THIÊN SỨ
CHƯƠNG 5 - TỦ SÁCH
Bây giờ, không ai nhắc đến quyển sách ấy nữa: “Nhãn đầu mùa”, quyển sách dẫn cuộc đời tôi sang một lối ngoặt.
Hôm ấy, cả nhà vắng, nghiễm nhiên tôi thành chủ nhân thế giới
400 ô vuông nâu. Tôi khóa trái cửa, giữ chặt chìa khóa trong tay và tận hưởng
vai trò bà chủ. Tôi không nhớ, bằng cách nào mình đã tấn công tủ sách khổng lồ
của bố, khu vườn cấm đầy mời gọi. Trước đó thế giới trí thức của tôi đóng khung
trong những bài giảng kiểu “Thịt đóng vào ống bơ” của thày Kiên, trong những số
báo “Thiếu niên tiền phong” hai màu lòe loẹt và ngớ ngẩn, trong một vài đầu
truyện Kim Đồng do người lớn hạ cố viết cho lủ trẻ, của bố thí hèn hạ. Bố cai
quản tủ sách như ông vua độc đoán coi giữ vườn cấm.
Tôi đã hoa mắt trước một rừng hoa thơm của lạ, rồi đánh liều hái
bừa, một cuốn sách không quá dày, không quá mỏng: “Nhãn đầu mùa”. Không thể nhớ
người ta kể chuyện gì trong đó, hình như chuyện chiến tranh, có súng ống và
người chết. Điều duy nhất đọng lại trong tôi là mối tình của một cô du kích
xinh đẹp và một anh bộ đội lực lưỡng. Không, không phải chuyện mối tình. Các
chuyện cổ tích chẳng đầy rẫy những mối tình đó sao? Chúng chẳng gợi gì hơn một
bài học luân lý, giản đơn và không hiếm khi ngốc nghếch. Tôi tiếp xúc với
chuyện cổ tích bằng thái độ của người biết rồi phải nghe lại, không chút cảm
xúc. Mà thực ra tôi đã biết gì? Còn ở đây, tôi đã mê mải, đã nuốt nước bọt, đã
hẫng vào một trạng thái chưa từng biết, toàn bộ nửa dưới cơ thể không hoạt động
bình thường nữa, chơi vơi không trọng lượng, rồi rơi tõm vào một đáy sâu không
sao định nghĩa nổi. Một thân thể trắng ngần ngập ngừng hiện ra dưới ánh trăng
vằng vặc, bộ quần áo du kích nâu non toạc rách, bàn tay mạnh mẽ của người đàn
ông vụng về thèm khát một bầu ngực căng tròn run rẩy.
Giữa căn phòng khóa trái, tôi lột hết quần áo trên mình và tủi
hổ bật khóc với cô bé 14 tuổi ngơ ngác trong gương. Bàn tay tôi quả quyết đi
tìm bộ ngực chưa kịp nhú ra đã bị chặn lại của mình, không chút xúc cảm, không
chút rùng mình đầy ma lực. Quyển sách văn học hạng bét ấy đã kết thúc giai đoạn
ngây thơ của tôi.
Sau này, nhiều tác phẩm xuất sắc, bằng cách này cách khác đến
tay tôi, nhưng không cuốn nào xóa nổi dấu ấn quyết định của “Nhãn đầu mùa”. Có
những kẻ may mắn, cánh cửa dẫn họ đến thế giới tri thức là loại cửa sơn son
thếp vàng, được xếp hạng chính thức, mở vào một vùng ánh sáng soi tỏ những
tượng đài tề chỉnh, họ chỉ việc bước đi trong vùng ánh sáng ấy, dưới những
tượng đài ấy, rồi ở nơi nào đó, lại một cánh cửa sơn son thếp vàng khác chờ
sẵn. Cánh cửa của tôi sặc mùi da thịt nhớp nhúa, đằng sau nó là bóng tối tội
lỗi và bí ẩn, nhưng quyến rũ biết bao, vô tận biết bao. Tôi không ghen tị với
những cánh cửa sơn son thếp vàng, tôi giữ mãi lòng biết ơn dành cho biến cố
trọng đại đầu tiên trong đời sống tinh thần mình, dẫu nó xứng đáng hay không.
Buổi tối, gia đình tụ họp, tôi lắng nghe những câu chuyện gẫu
của bố mẹ, anh chị, và mỉm cười độ lượng. Những kẻ ngoại đạo.
Mặc dù còn lâu tôi mới hiểu những tiếng động ý tứ từ phía giường
bố mẹ.
Đêm về, lần đầu tiên tôi mơ thấy một một bãi tắm ánh trăng, bộ
quần áo du kích bỏ quên sát chân sóng, và rùng mình tỉnh dậy, toàn bộ nửa dưới
người ướt đẫm, tê liệt và khoan khoái lạ thường. Bên cạnh, chị Hằng vẫn ngủ
say. Tôi cởi cúc áo chị, lặng lẽ ngắm. Đến bây giờ tôi vẫn không dứt nổi thói
say mê ngắm nhìn ngực phụ nữ, khao khát vuốt ve những da thịt trắng ngần. (Chị
Hằng: “Có bệnh hoạn không đấy, con ranh?”)
May mắn, bố là một nhà sưu tập đam mê, với 2 động cơ chính:(1)
trưng bày collection của mình như khai báo một bộ mặt tinh thần giàu có tươi
tốt, bộ mặt hiếm thời cơ xuất hiện trong cuộc sống đầy rẫy những chuỗi xoắn kép
thường ngày; (2) mở một hiệu cho thuê sách lúc về hưu – hình ảnh một ông già
tóc trắng kính trắng đứng bên quầy sách có lẽ là ước mơ cuối cùng trong cuộc
đời không nhiều ước mơ lắm của bố tội nghiệp. Độ phong phú của bộ mặt tinh thần
và ước mơ của bố tăng trưởng tỉ lệ thuận với số đầu sách. Bao giờ cũng là những
quyển “hiếm lắm”, “quý lắm”, “phải mua tay mới có được đấy”, bao giờ bố cũng
ghi rõ ngày tháng, địa điểm mua – “quán sách cũ Bà Triệu”, “Hiệu sách Quốc văn
tổng hợp” v.v... và kí chữ kí rắc rối của mình ở trang đầu, rồi trang 17, xác
định quyền sở hữu bất khả xâm phạm với tài sản văn hóa nhân loại. Bố tội
nghiệp.
Sau “Nhãn đầu mùa”, tôi ào ào tấn công các cánh cửa khác. Ba
phần tư trong số ấy chỉ là những attrape không đáng nửa xu, món độn chế biến
vội vã cho những dạ dày văn hóa ăn tạp.
“Ruồi trâu” không làm tôi xúc động, tôi từ chối các trò ú tim
săn đuổi, những bí mật nửa kín nửa hở, những hồi hộp lên dây cót sẵn, những
khung cảnh tạo dựng để thi thố một vài phẩm chất không cố định của con người,
như lòng dũng cảm-hèn nhát, đức cao thượng-đê tiện... xoay xung quanh một người
đàn ông và một người đàn bà, Đó không phải một tác phẩm chân thực, âu cũng là một
dạng cổ tích viết tồi, dẫu dài hơn mọi chuyên cổ tích tôi từng biết.
“Thép đã tôi thế đấy” còn thiếu chân thực hơn. Có lẽ không phải
lỗi ở người viết. Ông ta thực lòng tin một câu chuyện giả, và thuyết phục không
ít kẻ tin theo. Cái tên sách, cũng như anh chàng Pavel, gợi cảm giác xa lánh
nơi tôi, như xa lánh hết thảy những gì tỏ ra mạnh mẽ mà không cuồng dại. Lời
tuyên bố của anh ta về cái chết; “... để đến khi nhắm mắt xuôi tay, khỏi thấy
mình sống hoài sống phí...” đã sổ một nét tàn nhẫn phân cách đời sống và cõi
bên kia, đặt một câu hỏi vô lí về ý nghĩa cuộc đời. Phải, ý nghĩa cuộc sống,
chính tôi cũng không ngừng băn khoăn về nó trong vòng luẩn quẩn của 400 ô vuông
nâu và một khuôn hình chữ nhật biến ảo, nhưng làm sao có thể đặt một câu hỏi
choáng ngợp, thậm chí che lấp cả bản thân sự sống như thế. Anh ta hẳn không bao
giờ biết tới những thiên sứ pha lê vụt đến, vụt đi, ban phát và trao tặng không
hỏi vì sao, bí ẩn và mỏng mnah như bé Hon của tôi.
Hai cuốn sách quyết định bộ mặt tinh thần của cả một thế hệ. Con
đẻ của thế hệ ấy, không thành những Ruồi Trâu thì thành Pavel Kortshagin, đi đứng,
nói năng, tư duy, sống và yêu đương trong bộ đồng phục tinh thần may sẵn, hiệu
Voynich hay Ostrovsky. Có vài mẩu tinh thần khác phụ thêm, tạo cảm giác nào đó
như thể phong phú và sinh động trong khuôn khổ, đại loại “Jane Eyre”, mélodrame
lâm li hậu hĩnh, “Nam tước Phôn Gôn-rinh”, mélodrame lâm li không hậu hĩnh cho
lắm, hay Pautovsky – Bông hồng vàng, mélodrame ngọt ngào cố tỏ vẻ
anti-mélodrame thông tục.
Tôi khước từ thế hệ ấy, không chỉ bằng lễ rửa tội vĩ đại năm 14
tuổi. Tôi khước từ quan hệ họ hàng với những nhân vật xa lạ kia, khước từ những
sản phẩm confection may hoàng loạt.
Có những thế hệ may mắn – hoặc bất hạnh hơn, ai biết? – ra đời
trong những đồng phục tinh thần khác. Có lẽ bố mẹ tôi đã lớn lên với
Scholochov, Balzac, hay các “Tiểu thuyết thứ bảy” và “Tự lực văn đoàn” nào đó.
Baudelaire, Lermontov, Tschechov, hết thảy người Nga và người Pháp. Nếu buộc
lòng phải chọn một mô hình nào đó, tôi cầu chúc cho các thế hệ sau một hành
trình văn hóa dài hơi hơn. Đừng bỏ quên mảnh đất nào trên địa cầu, nhất đừng
quên mảnh đất ngay dưới chân mình.
Tôi từ chối không đứng vào bất kì thế hệ nào. Tôi từ chối bất kì
bộ đồng phục quá chật hoặc quá rộng nào. Hãy để tôi trần truồng với cơ thể còm
nhom sớm đình tăng trưởng của tôi.
Vậy mà có một cuốn sách đã theo tôi suốt chừng ấy năm: hiệp sĩ
cô đơn Don Quichotte. Lúc đầu tôi gạt chàng sang bên, chàng lạc lõng giữa những
cuộc tìm kiếm bất tận của tôi theo các mối tình, thật và không thật, gợi đê mê
hay trơn chuội. Cho đến khi tôi giật mình dõi theo cuộc chiến đấu vô vọng và
thơ mộng của chàng, chẳng riêng chống lại những chiếc cối xay gió nổi tiếng.
Không thể nói gì hơn về chàng, như không thể nói gì về những giấc mơ lặp đi lặp
lại của tôi, mơ những điều không thể xảy ở đời.
Sau này, thế giới sách sở đã mở những cánh cửa bất ngờ nhất đón
tôi. Tôi lang thang trong cái mê cung ấy, không một sợi chỉ dẫn đường. Nơi cần,
lắm khi phải vòng vèo mới tới, lại không được phép ngoảng nhìn đám núi lớn núi
nhỏ sách vở đằng sau. Như bị thúc vào lưng, tôi lập những kỉ lục siêu nhân về
tốc độ tiêu thụ sách. Thừa nhận, nhiều quyển bị tôi nuốt chửng, chưa kịp tiêu
hóa – thói quen của kẻ nhịn đói lâu ngày – chồng chất ngổn ngang trong tôi,
nhưng không chịu đào thoát. Rất lâu, rất lâu sau, tôi, con nhà nghèo, mới biết
làm chủ cung cách thưởng thức những bữa tiệc thịnh soạn của kho tàng văn hóa
nhân loại.
Mỗi người một phong độ. Bố tôi thưởng thức bằng cách lo sao cho
những tư tưởng vĩ đại từ cổ kim đông tây chen vai thích cách trong tủ sách gia
đình, rồi nhốt chặt chúng sau lần bìa cứng, một đám ma giấy không đến nỗi thiếu
sang trọng. Mẹ khước từ văn hóa, phản ứng bản năng, phản ứng sinh tồn, không
phải không gợi cảm phục nơi tôi. Anh trai cả, anh Hạc, chia xẻ triệt để thái độ
của mẹ, phản ứng có điều kiện, những tín hiệu báo động thường xuyên xuất hiện
trong cuộc thí nghiệm khổng lồ 31 năm trời anh vừa trải qua đã vĩnh viễn xóa bỏ
cảm tình dành cho bất kể điều gì gợi hơi hướng văn hóa. Anh bỏ học năm 13 tuổi,
chưa hết lớp 7, cười khẩy trước cái “uy tín danh dự gia đình cán bộ” của bố, nhún
vai trước cặp mắt van nài của mẹ, bỏ đi bán kem, phe vé, đưa báo, đạp xích lô,
đủ nghề, nhập ngũ, đào ngũ, rồi lại nhập ngũ, cuối cùng xuất ngũ và trở thành
chủ số đề, một công việc chỉ liên quan tới dãy số tự nhiên từ 00 đến 99 mà vốn
liếng văn hóa dở dang của anh có thể bảo toàn. Anh thứ hai, anh Hùng, là chiếc
cầu quan trọng nối từ người con cả, đứa con bỏ đi, đến tôi, đứa con út nặng nợ
của gia đình. Thái độ trung lập đối với văn hóa tiêu biểu cho toàn bộ thái độ
sống của anh ở mọi lĩnh vực. Anh luôn đứng giữa, ôn hòa, cái gì cũng biết một
chút, cái gì cũng say mê một chút, toàn diện và hời hợt, vừa đủ thông minh để
hài lòng với mình, vừa để tốt bụng để tránh hại kẻ khác, một liên từ cần thiết,
nối những mệnh đề phụ dài dòng rắc rốivà mệnh đề chính cụt lủn không ăn nhập
nhau về ngữ nghĩa. Hậu sinh khả úy, anh không lặp lại những động tác sưu tập và
đóng quan tài giấy của bố, anh biết đến sách vở, như đến với bóng đá, đàn
guitar, hay các cô gái đẹp. Gia đình và họ hàng tôi ngưỡng mộ anh vô điều kiện,
tệ sùng bái các dấu gạch nối.
Đến hai chị sinh đôi Hằng Hoài, sách vở đã là không khí hít thở.
Tốt nghiệp đại học, chị về làm việc tại thư viện quốc gia, thư viện lớn nhất ở
miền bắc. Tôi không còn phải trông cậy vào collection thượng vàng hạ cám của bố
nữa. Nguồn cung cấp trung thành nhất là chị Hằng, dẫu chị đưa tôi sách với vẻ
hạ cố, như những người soát vé dễ tính thường nhắm mắt làm ngơ để trẻ em chưa
đủ tuổi thành niên vào xem phim cấm. Chim muông cùng ăn một quả mà trả những
hạt vàng khác nhau. Hai chị em tôi cùng hít thở một bầu không khí, nhưng chị đã
thành một người đàn bà xuất sắc, thông minh, nhạy cảm, đầy tham vọng, còn tôi
mãi mãi không vượt qua ngưỡng cửa dẫn vào thế giới người lớn, dẫu từ lâu, từ
thuở đặt chân vào khu vườn cấm của cha, tôi đã lãnh trọn tội tổ tông và không
bao giờ còn trinh trắng nữa.
Ở nhiều gia đình khác, tôi chứng kiến một tiến trình văn hóa
ngược lại. Những tủ sách khổng lồ, truyền từ đời cha ông, đến con cháu bỗng tan
tác, chỉ còn thấy vài mảnh nay mắn lạc vào một quán sách cũ nào đó, nếu không
tập kết tại các gánh đồng nát hay hẩm hiu hơn, dưới đáy xoong nồi hoặc các nhà
vệ sinh công cộng. Dù sao mặc lòng, tôi có đủ chứng cớ khẳng đnh học vấn và tri
thức là hai thứ rất ít liên quan tới các nhân tố tạo homo-A.
Chiều nay, anh ta lại đến dưới cửa sổ, không quên chiếc bơm. Hẳn
anh ta đã qua lớp 10; ở thập kỉ này, bằng tốt nghiệp phổ thông còn nói lên điều
gì? Anh không phải là người chăm đọc, chí ít, anh tỏ ra không lấy thời gian vục
đầu vào bất kể quyển sách nào thuận tay vớ được. Nhưng anh homo-A từ đầu tới
chân. Triệu người may lắm có một. Số mệnh run rủi đẩy anh vào tầm tay tôi, có
những người sinh r a để thuộc về nhau. Tôi đã chờ anh bao nhiêu năm ròng bên
cửa sổ. Kẻ vô địch trong nghệ thuật chờ đợi, giờ lại hoảng sợ cố thu mình thành
ốc, để khỏi nôn nóng phá hỏng phút quyết định cuối cùng.
Chương 4 - Chủ nhật
Chương 6 - Chuyển động
BROWN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét