NGƯỜI
ANH XẤU SỐ
Hồ Dzếnh
Trong ba anh em chúng
tôi, mẹ tôi thương anh hai tôi nhất. Mẹ tôi thương anh vì anh khổ, vì anh, vẫn
theo lời mẹ tôi, đã từng biết qua trong thuở đầu xanh những ngày đào củ chuối,
nấu cháo cám ăn trừ cơm.
Nhưng lòng người mẹ càng
nghiêng xuống đứa con thứ bao nhiêu thì lại càng xa đứa con cả bấy nhiêu. Mẹ
tôi ví chúng tôi như cây mía có ba đốt đều nhau, sinh cách nhau đúng bảy tuổi,
ba đốt mà một đã bị sâu, còn hai đốt kia thì "chưa biết".
Có lần, tôi hỏi mẹ tôi:
- Tại sao anh cả con lại
là đốt mía cuối bị sâu đục hả mẹ? Sao anh hai lại được là đốt giữa?
Mẹ tôi gắt:
- Rồi mày liệu, không
lại sâu nốt, con ạ.
Mà
kể ra anh hai tôi cũng xứng đáng là đốt mía giữa thật. Anh có vẻ dịu dàng và
phong nhã. Miệng anh cười rất xinh, làm núng hai đồng tiền ở má. Anh hai tôi ít
nói, mà đã nói thì hết sức chắc chắn. Mẹ tôi yêu anh và gửi gắm vào anh những
ngày già sắp rụng. Anh tôi chải tóc lật ra hai phía gáy, làm nổi rõ lên cái
đường ngôi thẳng tắp. Bắt chước anh, tôi nhất định nuôi tóc để chải cho đẹp,
nhưng mỗi lần thấy hàng thợ húi rong đi qua, mẹ tôi hay nhìn đầu tôi mà bảo:
- Bé định búi
tóc hay sao mà chưa thiến bớt nó đi?
Nhìn cái tăng
đơ tàn nhẫn cày từng mảng tóc âu yếm của tôi lên, tôi hùng hổ bảo người thợ:
- Sao anh không
cắt mẹ nó cái đầu tôi đi luôn thể?
- Bà dạy thế.
Vả lại cắt ngắn tóc cho mát, cậu ạ.
Tôi
không nén nổi tiếng khóc vì bực tức:
- Hu hu...
nhưng tôi muốn... bức kia mà!
Cuối năm ấy, ba
anh em chúng tôi được chụp ảnh chung với nhau để gửi về quê nội. Bức ảnh đó,
tôi vẫn còn giữ được, tuy thời gian đã làm phai nước đi. Cách một ngày trước
hôm chụp ảnh, anh hai tôi đã lo lắng về quần áo. Anh cả tôi lớn rồi nên tỏ vẻ
lãnh đạm. Tôi thì chỉ suốt ngày ngắm anh hai tôi.
Rồi sáng hôm
sau, chững chạc quá, anh hai tôi diện một bộ quần áo sọc, mái tóc chải dẹt
xuống, hai mắt tươi cười, tay cầm một chiếc mùi soa.
Đến anh cả tôi
mới thật khiếp! Anh mặc một bộ quần áo tây của ba tôi sửa lại, vai cứ dốc
xuống, đôi ống quần bó lấy bắp chân như xà cạp. Tôi đã mất công lục hết rương
hòm, rồi để chịu mặc một cái áo rộng tay và cái quần ngắn cỡn, vì có bao giờ mẹ
tôi may cho tôi được một bộ quần áo nào vừa ý đâu. Cái thì rộng, cái thì hẹp,
cái làm tôi đang gầy hóa béo, đang lớn hóa lùn. Nhưng cái nào cũng đẹp hết, vì mẹ
tôi bảo: áo tàu mặc thế nào cũng... chững!
Ba chúng tôi ra
ngoài sân với một cái ghế. Anh cả tôi ngồi giữa, tay cầm quyển sách. Anh hai
tôi đứng chống nạnh bên cạnh. Tôi nhỏ, đứng vòng tay cho có vẻ lễ phép, đôi mắt
đờ nhìn vào ống máy ảnh. Mẹ tôi ngắm kỹ ba chúng tôi rồi bỗng giận dữ:
-Trông con mắt
thằng cả! Cứ long lên sòng sọc thế kia, trách nào!
Tôi nghe anh cả
tôi thở dài một cái. Tôi biết trong nhà sắp có chuyện, nên đưa mắt liếc anh hai
tôi. Lúc người thợ ảnh sửa lại dáng điệu cho chúng tôi, mẹ tôi lại nhìn anh cả
tôi, lè bã trầu ra ngoài miệng, giọng gắt gỏng:
- Người thì cứ
sừng sững ra ấy!
Anh cả tôi vùng
đứng dậy, bước ra ngoài, vất lại mấy tiếng:
- Để cho hai
đứa nó chụp!
Mẹ tôi nóng
tiết, quăng que củi cầm trong tay theo anh, gắt ầm nhà. Anh hai tôi bấm vào đít
tôi một cái, dấu hiệu giữ mình chúng tôi vẫn báo cho nhau vào giờ phút nghiêm
trọng. Mẹ tôi bảo ông thợ ảnh:
-Ông cứ chụp
cho hai cháu cũng được. Thằng con đầu của tôi chết rồi!
Do
một sự hớ hênh rất có ý nghĩa của người thợ ảnh, tấm hình được chụp ra với cái
chỗ trống anh cả tôi bỏ lại. Đôi mắt tôi, mỗi lần đặt lên bức ảnh, chợt thấy
thiếu một cái gì, và điều này làm tôi bồi hồi, cảm động. Tôi chạnh lòng, thấy
số phận của anh cả tôi hẩm hiu quá. Ngày xưa cũng như ngày nay, người anh đau
khổ ấy vẫn bước những bước cô quạnh trong cuộc đời, sống với mình hơn là sống
với người xung quanh, nóng nảy và liều lĩnh.
Một lần đang
ngồi ăn cơm với nhau, không nhớ tôi nói hỗn điều gì, anh cả tôi ném ngay cái
bát vào mặt tôi. Cơn nóng nổi lên, tôi quăng trả cái chén, và cứ thế, chúng tôi
nhảy vào nhau, đấm nhau, cắn nhau.
Thường thường,
sau những phút giận dữ như trên, tôi thấy lương tâm bị giày vò, day dứt. Tôi
dịu ngọt làm thân với anh cả tôi, nhưng chỉ được vài ngày, chúng tôi lại xem
nhau như thù địch. Có điều mãi đến nay tôi vẫn lấy làm lạ, là càng ghét anh bao
nhiêu, tôi lại càng thương anh bấy nhiêu.
Trước đây, anh
cả tôi có quen biết một người con gái mà đôi mắt, tôi còn nhớ, tròn như đôi mắt
bồ câu. Nhưng tình yêu vốn là thứ hay vỡ vì bất cứ một cái chạm nhẹ nào, anh
tôi đã thấy chết mối tình đầu âm thầm và vô vọng, rồi về quê nội lấy một người
vợ mà tôi chắc rằng anh không yêu lắm.
Đây là một đoạn
đời bất thường của anh cả tôi ở bên quê nhà do chính anh thuật lại:
-
... "Thế rồi đến lượt anh. Anh bị trói gô vào một xâu cùng với những người
khác, chỉ vì anh là người lạ mặt lạc vào thành phố, đúng cái hôm nổ ra cuộc
cách mạng đánh đổ nhà Mãn Thanh. Cây súng, anh còn nhớ rõ, cây súng có cái nòng
ngắn, nhưng anh thấy nó đen ngòm và sâu không đáy. Bốn người bên anh đã ngã gục
xuống, và sắp đến lượt anh..."
Tôi sợ quá,
nhảy chồm lên, hỏi:
- Thế người ta
có bắn anh không?
Anh hai tôi
đang nghe chuyện, vênh mặt lên bảo anh cả tôi:
- Bé nó hỏi
thật dở nhỉ? Đã bắn rồi thì làm gì còn sống mà ngồi kể chuyện nữa!
Anh cả tôi kể
tiếp:
- ... "Thế
rồi đến lượt anh. Nhưng lúc cây súng sắp giơ lên thì cũng là lúc cây súng... hạ
xuống. Khi ấy là vào đúng ban trưa, vì anh nhớ rõ là trời nắng lắm. Thì ra hôm
anh bị bắt, ông nội chúng mình đi vắng. May ông về kịp, hối hả gom góp được một
món tiền và thuốc phiện lên biếu quan huyện. Thế là quan sai lính phi ngựa ra
pháp trường, hô tên anh là Ho Yan lên, và cứu thoát!"
Nghe xong
chuyện, anh hai tôi bấm tôi ra chỗ vắng mà bảo:
- Anh cả anh ấy
bị một mẻ mất vía, nên từ đó anh mất vía luôn. Cứ buổi trưa trở đi là anh như
người lẩn thẩn, và đêm nào cũng lảm nhảm nói mê.
Anh cả tôi có
một tâm trạng đúng như vậy. Chị dâu tôi cứ việc yên lặng nằm bên cạnh mà cũng
biết hết anh đã làm gì, nghĩ gì hay bậy bạ gì trong ngày hôm ấy.
Một lần, mẹ tôi
mất năm chục bạc. Đến đêm, anh cả tôi tự khai ngay ra:
- Còn khoắng
một mẻ nữa là ít. Ngần ấy đã ăn thua gì! Đại để là thế. Ban ngày, anh tôi tính
toan gì trong bụng, thì đến đêm nói hết ra ngoài miệng. Tâm hồn anh như căn lều
trống, gió thổi qua không vướng một bức vách, thổi một mạch, thổi vù vù. Trước
đây mấy năm, và đây cũng là nguyên do khiến mẹ tôi ghét anh, một chiều đi học
về, tôi ngạc nhiên thấy một quang cảnh đổ vỡ bừa bãi. Mẹ tôi, bên cạnh là người
đầy tớ trai, đang giận dữ ném các đồ vật vớ được về phía anh, dồn anh vào một
góc tường.
Anh tôi không
kêu, không khóc, nhưng nét mặt xạm lại, một nỗi hằn học lẫn đau đớn vỡ tràn
trong cặp mắt ngầu đỏ.
Cuối cùng, tôi
thấy anh cả tôi kêu lên một tiếng, ngã xuống: một dòng máu chảy ra trên vai
anh, thấm vào manh áo rách. Trong cảnh hỗn loạn, bỗng nhiên, anh tôi vớ được
một thanh mác, thứ khí giới phòng kẻ trộm hồi ba tôi còn sống, lao về phía
trước mặt. Mũi mác cắm phập vào chiếc tủ đứng, và tiếng mẹ tôi la lên:
- Nó giết, nó
giết tôi, các ông, các bà ơi!
Thực ra đó chỉ
là cách chống đỡ điên cuồng và tuyệt vọng của một người bị thương, gần như loạn
óc. Sau tiếng kêu của mẹ tôi, tôi nóng mắt, sẵn hòn gạch vớ được, ném về phía
anh...
Từ
đấy, mẹ tôi vẫn dùng hai tiếng "sát nhân" gán cho anh, mỗi lần tức
giận. Lòng mẹ tôi đã gần như mất hết thiện cảm đối với giọt máu của mình, đốt
mía sâu đục. Còn tôi, tôi không thiếu tình thương hại mỗi lần tôi nghĩ đến
người anh đau khổ, nghĩ đến cái gì không tươi đẹp đã làm hoen ố cả một quãng
đời của ba chúng tôi.
*
* *
Rồi anh Cả tôi
mất vào một năm lụt lội, đói kém. Anh bỏ nhà, đi lên miền ngược, tìm lại những
người bạn ngày xưa, vì anh vừa đói cơm trắng lại vừa đói cơm đen. Nhưng anh đã
chết ở dọc đường vì kiệt sức. Dân địa phương đi qua, làm phúc vùi tạm xác anh ở
một góc rừng đâu đó.
Hôm được tin
anh chết, tôi ở xa không về được, chỉ có chị dâu tôi và đứa cháu đầu lòng thất
thểu kéo nhau đi tìm xác anh. Mẹ tôi thì già yếu, nhặt nhạnh được một thúng lá
chuối khô, dặn chị tôi mang theo.
Tôi thương anh
tôi khi anh còn sống, hơn là khi đã chết. Chết
như anh là thoát. Tôi thương những giọt nước mắt mẹ tôi chắt ra từ đáy lòng để
khóc lần cuối cùng đứa con dại dột. Và tôi hay nghĩ đến bó lá chuối khô của mẹ,
thứ "cây nhà lá vườn", không tốn tiền mua, mà chị dâu tôi mang theo
để gói hài cốt của chồng.
1942 Rút từ tập Hồ Dzếnh - Tác phẩm chọn lọc.
Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1989.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét