CHÂN DUNG HAY
CHÂN TƯỚNG NHÀ VĂN (KỲ 9)
Nhà văn Đỗ Chu
Mở đầu thập kỷ 1960, thập kỷ của “sóng Duyên Hải,
gió Đại Phong, trống Bắc Lý, cờ Ba Nhất”, thập kỷ “hồ hởi”,”phấn khởi”, sắn
tay xây dựng chủ nghĩa xã hội trên toàn miền Bắc, ông trùm thơ cách mạng Tố Hữu
khoái trá hạ bút:
Chào 61! Đỉnh cao muôn trượng
Ta đứng đây, mắt nhìn bốn hướng
…
Đời trẻ lại. Tất cả đều cách mạng!
Rũ sạch cô đơn, riêng lẻ, bần cùng”
Thi sĩ Chế Lan Viên cũng cao giọng hùa theo:
Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm!
Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?
….
Mặt trời đến mỗi ngày như khách lạ,
Gặp mỗi mặt người đều muốn ghé môi hôn…
“Lạc quan cách mạng” đến thế là hết cỡ. Các văn sĩ tất nhiên
không chịu kém cũng múa bút , căng ngực, hít hơi thổi cho những con chữ bay
bổng chín tầng mây.
Trong dàn kèn đồng khí thế “nuốt Ngưu đẩu” đó, bỗng
xuất hiện một tiếng sáo véo von góp vào dàn tụng ca. Đó là nhà văn Đỗ
Chu, xuất hiện năm 1962 với những truyện ngắn “Ao làng”,
“Thung lũng cò”, “Hương cỏ mật”, “Mùa cá bột” … khác lối viết của các
bậc đàn anh Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu… bằng sự tươi tắn, mới lạ trong
những chi tiết gần gũi đời sống như “mùi bùn”, “mùi đất”,”mùi cỏ” quê anh và
lập tức được báo chí tôn vinh là một tiếng nói tươi tắn, mới lạ kể lại những
ước ao, khát vọng, cách sống của thế hệ mình!
Thử đọc lại trích đoạn “Hương cỏ mật” mở đầu sự
nghiệp Đỗ Chu:
“Sau làng em có trái núi Voi, núi Voi đối với tụi nhỏ chúng
em như người bạn lớn tuổi hiền từ. Voi cho chúng em bao nhiêu thứ: những cụm cỏ
mật khô thơm ngào ngạt, những viên đá cuội trắng nõn, tối tối mang đập vào
nhau, lửa toé ra,
một thứ lửa có mùi thơm như mùi mật ong cháy. “Vòi Voi” là một bãi cỏ tươi tốt
quanh năm, đất ở đây mềm như đất ruộng màu, ngày xưa có chỗ chân trâu ngập
móng. Chúng em thường lên đó chăn trâu. Trong các bạn cùng xóm, em thân nhất
với Phương. Chính cái Phương đã bảo em cách làm cho cỏ mật còn xanh hết mùi
hắc. Chỉ cần buộc túm những cụm cỏ xanh ấy lại, đem phơi nắng rồi hong gió, cỏ
héo vàng đi, toả hương
thơm dìu dịu (...)”
“Hương cỏ mật” được tôn vinh là áng văn chương đẹp, mê hoặc
người đọc nhiều thế hệ. Tuy nhiên, các 8x, 9x ngày nay mà viết lách dễ dãi thế
thì khó lòng lọt được vào mắt bạn đọc, nói gì tới chuyện trở thành mẫu mực văn
chương. Mới đây nhà thơ Trần Mạnh Hảo viết trên Dân Luận ngày 8-9-2011:
“Đỗ Chu mê “Bông hồng vàng”, “Lẵng quả thông”
của Pautopxki (do Vũ Thư Hiên dịch đầu những năm sáu mươi của thế kỷ trước).
Giọng văn đầy chất thơ, lãng mạn và tươi mát như suối nguồn, như ánh trăng của
nhà văn Nga này mê hoặc Đỗ Chu và các nhà văn trẻ thời đó. Đỗ Chu đã
viết các truyện đầu tay như “Phù sa”, “Hương cỏ mật”, “Thung lũng cò” … khá hấp
dẫn như một ông Pautopxki con con… Nay cái thời ấy xa rồi, thưở ban đầu ấy xa
rồi, lối viết lãng mạn kiểu Pautopxki qua rồi, nhường hiện thực dữ dội cho
những cây bút dữ dội. …”
Mặc dầu vậy tác phẩm của Đỗ Chu vẫn xuất hiện và vẫn được ca
ngợi, khen thưởng đều đều. Năm 1963 giải thưởng cuộc thi truyện ngắn của Tạp
chí Văn nghệ quân đội, 2001 giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật, 2002
giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam, 2004 Giải thưởng ASEAN, 2011được đề cử
Giải thưởng Hồ Chí Minh. Chẳng những “cha thiên hạ” về giải thưởng, Đỗ Chu còn
là một thứ… “già làng” ở Hội nhà văn.
Tuy không giữ chức vụ gì nhưng quan chức trong các cơ quan
cấp 1, cấp 2 cũng đều nể sợ “già làng”, có chân giò, xỏ lợn, mâm xôi gì chia
chác bất kỳ lớn nhỏ cũng không được quên. Thời mồ ma nhà văn Trần Hoài Dương,
có lần anh kể với tôi: “Danh sách BCH Hội nhà văn Khoá 6
lẽ ra không có tên nhà thơ Y Phương. Thế rồi Ban trù bị đại hội đang họp thì Đỗ Chu ở
đâu bổ tới lớn tiếng: “Các anh đã nghe ý kiến đồng chí Tổng Bí thư Nông Đức
Mạnh vừa gọi tới chưa? Đồng chí hỏi Ban chấp hành Hội nhà văn khoá này có đại biểu dân tộc không ?” Mọi người xanh mắt,
Hữu Thỉnh lập tức bổ sung ngay Y Phương vào Ban chấp hành”.
Chuyện thực hư chẳng biết sao nhưng qua đó thấy cái uy “già
làng” của Đỗ Chu đối với quan chức Hội Nhà văn là có thực.
Được Đảng nuôi suốt đời, trách gì Đỗ Chu chẳng hết lòng với
Đảng, có lần ông nửa đùa nửa thật với bạn bè:
“Tớ là một nhà văn nên tớ rất thích câu thơ Việt Phương:
“Cuộc đời yêu như vợ của ta ơi”. Cuộc đời thì rộng lớn lắm. Cuộc đời thì trong
đó có đảng. Nên tớ yêu đảng như yêu vợ. … Tớ coi đảng là vợ. Đảng bẩn thì tớ
mua xà phòng cho đảng tắm. Mua nước hoa cho đảng thơm. Đảng nói thì không
được cãi. Đảng bảo ăn là ăn. Đảng bảo uống là uống. Đảng bảo nằm là nằm. Đảng
bảo lên giường là lên giường. Đảng bảo ra đường là ra đường. Đừng có mà léng
phéng... Cho nên tớ cũng không thể rời hội nhà Văn được. Tớ thề sẽ sống mãi với
hội nhà Văn để tận tâm tận lực viết văn ca ngợi vợ. “Cuộc đời yêu như vợ của ta
ơi”. Việt Phương vẫn làm thơ chung chung quá. Cứ như tớ, tớ sẽ viết thế này:
“Đảng thương yêu ấy vợ của ta ơi”.
Tuy nhiên chứng kiến các đàn anh như Chế Lan Viên, Nguyễn
Đình Thi, Nguyễn Khải… trước khi nhắm mắt cũng có đôi lời “phản tỉnh”, Đỗ Chu
khi về hưu cũng có “tâm sự” với Văn Chinh:
“Không biết nên phải hiểu từ lúc nào mà chúng ta đã bước từ
chủ nghĩa dân tộc vào CNXH, rồi từ lúc nào từ Dân chủ Cộng hoà thành XHCN? Vì
đâu mà có rất nhiều khái niệm hết sức hệ trọng bỗng nhiên bị đánh tráo. Bên
dưới lòng yêu nước liệu còn có những gì đang nhân danh nó và đang được nó nguỵ trang?
Nhìn lại, không biết tại làm sao khi chúng ta học những cái
tồi tệ của thiên hạ thì dễ thế, mà đến khi cần học những cái tốt đẹp thì khó
quá. Rồi lại không biết bởi đâu mà khi người ta không ra gì, khi người ta mù
mịt đảo điên thì người ta sẵn sàng kết anh em với mình, còn tới khi người ta
tỉnh táo ra một chút là y như rằng người ta có ý khinh rẻ mình thì phải…”
Tất nhiên lời tâm sự của Đỗ Chu cũng chỉ là xa xôi, bóng
gió, nhưng liệu có phải sau khi về hưu ông đã bắt đầu nghĩ… khác như “thời
thượng” hiện nay.
Nhà thơ Xuân Sách dường như cũng không mấy “ngưỡng mộ” Đỗ
Chu nên làm thơ chân dung có ý mỉa mai:
Đám cháy ở
sau lưng
Đám cháy ở trước mặt
Than ôi mày chạy đâu
Dưới vòm trời quen thuộc
Đốt bao nhiêu cỏ mật
Không bay mùi thơm tho
Càng hun càng đỏ mắt
Quay về thung lũng cò
(còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét