập nghiên cứu văn học cổ điển《胡適古典文學研究論集》của Hồ Thích 胡適. Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã, 1988.
*
* * * * * *
Văn
Kim Thánh Thán, ngoài bài “Lưu
tặng hậu nhân” nổi tiếng (tìm đọc bản dịch của Trần Trọng
San), thì bài 33
lúc khoái tiêu biểu cho “Chủ nghĩa Duy khoái” được
nhiều người nhắc đến. Nguyên bài này là lời bình chương “Khảo hoa” trong Tây sương ký của
Vương Thực Phủ (Chương 2, quyển 4), đây cũng là bài tản văn lừng danh kim cổ,
xin chép lại đây để cùng thưởng thức những cái khoái với bậc kỳ tài.
33 lúc khoái- Kim Thánh Thán (Bản
dịch của Nhượng Tống)
[Hồi xưa cùng Trác Sơn, cùng ở trọ đất khách, mưa dầm mười ngày,
nằm nhìn nhau buồn rứt. Nhân thi nhau nói những chuyện sướng để cho lòng đỡ bạo
bực. Đến nay đã cách hai mươi năm cũng không còn nhớ nữa. Nhân đọc chương “Khảo
hoa” ở Mái Tây, thấy miệng con Hồng nói ra bao nhiêu câu sướng miệng, nghĩ lại
tiếc bấy giờ sao không lục ra cùng đọc thì buồn đến đâu mà chả phải tan. Vì thế
bèn cố nhớ lại, còn ghi được mấy điều phụ chép dưới đây, cũng không còn phân
biệt được câu nào là của Trác Sơn, câu nào là của Thánh Thán nữa].
1.
Mùa hè qua tháng bảy, mặt trời đỏ ngang trời. Gió cũng không. Mây cũng không.
Sân trước, sân sau, nắng chói như lò lửa. Không một con chim nào dám bay. Bồ
hôi ra khắp mình, ngang dọc thành rãnh nước. Cơm để trước mặt không sao nuốt
được. Gọi chiếu muốn nằm xuống thì đất ướt như mỡ. Ruồi xanh lại xúm đến, leo
lên cổ, đậu lên mũi, đuổi chẳng buồn đi. Đương lúc không biết làm thế nào được,
bỗng mây đen kéo kín, tiếng rầm rầm rộ rộ nghe như có trăm vạn chiêng trống.
Mái tranh chảy như thác. Bồ hôi trên mình biến mất. Đất ráo như lau. Ruồi bay
hết. Cơm ăn thấy ngon miệng. Chẳng cũng sướng sao?
2. Người bạn xa mười năm, thình lình đến vào chiều hôm. Mở cửa chào nhau xong, chẳng kịp hỏi đi thuyền hay đi bộ, cũng chẳng kịp mời ngồi ghế hay ngồi giường. Hàn huyên qua loa, liền chạy mau vào nhà trong, sẽ hỏi mẹ đĩ: “Mình có được như là Đông Pha, sẵn có rượu để dành không?” Mẹ đĩ tươi cười, rút cành trâm vàng đưa cho. Tính ra có thể thết khách được ba ngày. Chẳng cũng sướng sao?
3.
Phòng không ngồi một mình, đương đêm nghe qua tiếng chuột bực quá. Không biết
nó sồn sột gặm nát cái gì của mình? Soàn soạt xé rách sách nào của mình? Trong
lòng bồi hồi, chưa nghĩ ra sao. Bỗng thấy con mãn đẹp, chú mắt, vẫy đuôi, như
đã trông thấy vật gì. Nín tiếng nín hơi, đợi chờ chốc lát, thì thấy nó chồm
nhanh như gió, “chí” một tiếng, con vật đó đã chết rồi. Chẳng cũng sướng sao?
4.
Trước phòng sách, nhổ những cây tử kinh, cây thuỳ ty hải đường đi, trồng thêm
vài chục gốc chuối. Chẳng cũng sướng sao!
5.
Đêm xuân cùng các tay hào uống đã nửa say, thôi đã khó thôi, thêm cũng khó
thêm. Bên cạnh bỗng có đứa trẻ hiểu ý, đưa vào hơn chục pháo chuột. Liền đứng
dậy ra ngoài tiệc, lấy lửa đốt chơi. Mùi lưu hoàng xông từ mũi vào tận óc, khắp
người khoan khoái, chẳng cũng sướng sao!
6.
Qua phố thấy hai bác đồ gàn, cãi nhau về một chuyện. Cả hai đều đỏ mặt tía tai,
tưởng chừng không đội trời chung. Vậy mà còn chắp tay lên, khom lưng xuống, đầy
mồm “chi, hồ, dã, giả”… Câu chuyện kéo dài, có thể mấy năm không xong. Bỗng có
tay tráng sĩ vung tay đi lại, ra oai quát một tiếng, thế là nín thít. Chẳng
cũng sướng sao?
7.
Nghe học trò đọc bài, thuộc trơn như dốc nước ở bình ra, chẳng cũng sướng sao!
8.
Cơm xong vô sự, đi rong vào chợ. Thấy có món đồ vặt, nghịch lại mua chơi. Mua
xong rồi, tiền đưa chẳng thiếu là bao, mà chú lái kỳ kèo, nhất định không chịu.
Nhân móc trong túi, lấy một cục bạc cũng suýt soát bằng cục đưa trả trước, ném
đưa cho cả. Chú lái bỗng đổi ra vẻ tươi cười, chắp tay “không dám” luôn mãi. Chẳng
cũng sướng sao!
9.
Cơm xong vô sự, lục lọi hòm bát, thấy các văn tự nợ mới cũ, có đến mấy trăn
bức. Những người thiếu nợ đó, hoặc chết rồi, hoặc còn sống, tóm lại đều không
sao trả nổi. Vắng người liền lấy lửa, trộn lộn đốt sạch. Ngẩng nhìn trời cao,
vắng ngắt không mây. Chẳng cũng sướng sao!
10.
Ngày hè đầu trần, chân trần, tự cầm chiếc ô che nắng, xem bọn lực điền vừa hát
ngao, vừa đạp guồng nước. Nước nhất thời cuồn cuộn tuôn lên như tuyết tan, bạc
lộn. Chẳng cũng sướng sao!
11.
Ngủ sớm vừa dậy, hình như nghe tiếng người nhà than thở, nói chàng nọ chết đêm
qua. Vội gọi hỏi xem, thì là một tay khôn vặt nhất trong cả một thành. Chẳng
cũng sướng sao!
12.
Tháng hè dậy sớm, xem người ta ở dưới gốc thông, cưa ống bương để làm thùng
chứa nước, chẳng cũng sướng sao!
13.
Trời râm suốt tháng, thấy mình như người say, người ốm. Bỗng nghe các giống
chim đua hót ra vẻ mừng nắng. Vội đưa tay vén màn, dun cửa sổ trông ra thì thấy
ánh mặt trời sáng quắc, cây rừng sạch như rửa, chẳng cũng sướng sao!
14.
Đêm nghe nói người nọ là người khá, sáng ngày thử sang chơi. Bước qua cổng,
nhìn vào nhà, thì thấy người ấy đương tựa bàn quỳ tựa về phía Nam, xem một cuốn
văn. Thấy khách vào, lẳng lặng chào xong, liền kéo áo mời ngồi mà rằng: “Bác đã
đến đây, cũng nên coi thử cuốn sách này”. Cùng nhau vui cười, đến mãi khi ánh
nắng hết. Chủ nhà đói bụng liền thong thả hỏi khách: “Bác cũng đói rồi chứ!”
Chẳng cũng sướng sao!
15.
Vốn không muốn làm nhà, chợt có món tiền để rỗi, liền làm thử mấy gian. Bắt đầu
từ hôm ấy, cần gỗ, cần đá, cần ngói, cần gạch, cần vôi, cần đanh, không kể sớm
chiều, những chuyện ấy lúc nào cũng nhang nhác ở bên tai. Rồi đến bắt sẻ, hun
chuột, cái gì cũng tính toán vì nhà, mà nào đã được nhà ở. Đành yên chịu như là
số mệnh vậy. Bỗng dưng một ngày kia, nhà đã lạc thành. Nạo tường, quét đất, dán
song, treo tranh, nhất thiết thợ thuyền ra cửa về hết. Bạn hữu đã tới, chia ghế
ngồi xuống. Chẳng cũng sướng sao!
16.
Đêm đông uống rượu, lại thấy lạnh thêm. Mở song thử nhìn, tuyết lớn bằng bàn
tay đã xuống dày đến ba, bốn tấc. Chẳng cũng sướng sao!
17.
Ngày hè trong mâm sơn son, rút dao sắc bổ quả dưa hấu xanh vỏ, chẳng cũng sướng
sao!
18.
Lâu vẫn muốn đi tu, khốn nỗi không được công khai ăn thịt. Ví cho được làm sư,
lại được công khai ăn thịt, thì ngày hè lấy nước nóng, dao sắc, gọt sạch tóc
đầu. Chẳng cũng sướng sao!
19.
Còn ba bốn mụn lở ở chỗ hiểm, thời thường gọi nước nóng, đóng cửa mà rửa, chẳng
cũng sướng sao!
20.
Trong tráp bất ngờ soạn được bức thư của người cũ, chẳng cũng sướng sao!
21.
Học trò nghèo đi vay tiền, không dám rỉ răng, lại lần chần nói ra việc khác.
Mình xét biết nỗi khổ tâm, kéo ra chỗ vắng người, hỏi cần dùng nhiều ít? Vội
vào trong nhà, như số đưa cho. Rồi đó mới hỏi: “Cần về ngay để thu xếp việc ấy,
hay có thể ở lại đánh chén đã?” Chẳng cũng sướng sao!
22.
Ngồi thuyền nhỏ, gặp gió thuận, khổ nỗi không căng được buồm. Bỗng gặp chiếc
thuyền đinh, đi nhanh như gió. Thử đưa câu liêm ra quặc chơi. Không ngờ quặc
liền mắc ngay, liền lấy sợi dây, ràng thuyền mình vào đuôi thuyền họ. Miệng
ngâm to câu thơ của cụ Đỗ: “Non xanh sườn vàng biết quít chín”, rồi khúc khích
cười vang, chẳng cũng sướng sao!
23.
Lâu vẫn muốn tìm ở chỗ khác, để cùng ở với người bạn, nhưng khổ không được đất
lành. Bỗng có người đồn rằng: Có cái nhà chỉ độ hơn mười gian, nhưng cửa quay
ra sông cái, chung quanh cây tốt xanh om. Liền cùng người ấy cùng ăn cơm xong,
thử chạy thăm xem sao, chưa biết nhà như thế nào, nhưng vào cửa đã thấy một
khoảng đất không, rộng đến sáu, bảy mẫu. Mai ngày rau, dưa, không cần phải lo
nữa, chẳng cũng sướng sao!
24.
Đi vắng lâu mới về, xa trông thấy cửa thành, đàn bà, trẻ con hai bên đường, đều
nói tiếng quê nhà, chẳng cũng sướng sao!
25.
Món đồ sứ đẹp đã sứt mẻ, chả còn cách gì hàn gắn, xem đi ngắm lại chỉ thêm rối
ruột. Nhân giao cho nhà bếp dùng làm đồ đựng vặt không bao giờ lại qua mắt nữa,
chẳng cũng sướng sao!
26.
Mình không phải là thánh sao cho khỏi có lỗi. Đêm qua lén làm một việc, sớm dậy
áy náy trong lòng không yên. Chợt nhớ nhà Phật có phép Bá tát: không hề giấu
diếm, tức là sám hối. Nhân tự đem lỗi mình nói phăng cho tất cả khách quen
khách lạ đều biết, chẳng cũng sướng sao!
27.
Xem người viết đại tự, chẳng cũng sướng sao!
28.
Mở cánh song giấy, thả cho con ong ra, chẳng cũng sướng sao!
29.
Làm quan huyện, hàng ngày vào lúc đánh trống tan hầu, chẳng cũng sướng sao!
30.
Xem người ta thả diều đứt dây, chẳng cũng sướng sao!
31.
Xem ma trơi, chẳng cũng sướng sao!
32.
Trả nợ xong, chẳng cũng sướng sao.
33.
Đọc truyện “Khách râu quăn”(*), chẳng cũng sướng sao.
(*)
Tức Cầu Nhiêm khách,
một truyện ngắn trích trong Thái
Bình quảng ký của Đỗ Quang Đình (850-933). Cầu Nhiêm khách rất
được người Trung Hoa tán thưởng. Nhà văn Kim Dung cũng viết một thiên tiểu luận
về truyện này, và cho đây là truyện võ hiệp đầu tiên của người Trung Hoa.
Kim Thánh Thán và không khoái
sao được!
blog Nhà gom lá bàng
Kim Thánh Thán, quê ở Giang Tô, sống vào cuối thời nhà Minh
và đầu thời nhà Thanh (1608-1661). Ngoài các tác phẩm thơ/văn trong ‘Thánh
Thán toàn tập’ hay ‘Tả truyện’, ông còn là nhà phê bình văn học nổi tiếng, đặc
biệt là được nhiều người thời nay ngưỡng mộ nhờ các phê bình của ông trong các
truyện như Tây sương ký, Thủy hử… Nguyễn Hiến Lê đã dịch các tản văn của ông
nói về ‘33 cái khoái’ trong đời thường... Nhưng không may mắn thay, số phận của
ông cuối đời rất là bi thảm, năm 1661, ông bị nhà Thanh kết tội oan là ‘giặc’,
bị tử hình và tịch biên gia sản. Trước khi chết ông vẫn tìm cách ‘hài’ vài dòng
cho được trong một bức thư gửi cho vợ con: ‘dưa muối mà ăn với đậu vàng thì có
vị như là hồ đào, nếu phép này mà được lưu truyền thì ta (chết) chẳng còn hận
chi nữa’. Vì thế, có người gọi ông là người theo ‘chủ nghĩa duy khoái’ hay chủ
nghĩa lạc quan. Theo NGLB, dưới cách nhìn biện chứng, người thường phát hiện ra
những nét ‘hài’ trong cuộc sống không hẳn là người lạc quan, đặc biệt là có
không ít người cho ông là kẻ cuồng, ngạo và kỳ quặc, nhưng những lời phê bình
và ‘33 cái khoái’ mà ông để lại cho hậu thế rất đáng cho ta ngưỡng mộ.
Xưa nay trong dân gian hay nhắc đến chuyện ‘tứ khoái’, đó là ‘ăn,
ngủ, làm chuyện ấy và đánh rấm’, ngoài ra, người ta còn hài khi nói đến ‘thất
khiếu khoái’ đại khái nói là làm người phải thỏa mãn 7 cái lỗ tự nhiên như: lỗ
tai, mũi, mắt, miệng, rồi lỗ chân lông (da), tiểu, tiêu… (có người gọi là ‘cửu
khiếu’, mình chỉ viết ‘đủ hiểu’ chứ không viết chính xác 100% vì đây là thế
giới blog), vì thế mà đàn bà hay trêu đàn ông là ‘cải thiện mắt’, hay nếu ai mà
đi tiêu/tiểu không được thì quả là một vấn đề vô cùng nghiêm trọng...
Một số chuyện 'không khoái sao được!'
(theo
thứ tự A, B, C)
-Bà
'tám': Các bà tám thường tụ nhau kiểu ‘2 bà + 1 con vịt = cái
chợ’, mình mới ngồi với 2 bà hơn 1 tiếng đồng hồ chiều hôm nọ, được nghe đủ thứ
chuyện trên trời dưới đất, ngoài ra, mình còn được nghe nói chuyện là không nên
có thành kiến với người khác, không nên quá phân biệt người xấu/người tốt, mỗi
người có một tính cách, đừng để bụng để tâm hồn ta được sảng khoái…, không
khoái sao được!
-Bái
Đính: Tùy theo sở thích của mỗi người, đối với mình, ngoài việc đi du lịch
với một không gian khá rộng như ở Hạ Long, Phú Quốc hay Genting Highlands
(Malaysia)..., mình thấy đi du lịch ở chùa Bái Đính (Ninh Bình) là hữu ích
nhất, vì ta có thể vừa được du lịch tâm linh-sinh thái với cảnh thiên nhiên
tuyệt đẹp mà có thể đóng phim... chưởng được, vừa được học sử Việt một cách tự
nguyện nhất, ngoài ra, ở Tràng An, ta còn được ngắm những đàn dê núi, những con
le le nhỏ xíu xìu xiu như con gà con và nghe câu: 'thương chồng nấu cháo le le,
nấu canh thiên lý nấu chè hạt sen', không khoái sao được!
-Bãi
biển: Bạn đã từng tắm ở bãi biển Thiên Cầm (Hà Tĩnh) hay Nhật Lệ (Quảng
Bình) chưa?, ở đó nước biển trong vắt, có lẽ trong nhất Việt Nam. Bạn đã từng
đi dọc theo bãi biển Cà Ná (Ninh Thuận) hay Đại Lãnh (Khánh Hòa và
Quy Nhơn) chưa? Bãi biển Đại Lãnh chạy dài khoảng 100km, từ Dốc Lếch qua khỏi
Trại Cùi (chỗ Hàn Mặc Tử đã từng trị bệnh), chưa bị đô thị hóa, đẹp
như cảnh thần tiên, không khoái sao được!
-Bánh
chưng: Bạn đã từng nấu bánh chưng chưa? Ta phải chuẩn bị lá chuối
(bánh tét) và lá dong (bánh chưng), nếp, đậu xanh, dây lạt, khung gỗ..., rồi cả
xóm xúm nhau gói kỹ thuật, nấu khoảng 16-18 tiếng đồng hồ, vớt ra, và có nhiều
tiếng kêu lên 'ồ, cái bánh này do tôi gói đó!', ôi, không khoái sao được!
-Cà
phê vườn điều: Bạn đã từng uống cà phê vườn điều với tình nhân
chưa?, có gió thổi mát rượi, 2 cái võng đu đưa, nhìn trời mây trắng bay lững
lờ, nói chuyện hoài không chán… Bạn đã từng uống cà phê với tình nhân bên cạnh
dòng suối chảy róc rách, dưới tán cây rừng, xa xa ánh chiều tà nhè nhẹ, gió
thổi vi vu, chỉ có bóng 2 người, ‘nam nữ cọ cọ rất thân’?, không khoái sao
được!
-Cá
cảnh: Mình rất thích nuôi cá cảnh (hay ngồi bên ao cá), cứ mỗi
lần thấy bóng mình bước lại là chúng lao ra, hả to mồm ra, người gần như dựng
thẳng đứng… Những người bạn nhỏ này làm cho mình khi giận/bực mình cũng bớt đi
phần nào, đang thất tình cũng thấy ấm áp lên tí xíu, nhất là khi nhìn chúng đớp
thức ăn ‘oạp, oạp, oạp’, không khoái sao được!
-Cá
đục: Hồi hộp khi câu cá đục (ví dụ ở biển Thanh Bình/Nam Ô, Đà
Nẵng), ta buông cần câu, lưỡi câu biến vào lòng nước biển (sông, ao hồ…), giật
lên, lúc được lúc không, rồi ‘ồ, được con cá to quá’, câu cả ngày được một giỏ
cá, đem về, chính tay mình làm: bằm vụn, bỏ gia vị vào, chiên giòn làm món chả
cá thơm phức - thành quả của một ngày dãi dầu nắng gió, hì…, không khoái sao
được!
-Cá
kho khế: Bạn đã từng chế biến món cá kho với khế hay
chuối chát chưa? (cá rô, chép, tràu, ngừ…) Có một lần mình uống cà
phê ở dưới một cây khế, đây là loại khế chua, trái đầy cành, chín vàng. Mình
xin mấy trái về bỏ vào nồi cá kho, ăn vào thấm lưỡi, ôi ngon tuyệt, không khoái
sao được!
-Chả
ram: Thường chơi blog (hay xem ti-vi), đến khoảng 10-11g tối, các bạn hay
thấy đói bụng, nếu lúc đó có anh/em nào mang cho một đĩa chả ram còn
nóng sốt chấm với nước mắm ớt tỏi, hay một đĩa chả lụa chấm với muối tiêu… thì
không khoái sao được!
-'Chiều
tà': Chiều chiều, tối hay khuya, mở nhè nhẹ bản nhạc ‘chiều tà’, ‘cánh hồng
Trung Quốc’, ‘dòng sông xanh’, ‘niệm khúc cuối’, ‘biển tình’, hay nhạc không
lời… để đắm mình trong tưởng tượng đang tâm sự yêu đương với một thiên thần bé
nhỏ (hoàng tử) nào đó, không khoái sao được!
-Con
mèo: Chó và mèo là loại động vật 'ngoạn' nhất đối với cọn người, mà dưới
một giác độ nào đó, đôi khi chúng còn tốt hơn... con người, ít nhất là chúng
không bao giờ phản bội ta, dù bất cứ dưới hoàn cảnh nào; bạn có thích được con
mèo cà cạ vào người không?, giả sử một ngày nào đó, nó bỗng biến mất: một nỗi
nhớ tiếc sẽ dần dần hình thành trong tâm hồn bạn, rồi bỗng nhiên nó
quay trở về, kêu 'meo meo', rồi cà cạ vào chân bạn, không khoái sao được!
-Con
nít: Mình thích nhất là con nít, được ngắm, đùa giỡn, bồng bế và
hôn/nựng chúng, theo dõi chúng khôn lớn theo từng năm tháng và mỗi lần phát
hiện ra điều gì mới ở chúng, mình cười rất to đến nỗi mấy người trong nhà bảo
là mình bị điên!, không khoái sao được!
-Cơm
gạo tám muối vừng: Lúc ở Hải Phòng, vào một buổi sáng nọ, trời rất
lạnh, mình được chiêu đãi một bữa cơm gạo tám muối vừng (mè),
ngon vô cùng, mình vẫn nhớ mãi; đặc biệt, khoảng 10 năm nay, ở bến xe Gia Lâm
(Hà Nội), có mấy người bán dạo mời chào món cơm nắm muối vừng (hay muối lạc),
ăn rất ngon, không khoái sao được!
-Cua
đồng: Ta lội ruộng bì bụp, chộp nguyên bàn tay xuống bùn, toát mồ hôi, dần
dần bắt được một rổ cua đồng, về chiên giòn hay làm bún riêu (thêm
giò/xương heo vào), có tóp mở, mắm tôm, ăn với một rổ rau sống thái nhỏ (kể cả
lá dấp cá), không khoái sao được!
-Dăm
bông: Ta mua thịt heo nạc về, đổ nước mắm xịn và bột ngọt vào, kho cho cạn,
rồi lấy chày cối ra, giả nát, ta sẽ có món dăm-bông (ngoài Bắc gọi là
'rút', và được món 'mắm kho quẹt' miền Tây), ăn ngon tê lưỡi, ngoài ra, mỗi
buổi sáng hay khuya đói bụng, ta có thể làm được đến 3 chén cơm nhờ món
dăm-bông này, không khoái sao được!
-Giàn
hoa giấy: Có một số người mong muốn tìm được nửa còn lại của mình, có kinh
tế vừa đủ (thậm chí, có thể chấp nhận sống đạm bạc), có một căn nhà nho nhỏ
xinh xinh nằm trong vườn hoa trái, có một giàn hoa giấy trước cổng,
một cái ao cá nhỏ, một giàn lan nhỏ, có tiếng chim hót, chó sủa và mèo kêu ‘meo
meo’ cộng với tiếng nhạc tình cổ điển thỉnh thoảng vang vọng, vườn được bao bọc
bằng các bức tường cách ly với thế giới bên ngoài - một ngôi ‘Cổ Mộ’ thời hiện
đại, không khoái sao được!
-Giếng
trời: Nhà bạn có giếng trời hay làm nhà mái ‘giựt’ không? Nếu ban
ngày, các nhà khác thì tối ôm còn nhà bạn thì sáng rực như có mấy bóng đèn pha
chiếu xuống, gió mát không cần quạt, không khoái sao được!
-Hát
karaoke: Có một cao thủ karaoke nói rằng: 'xỉn mới hát được', đó là sau khi
nhậu... tưng tưng, vào phòng hát karaoke ‘có nam có nữ mới nên xuân’, hát
hết mình, hát quên là chính mình... đang hát, lâu lâu được 100 điểm, rồi vỗ tay
quá trời, thậm chí còn bốc lên nhảy nhót tưng bừng nữa, không khoái sao được!
-Hoa
cỏ may: Vào đầu một buổi chiều nọ, có một chàng trai đi dạo với một cô gái
trên một ngọn đồi, rồi 2 người ngồi xuống một đám cỏ mượt mà, nói chuyện mê mãi
đến khi ánh chiều tà xuống cuối chân trời. Về đến nhà, chàng mới phát hiện quần
dính đầy hoa cỏ may, chàng vừa cười thầm vừa tỉ mỉ gở từng cái cỏ may một,
không khoái sao được!
-Hoa
lan: Một số blogger có chơi lan, một ngày nào đó, bạn bỗng nhiên phát hiện
cây lan ra nụ, rồi chầm chậm trổ hoa thơm phức, nào màu tím, nào màu vàng, màu
đà, rồi tím-vàng, tím-trắng…, ai ghé vào nhà cũng dừng lại để xem và trầm trồ
‘ồ, hoa lan đẹp quá, tên nó là gì vậy?’, không khoái sao được!
-Hoa
mai: Nếu bạn có cây mai (hay cây đào) mà mùng một Tết nó nở khoảng 1/3,
thật tuyệt vời khi rình xem nó nở những đóa hoa mai đầu tiên, không
khoái sao được!
-Khoai
lang nướng: Khoai lang hay sắn mới đào lên, đem ném vào đống than hồng đỏ
rực, ngồi tán phét một tí, khi có mùi thơm thì lấy que khèo ra, bóc vỏ, bỏ vào
mồm, ngon sản hồn luôn, vua Càn Long mà cũng bái phục và gọi ‘khoai lang
nướng là món ăn ngon nhất thế gian’, không khoái sao được!
-Mát-xa:
Nếu bạn được ai đó (người khác giới càng tốt, hì…) mát-xa/tẩm quất, chẳng
hạn như mát-xa Thái hay Mát-xa Nhật (ở Hà Nội), sau khi làm việc nặng mà
xương cốt rệu rạo, nhức mỏi, và lâu lâu nghe lắng nghe xương mình kêu 'rẹt rẹt'
hay 'lách cách'... thì không khoái sao được!
-Mây:
Bạn có bao giờ đứng trên mây như Tề Thiên Đại Thánh không? Có đấy.
Trên đường từ Sơn La vào Điện Biên (Lai Châu cũ), bạn sẽ đi qua đèo Pha-đin ở
độ cao 1,648m so với mặt biển. Ở đó, xuống xe làm một miếng chả lụa chấm muối
tiêu, chụp hình kỷ niệm hay phì phèo một điếu thuốc, mây sẽ bay lảng vảng
qua hôn lên má và tóc của bạn, không khoái sao được!
-Mực
tươi hấp: Chắc bạn đã từng từ Đà Nẵng qua đầu bên kia hầm Hải Vân (hay ở
Xuân Thiều, Lăng Cô), ghé lại kêu món mực tươi hấp mà người ta vớt
trực tiếp từ biển lên, để nguyên con không xử lý, rồi chấm với mắm gừng, không
khoái sao được!
-Mỹ
nhân: Có lần mình đánh đàn mandoline rồi thu vào băng cát-xét, đầu một buổi
chiều hôm nọ, khi đi ngang qua một căn phòng, mình đột nhiên phát hiện có
6-7 mỹ nhân lén mở băng nhạc của mình để nghe, không khoái sao được!
-Phim
tình yêu màu tím: Lâu lâu vô tình bật một kênh truyền hình VTV, SCTV hay
HBO… nào đó, ta gặp một phim tình yêu màu tím đậm - đau khổ nhưng lại
là đau khổ tuyệt vời (nếu lồng thêm một ít kỹ xảo võ thuật thì khoái hơn!),
không khoái sao được!
-Quý
nhân: Ở Hạ Long thường có một số thầy địa lý người Tàu đi xem phong thủy
cho việc xây dựng khách sạn. Nếu một hôm nào đó, ông ta bói là 'bạn không cần
phải xin việc làm thì sẽ có việc làm, khi hết tiền thì sẽ tự nhiên có tiền, vì
bạn có quý nhân phù hộ' (!), thì bạn có ha.. ha.. ha... không? Và
không khoái sao được!
-Rùa
đá: Mình thích con rùa đá ở nhà mình, tuy chúng không thông minh
nhưng bây giờ quen người rồi, có người bên cạnh mà chúng vẫn nghểnh cao đầu ra
và nhổm 4 chân rất dài ra, đi lại tự nhiên, ăn vụng cả thịt bò, thậm chí còn
cắn vào người đau điếng nữa, không khoái sao được!
-Rừng
cao su: Ở Tây Nguyên, đặc biệt là Đaklak, bạn sẽ thấy những rừng cao
su với những hàng cây chạy sâu ngút ngàn, nhìn cuối cùng 2 hàng cây chỉ
thấy một chấm sáng nho nhỏ, giả sử có cặp tình nhân nào đi dạo trong đó thì đẹp
như phim, không khoái sao được!
-Rừng
khọt: Chắc bạn đã từng đọc câu thơ 'rừng khọt xơ xác, rừng le điêu
tàn', điều này đúng trong một bối cảnh nhất định. Tuy nhiên, ở Tây Nguyên, có
lẽ rừng khọt hay rừng le đặc trưng cho tính hoang dại tuyệt vời của tự nhiên mà
bạn có diễm phúc lắm mới được nghe tiếng tắc kè vang vang gọi nhớ, hay nhớ lại
lúc ôm chặt tay súng vì tưởng có chú cọp con nào đó đang lang thang trong rừng
le/rừng tranh, không khoái sao được!
-Rượu
sim: Bạn đã từng uống rượu sim Phú Quốc/ Kon Tum (hay rượu nho Đà
Lạt) pha đá chưa?, nó có mùi thơm lạ và ngon tuyệt nhưng dễ xỉn, không khoái
sao được!
-'Sưởi
ấm': Người Eskimo (nay chỉ còn khoảng 2-3 triệu người, thường sống ở Bắc
cực) chịu lạnh rất giỏi, sống ở môi trường dưới 00C, mặc áo lông
thú, đi săn gấu/ hải cẩu/ cá voi (bằng lao, bẫy hay bả) suốt ngày dưới trời
băng tuyết, tối về được vợ hay bạn tình 'sưởi ấm' (từ dùng cùa nhà
văn Ai-ma-tốp), không khoái sao được!
-Tiên
nữ: Mình là một người rất khó tính về sắc đẹp, nay mình vẫn còn trong tim
hình ảnh của các bạn gái ở Hà Thành, Thanh Hóa, Hải Phòng... Trước đây, chúng
mình tình cờ có dịp đi hát karaoke ở Nha Trang, có 4 cô, mình chấm 1 cô 'đẹp',
ở Cần Thơ, 4 thì có 2 cô đẹp; nhưng sau 2 lần ở Sóc Trăng, mình đã phong tặng
danh hiệu 'Tiên Nữ' và 'Củng Lợi' cho 2 nàng, không ngờ gái Sóc Trăng
lại đẹp đến thế!, không khoái sao được!
-Tôm
hùm: Nếu sau khi đi dạo ‘sa mạc cát’ hay ngắm tranh cát của Ý Lan… ở Mũi
Né, rồi về ghé ngang quán Cây Bàng hay khu Đồi Dương chẳng hạn, bạn kêu một
con tôm hùm, với gió mát lộng của biển, bạn sẽ thấy món tôm hùm có vị ngon
lạ khác với các nơi khác, không khoái sao được!
-Viết
entry: Nếu tự nhiên mà viết entry thì rất khó, có cách khác hay
hơn, ta vào thăm và bình luận ở các blog khác rồi bỗng nhiên chọn được đề tài
mới để viết, hay ngẫu hứng làm ra mấy câu thơ tình lãng mạn, chèn hình và đăng
tải xong, không khoái sao được!
-Vú
sữa: Ngon nhất là ăn vú sữa ngay ở trên cây. Có một ngày nào đó, bạn thử
trèo lên cây vú sữa, lựa trái chín có vỏ bóng và hơi có màu tim tím một tí, bóp
nhẹ đều chung quanh cho nó hơi mềm, lấy ngón tay hay cái que chọc cho nó thủng
một lỗ nhỏ, rồi nặn sữa ra mà măm măm từ từ, không khoái sao được!
-Vườn
rau: Một số phụ nữ trồng rau ‘sạch’ trong vườn thì chỉ có lỗ chứ không có
lời. Để có một cái vườn rau (khoảng 50m2) được thiết kế quy
mô với đầy đủ hệ thống điện nước, đường đi nội bộ, tường và rào sắt bảo vệ bên
trên thì phải tốn cả chục triệu đồng. Tuy nhiên mỗi ngày ra ngắm mấy trái dưa
leo lớn như thổi, mấy cây đậu Tây (cô-ve) với trái trĩu đầy cành, mấy cây cà
trổ trái xanh mơn mởn, mấy luống cải non xanh ngít… đem lại cho ta một cảm giác
thoải mái mà không thể tính được bằng tiền, không khoái sao được!
-Xoài
trộn: Bạn lấy vài trái xoài chua còn xanh (tương tự với món da heo/tai heo,
mít non luộc Quảng Nam), thái dài, mỏng và nhỏ, giả tôm khô, bỏ đường, nước
mắm, tỏi, tiêu, ớt, đậu phụng rang, hành tây/rau răm… rồi trộn đều, để 30 phút,
ta sẽ có món xoài trộn (gỏi xoài) để ngồi cụng ly với các chiến hữu,
không khoái sao được!
-Xương
heo hầm với khoai môn: Dùng nồi áp suất, bạn có thể làm món giò heo/xương heo
hầm với khoai môn (khoai sọ) rồi bỏ lá rau ngổ vào, hay hầm một con gà ta
với đầy đủ gia vị, 15 phút sau, bạn nghe tiếng nồi áp suất báo ‘chít, chit,
chít’, thế là ta đã có món gà/xương hầm để măm măm rồi, không khoái sao được!
-Ý
vị mới: Ngoài ra, bổ sung các cái khoái của blogger vào entry này cũng là
thêm các ý vị mới, và thỉnh thoảng bình với nhau và đùa là 'tím ơi,
tím hỡi', không khoái sao được!...
Còn có vô số thứ ‘không khoái sao được!’ như thỉnh thoảng ăn
tiết canh lòng lợn/tiết canh vịt với lá rau húng, thưởng thức món bún đậu phụ
mắm tôm hay bún ốc (Hà Nội), món 'chạo' (Nam Định), cao lầu (Hội An), bánh canh
Trảng Bàng (Tây Ninh), bánh xèo hải sản (Phan Thiết), lẫu cua (Cà Mau) hay lẫu
trâu (Kiên Giang), làm vài cái vịt lộn/trứng cút lộn, đánh vài ván ‘phỏm’
(hay ’tiến lên’), hút vài điếu thuốc (đối với nam), xem các bộ phim Kim Dung/Cổ
Long, Châu Tinh Trì..., lắng nghe nhạc Trịnh/Ngô/Phạm tỏa lan nhè nhẹ, lặng
ngắm ánh chiều tà dần buông, nhận được lời comt ‘nháy nháy’ của một cô nàng (anh
chàng) dễ 'sương' nào đó trong blog, hay cảm thụ cái hương vị tuyệt khoái của
tình khúc âm-dương:
Hoa
cỏ may, trên đồi lộng gió
Bám
khắp người, gỡ khó mà ra
Hương
lạ kỳ, vương vương vấn vấn
Em
lạ kỳ, mê mẫn hồn ai!
Rồi
lỡ lang thang, một chuyến đò
Lúc
trồi, lúc sụt, lúc quanh co
Lạc
chốn địa đàng, sa lưới nhện
Vị
cõi đào nguyên, đắng tuyệt vời!
Vì ở đời thường có chuyện ‘hên xui’, 50/50, hay được cái này mất
cái kia… nên người biết tìm được cái cảm khoái trong cuộc sống thì đó có thể là
lạc quan thật, có thể là lạc quan tếu, thậm chí có thể là để che giấu một số
nỗi khổ tâm nội tại nào đó…, nhưng dù sao đi nữa, khoái được thì cứ khoái, bởi
vì ta ‘không thể kìm hãm cái sự khoái ấy lại được’, phải hôn?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét