Ba nhân vật Thuấn, Thuần và Thủy trong Tướng Về Hưu là ba mô-típ điển hình thời đại:- Người cha, ông Thuấn, tướng về hưu, 70 tuổi, lãnh đạo "chính thức" gia đình. Trốn nhà đi bộ đội từ năm 12 tuổi. Không thích văn học. Thích viết thư "giới thiệu" người quen. Trọng việc lớn: "chiến tranh". Khinh việc nhỏ: "kiếm tiền". Nhưng không ngại tiêu và thích cho tiền.- Người con trai tên Thuần, 37 tuổi, đã du học nước ngoài, nghề nghiệp kỹ sư nhưng làm việc ở viện vật lý. Trí thức ăn bám. Nhục. Gì cũng hỏi vợ. Vợ rúc rích với tình nhân ở nhà: Lẩn. Ðếm 28 mâm cỗ, vợ bảo 32 cũng gật. Duyên do là bởi anh đếch sống được một mình: ông bố bảo vậy.- Người con dâu, tên Thủy, lãnh đạo "thực thụ" gia đình, chủ trì kinh tế, nuôi 8 miệng ăn. Nghề nghiệp: bác sĩ nạo thai. Sống nhờ lợi tức nuôi gà vịt, nuôi heo, nuôi chó béc-giê bằng thai nhi.Sau đây là một trích đoạn trong Tướng Về Hưu:"Một tối, tôi đang đọc Sputnhich, cha tôi lặng lẽ đi vào. Ông bảo: "Cha muốn nói chuyện với con". Tôi pha cà phê, cha tôi không uống. Ông hỏi: "Con có để ý công việc của Thủy không con? Cha cứ rờn rợn.""Vợ tôi làm việc ở bệnh viện sản, công việc là nạo phá thai. Hàng ngày các rau thai nhi bỏ đi, Thủy cho vào phích đá mang về. Ông Cơ nấu lên cho chó, cho lợn. Thực ra điều này tôi biết nhưng cũng bỏ qua, chẳng quan trọng gì. Cha tôi dắt tôi xuống bếp, chỉ vào nồi cám, trong đó có các mẩu thai nhi bé xíu. Tôi lặng đi. Cha tôi khóc. Ông cầm phích đá ném vào đàn chó béc-giê: "Khốn nạn! Tao không cần sự giầu có này!" Ðàn chó sủa vang. Ông bỏ lên nhà. Vợ tôi đi vào nói với ông Cơ: "Sao không cho vào máy xát? Sao để ông biết!" Ông Cơ bảo: "Cháu quên, cháu xin lỗi mợ."Tháng mười hai, vợ tôi gọi người bán sạch đàn chó bẹc giê. Vợ tôi bảo: "Anh thôi hút thuốc Ga lăng đi. Năm nay nhà mình hụt hai mươi bảy nghìn, chi lạm mười tám nghìn, cộng là bốn mươi lăm nghìn". (Tướng Về Hưu )Trích đoạn trên đây rất tượng trưng cho "kỹ thuật văn chương" của Nguyễn Huy Thiệp. Ðọc rồi, đọc lại, đọc kỹ, không chỉ có mình ông tướng thấy rờn rợn, mà chính chúng ta cũng thấy rợn, kẻ yếu bóng vía có thể bị tẩu hỏa nhập ma. "Kỹ thuật" ấy phản ánh nghệ thuật hỗn hợp bất nhân và có nhân trong một con người.Ông tướng, nhân từ và nhân hậu, sau 58 năm phục vụ tổ quốc, những tưởng "việc lớn trong đời đã làm xong" về nghỉ. Ở nhà, ông thấy gì? Ông thấy thai nhi nấu lên cho chó lợn. Ông khóc. Người con dâu chuyên nghề phá thai: một lần tội ác; trách người làm bằng một câu nói nhị hóa tội ác: "Sao không cho vào máy xát". Nhưng ngay sau đó, nàng lại nhẹ nhàng: "Sao để ông biết?". Chút ân tình nhỏ nhoi này đã rửa tội cho nàng. Rồi sự toan tính chi li sau đó: "Năm nay nhà mình hụt hai mươi bẩy nghìn, chi lạm mười tám nghìn, cộng là bốn mươi lăm nghìn" giải mã lối hành sự rợn người của nàng. Trong khi đó người chồng bình thản ngồi đọc Sputnhich. Nguyễn Huy Thiệp vừa vẽ nên thực trạng đen tối của xã hội, vừa lý giải tại sao có thực trạng đó bằng một lượng số chữ nghĩa cực tiểu; nhưng dòng mực đen, đậm, đặc và độc của nó đã thấm vào tận não thùy người đọc, khiến chúng ta phải vật vã, phải tư duy.*Người cha, ông tướng và chủ gia đình, bản tính nhân từ và độ lượng, nhưng soi kỹ ông chỉ là thứ xếp bù nhìn vô tích sự. Cả đời đi hoang, làm được mỗi việc lớn là chôn ba nghìn người. Ðến cái chết của ông cũng lãng xẹt: già rồi mà còn bò ra trận địa, mọi người dở tay đánh nhau, không ai tiếp; ông lần mò lên chốt một mình. Lóng ngóng, chết uổng.Con trai ông, trí thức, vô tích sự và vô trách nhiệm hơn ông: Trước tất cả khó khăn vật chất của gia đình, hắn hút Ga lăng, hắn đọc Sputnhich. Người chú, phu xe, vừa quịt nợ, vừa chửi: "Quân trí thức khốn nạn, rẻ dân lao động". Cũng đúng. Cũng đáng. Người vợ một mình xoay sở, chạy vạy, nuôi đủ hai con, hai bố mẹ, hai người ở và một chồng. Ðối với Thủy: cứu cánh biện minh cho phương tiện. Thảm kịch này không phải chỉ xẩy ra trong lòng một gia đình, mà là thảm kịch chung của mọi gia đình.Lối gọi người sinh ra mình là cha, có nhiều ngụ ý. Cha là bố trong nghĩa rộng, từ không để xưng hô mà để chỉ định. Có thể hiểu là cha chung, là cha của nhiều người, của chung chung.Ông tướng là hình ảnh người cha lý tưởng và không tưởng, một thứ cha chung, "cha già dân tộc" chăng? Cả đời chỉ lo chuyện lớn. Lấy việc bình quân làm lẽ sống. Lấy chiến tranh làm dưỡng khí. Trong hòa bình, ông thoi thóp, ông ngộp thở. Ông xây dựng thượng từng cơ sở trên vinh quang và chiến thắng mà không biết những vinh hạnh ấy dựng trên xác người. Ông không màng đến những chuyện nhỏ như kiếm tiền, kiến trúc xã hội, kiến trúc kinh tế, kiến trúc đời sống trong hạ tầng cơ sở. Ông tưởng ông phụng sự con người, thật ra ông chỉ thạo việc chôn người. Tha hóa và bất hạnh bắt nguồn từ chỗ đó. Vì xã hội thiếu hạ tầng cơ sở, dùng người không đúng chỗ, cho nên có du học ngoại quốc cũng bằng thừa. Người con trai kỹ sư, làm việc ở viện vật lý trở nên một thứ trí thức bất lực, ăn bám, hèn và nhục, ký sinh trùng của xã hội. Vì thiếu hạ tầng cơ sở, thiếu kế hoạch dân sinh và an sinh, người dân không dùng thượng sách ngừa thai mà phải xuống hạ sách phá thai. Bác sĩ sản khoa thay vì đỡ đẻ cứu người lại phải nạo thai, hủy trẻ. Những biện pháp bất nhân nho nhỏ này được phát triển, bình thường hóa, cập nhật hóa, dẫn đến những bất nhân linh tinh khác và trở thành một thứ trật tự, ổn định xã hội mới dựa trên các công thức chạy vạy, xoay xở, kiếm tiền và tất cả mọi thủ đoạn, mọi phương tiện đều tốt.Xã hội mới ấy khu biệt mẹ già. Mẹ già. Mẹ lẫn. Mẹ ngã. Mẹ chết. Nhìn xác bà miệng nhét đồng xu, cái Vi hỏi: "Ðấy có phải ngậm miệng ăn tiền không?" Ðạo đức xã hội thấm vào lời con trẻ. Ðám ma chị, tiếc quan tài gỗ giổi, ông Bổng chửi thề: "Mất mẹ bộ xa lông". Ðánh bạc canh xác chị, ông Bổng khấn: "Lạy chị, chị phù hộ cho em vét nhẵn túi chúng nó". Chị hấp hối, nhận ra mình là người, ông Bổng oà lên khóc: "Thế là chị thương em nhất. Cả làng họ gọi em là đồ chó. Vợ em gọi em là đồ đểu. Thằng Tuân gọi em là đồ khốn nạn. Chỉ có chị gọi em là người." Nguyễn Huy Thiệp kê khai ngần ấy thứ trong một con người: Ngoài người, kiếp gì có thể đa mang và đa đoan đến thế? Mức độ tha hóa, nhục nhã của kiếp người đã lên tới cực điểm ở đây.Tướng Về Hưu không phải là một truyện ngắn bình thường, theo nghĩa truyện ngắn, mà là sự cô đọng của một trường thiên trải ba kiếp người, hai thế hệ chồng chất những tương phản đớn đau, những đốn mạt hèn mọn, những nhầm lẫn, ngộ nhận, cô đơn, bất hạnh, vô trách nhiệm và vô tổ chức... giữa người với người, giữa những cá thể với nhau, và mỗi cá thể ấy lại là một thành viên của xã hội chúng ta đang sống. Ðấy mới là điểm kinh hoàng có thể làm loạn thần những tâm hồn "lành mạnh" nhất. (Thụy Khuê)
Tướng về hưu (sơn mài) của họa sĩ Thành Chương |
Nguyễn Huy Thiệp
I
Khi viết những dòng này, tôi đã thức tỉnh trong
vài người quen những cảm xúc mà thời gian đã xóa nhòa, và tôi đã xâm phạm đến
cõi yên tĩnh nấm mồ của chính cha tôi. Tôi buộc lòng làm vậy, và xin người đọc
nể nang những tình cảm đã thúc đẩy tôi viết mà lượng thứ cho ngòi bút kém cỏi
của tôi. Tình cảm này, tôi xin nói trước, là sự bênh vực của tôi đối với cha
mình.
Cha tôi tên là Thuấn, con trưởng họ Nguyễn. Trong làng, họ Nguyễn là họ lớn, số lượng trai đinh có lẽ chỉ thua họ Vũ. Ông nội tôi trước kia học Nho, sau về dạy học. Ông nội tôi có hai vợ. Bà cả sinh được cha tôi ít ngày thì mất, vì vậy ông tôi phải tục huyền. Bà hai làm nghề nhuộm vải, tôi không tường mặt, chỉ nghe nói là một người đàn bà cay nghiệt vô cùng. Sống với dì ghẻ, cha tôi trong tuổi niên thiếu đã phải chịu đựng nhiều điều cay đắng. Năm mười hai tuổi, cha tôi trốn nhà ra đi. Ông vào bộ đội, ít khi về nhà.
Khoảng năm... cha tôi về làng lấy vợ. Chắc chắn
cuộc hôn nhân này không do tình yêu. Mười ngày nghỉ phép bề bộn công việc. Tình
yêu đòi hỏi điều kiện, trong đó thời gian cũng cần.
Khi lớn lên, tôi chăng biết gì về cha mình cả.
Tôi chắc mẹ tôi hiểu về cha tôi cũng ít. Cả đời cha tôi gắn với súng đạn, chiến
tranh.
Tôi đi làm, lấy vợ, sinh con. Mẹ tôi già đi. Cha
tôi vẫn đi biền biệt. Thỉnh thoảng cha tôi cũng ghé về nhà, nhưng những lần về
đều ngắn. Cả những bức thư cha tôi gửi về cũng ngắn, dầu rằng dưới những dòng
chữ, tôi biết ở đấy ẩn chứa nhiều tình thương cùng với âu lo.
Tôi là con một, tôi đã chịu ơn cha tôi về đủ mọi
mặt. Tôi được học hành, được du ngoại. Cả những cơ sở vật chất gia đình cũng do
cha tôi lo liệu. Ngôi nhà tôi ở ven nội, xây dựng trước khi cha tôi về hưu tám
năm. Đấy là một biệt thự đẹp nhưng khá bất tiện, tôi đã xây cất dựa theo thiết
kế của một chuyên gia kiến trúc trứ danh, bạn của cha tôi, ông này đại tá, chỉ
thạo việc xây doanh trại.
Năm bẩy mươi tuổi, cha tôi về hưu với hàm thiếu
tướng.
Mặc dầu biết trước, tôi vẫn ngỡ ngàng khi cha
tôi về. Mẹ tôi đã lẫn (bà hơn cha tôi sáu tuổi), vì vậy thực ra ở nhà chỉ có
mình tôi có những tình cảm đặc biệt với sự kiện này. Mấy đứa con tôi còn bé. Vợ
tôi biết ít về ông, vì hai chúng tôi lấy nhau khi mà cha tôi đang bặt tin tức.
Bấy giờ đang có chiến tranh. Tuy thế, ở trong gia đình, cha tôi bao giờ cũng là
hình ảnh của niềm vinh dự, tự hào. Cả ở trong họ, trong làng, tên tuổi cha tôi
cũng được mọi người ngưỡng vọng.
Cha tôi về nhà, đồ đạc đơn sơ. Cha tôi khỏe. Ông
bảo: "Việc lớn trong đời cha làm xong rồi!" Tôi bảo:
"Vâng". Cha tôi cười. Tâm trạng xúc động lây sang cả nhà, mọi người
chuếnh choáng đến nửa tháng trời, sinh hoạt tùy tiện, có hôm mười hai giờ đêm
mới ăn cơm chiều. Khách khứa đến chơi nườm nượp. Vợ tôi bảo: "Không để thế
được". Tôi cho mổ lợn, đi mời họ hàng làng nước đến để chia vui. Làng tôi
tuy gần thành phố nhưng mà tập tục nông thôn còn giữ. Đúng một tháng sau, tôi
mới có dịp ngồi với cha tôi bàn chuyện gia đình.
II
Trước khi kể tiếp, xin nói về gia đình tôi. Tôi
ba mươi bẩy tuổi, là kỹ sư, làm việc ở Viện Vật lý. Thủy, vợ tôi, là bác sĩ,
làm việc ở bệnh viện sản. Chúng tôi có hai con gái, đứa mười bốn, đứa mười hai.
Mẹ tôi lẫn lộn, suốt ngày chỉ ngồi một chỗ.
Ngoài những người trên, gia đình tôi còn có ông
Cơ và cô con gái gàn dở của ông. Ông Cơ sáu mươi tuổi, quê Thanh Hóa. Vợ tôi
gặp cha con ông khi nhà của họ bị cháy, cơ nghiệp mất sạch. Thấy cha con ông
tốt bụng, đáng thương, vợ tôi sắp xếp cho họ ở với chúng tôi. Cha con ông ở
dưới nhà ngang, sinh hoạt riêng rẽ nhưng mọi chế độ thì do vợ tôi chu cấp.
Không có hộ khẩu, họ không có những tiêu chuẩn lương thực, thực phẩm như những
người dân khác trong thành phố. Ông Cơ hiền lành, chịu khó. Thường ông đảm
nhiệm việc chăm vườn tược, lợn gà và đàn chó giống. Nhà tôi nuôi chó béc-giê.
Tôi cũng không ngờ việc kinh doanh chó lại thu lợi lớn. Khoản thu này trội nhất
trong nhà. Cô Lài mặc dầu gàn dở nhưng lại xốc vác và nội trợ giỏi. Vợ tôi dạy
cô cách thức nấu bóng, nấu nấm, nấu gà hầm. Cô bảo: "Cháu chẳng ăn thế bao
giờ". Cô không ăn thật. Cả hai vợ chồng và hai con tôi không phải lo toan
công việc gia đình. Từ ăn uống, giặt giũ, tất cả giao cho hai người giúp việc.
Vợ tôi cầm chịch các khoản chi tiêu. Tôi bận nhiều việc, hiện đang vùi đầu vào
công trình ứng dụng điện phân. Cũng cần nói thêm: quan hệ tình cảm của vợ chồng
tôi êm thấm. Thủy có học thức, sống theo lối mới. Chúng tôi suy nghĩ độc lập,
nhìn nhận vấn đề xã hội tương đối giản dị. Thủy am tường các việc lo liệu kinh
tế cũng như dạy dỗ con cái. Còn tôi, hình như tôi khá cổ hủ, đầy bất trắc và
thô vụng.
III
Tôi quay lại đoạn kể cha con tôi bàn việc gia
đình. Cha tôi bảo: "Nghỉ rồi, cha làm gì?". Tôi bảo: "Viết hồi
ký". Cha tôi bảo: "Không!". Vợ tôi bảo: "Cha nuôi vẹt
xem". Trên phố dạo này nhiều người nuôi chim hoạ mi, chim vẹt. Cha tôi
bảo: "Kiếm tiền à?" Vợ tôi không trả lời. Cha tôi bảo: "Để xem
đã!" Cha tôi cho mỗi người trong nhà bốn mét vải lính. Ông Cơ và cả cô Lài
cũng thế. Tôi cười: "Cha bình quân! " Cha tôi bảo: "Đấy là lẽ
sống". Vợ tôi bảo: "Cả nhà đồng phục thì thành doanh trại". Mọi
người cười ồ.
Cha tôi muốn ở một phòng dưới dãy nhà ngang
giống như mẹ tôi. Vợ tôi không chịu. Cha tôi buồn. Việc để mẹ tôi ăn riêng, ở
riêng làm ông bứt rứt. Vợ tôi bảo: “Tại
mẹ lẫn". Cha tôi đăm chiêu. Tôi cũng không hiểu sao hai đứa con gái của
tôi ít gần ông nội. Tôi cho chúng học ngoại ngữ, học nhạc. Chúng lúc nào cũng
bận. Cha tôi bảo: "Các cháu có sách gì mang cho ông đọc". Cái Mi
cười. Còn cái Vi bảo: "Ông thích đọc gì?" Cha tôi bảo: "Cái gì
dễ đọc". Hai đứa bảo: "Thế thì không có". Tôi đặt báo hàng ngày
cho ông. Cha tôi không thích văn học. Văn chương nghệ thuật bây giờ đọc rất khó
vào.
Một hôm tôi đi làm về, cha tôi đứng ở dãy nhà vợ
tôi nuôi chó và gà công nghiệp. Trông ông không vui. Tôi hỏi: "Có chuyện
gì thế?" Ông bảo: "Ông Cơ và cô Lài vất vả quá. Họ làm không hết
việc, cha muốn giúp họ được không?" Tôi bảo: "Để con hỏi Thủy".
Vợ tôi bảo: "Cha là tướng, về hưu cha vẫn là tướng. Cha là chỉ huy. Cha mà
làm lính thì dễ loạn cờ". Cha tôi không nói năng gì. Cha tôi nghỉ hưu
nhưng khách khứa nhiều. Điều đó làm tôi ngạc nhiên, thậm chí thích thú. Vợ tôi
bảo: "Đừng mừng... họ chỉ nhờ vả. Cha ạ, cha đừng làm gì quá sức".
Cha tôi cười: "Chẳng có gì đâu... cha chỉ viết thư. Thí dụ: “Thân gửi N.
tư lệnh quân khu... Tôi viết thư này cho cậu... Hơn năm mươi năm, đây là lần
đầu tôi ăn tết mồng ba tháng ba dưới mái nhà mình. Hồi ở chiến trường, hai đứa
chúng mình đã từng mơ ước v. v... Cậu nhớ cái xóm ven đường, cô Huệ đã làm bánh
trôi bằng bột mì mốc. Bột mì bê bết trên lưng v.v... Nhân đây M. là người tôi
quen, muốn được công tác dưới quyền của cậu v.v...". Cha viết như thế được
không?" Tôi bảo: "Được". Vợ tôi bảo: "Không được!" Cha
tôi gãi cằm: "Người ta nhờ mình".
Cha tôi thường bỏ thư viết vào phong bì đựng
công văn bằng giấy cứng, cỡ 20x30, trên có in chữ Bộ quốc phòng, rồi đưa cho
người nhờ vả mang đi. Sau ba tháng, hết sạch loại phong bì ấy. Ông làm phong bì
bằng giấy bìa học sinh cũng to bằng cỡ 20x30. Một năm sau, ông cho thư vào thứ
phong bì bình thường vẫn bán ở quầy bưu điện, giá năm đồng một chục cái.
Tháng bảy năm ấy, tức là ba tháng sau ngày cha
tôi về nghỉ, chú họ tôi, ông Bổng, cưới vợ cho con.
IV
Ông Bổng với cha tôi là anh em cùng cha khác mẹ.
Thằng Tuân con trai ông làm nghề đánh xe bò. Hai cha con đều ghê gớm, to như hộ
pháp, ăn nói văng mạng. Thằng Tuân lấy vợ lần này là lần thứ hai. Vợ trước bị
đánh đau quá, bỏ đi. Ra tòa, nó khai là vợ theo trai, tòa phải chịu. Cô vợ lần
này tên là Kim Chi, làm nghề nuôi dạy trẻ, con nhà có học hẳn hoi, xí xớn thế
nào nghe nói có thai với nó. Kim Chi là cô gái đẹp, làm vợ thằng Tuân đúng là
"hoa nhài cắm bãi cứt trâu". Thâm tâm chúng tôi không ưa cha con ông
Bổng, khốn nỗi "một giọt máu đào hơn ao nước lã", giỗ tết vẫn phải đi
lại, nhưng mà ngày thường cũng nhạt. Ông Bổng hay nói: "Quân trí thức khốn
nạn! Rẻ dân lao động! Nể bố nó, không tôi cạch cửa!" Nói thế thôi, ông
Bổng vẫn sang vay tiền. Vợ tôi khe khắt, bao giờ cũng bắt ông phải ký cược. Ông
Bổng rất ức, ông nói: "Mình là chú nó, trót vay nợ nó mà nó cư xử hệt như
địa chủ". Nhiều món nợ ông cứ lờ đi không trả. Cưới vợ cho con, ông Bổng
nói với cha tôi: "Anh phải đứng ra chủ hôn, bố cháu Kim Chi vụ phó, anh là
tướng, thế là "môn đăng hộ đối". Sau này các cháu nhờ phúc của ông,
như tôi là thằng phu xe, báu gì." Cha tôi bằng lòng.
Đám cưới ngoại ô lố lăng và khá dung tục. Ba ô
tô. Thuốc lá đầu lọc nhưng gần cuối tiệc hết sạch, phải thay bằng thuốc lá
cuốn. Năm mươi mâm cỗ nhưng ế mười hai. Chàng rể mặc comlê đen, cravat đỏ. Tôi
phải cho mượn cái cravat đẹp nhất trong tủ áo. Nói là mượn, chắc gì đòi được.
Phù rể là sáu thanh niên ăn mặc hệt nhau, đều quần bò, râu ria rất hãi. Đầu
tiệc là dàn nhạc sống chơi bài Ave Maria. Một anh cùng hợp tác xã xe bò thằng
Tuân nhảy lên đơn ca một bài khủng khiếp:
Ừ... ê... cái con gà quay
Ta đi lang thang khắp miền giang hồ
Tìm nơi nào có tiền
Tiền ơi, mau vào túi taỪ... ê... cái con gà rù...
Sau đó đến lượt cha tôi. Ông luống cuống, khổ
sở. Bài văn chuẩn bị công phu hóa thừa. Kèn clarinét đệm rất bậy bạ sau dấu
chấm câu. Pháo ầm ĩ. Trẻ con bình luận nhảm nhí. Cha tôi nhảy cóc từng đoạn.
Ông cầm tờ giấy mà run bắn người. Một sự ô hợp láo nháo thản nhiên rất đời, thô
thiển, thậm chí còn ô trọc nữa làm ông kinh hãi, đau đớn. Ông vụ phó thông gia
cũng đâm hoảng hốt, luống cuống, làm đổ cả rượu xuống váy cô dâu. Chẳng nghe
thấy gì. Dàn nhạc sống át đi bằng nhừng ca khúc vui vẻ quen thuộc của các ban
nhạc Beatles và Abba. Sau đó, rắc rối đầu tiên đến với cha tôi là việc Kim Chi
sinh cháu chỉ sau hôm cưới chục ngày. Gia đình ông Bổng bê bối. Ông say rượu,
tống cổ cô con dâu ra cửa. Thằng Tuân cầm dao chém bố, may trượt.
Vô phương, cha tôi phải đón cháu dâu về nhà. Gia
đình tôi thêm hai khẩu. Vợ tôi không nói năng gì. Cô Lài thêm một trách nhiệm.
Được cái cô Lài vô tâm, tính lại yêu trẻ.
Minh họa Nguyễn Đình Đăng |
V
Một tối, tôi đang đọc Sputnhich, cha tôi lặng lẽ
đi vào. Ông bảo: "Cha muốn nói chuyện với con". Tôi pha cà phê, cha
tôi không uống. Ông hỏi: "Con có để ý công việc của Thủy không con? Cha cứ
rờn rợn".
Vợ tôi làm việc ở bệnh viện sản, công việc là
nạo phá thai. Hàng ngày các rau thai nhi bỏ đi, Thủy cho vào phích đá đem về.
Ông Cơ nấu lên cho chó, cho lợn. Thực ra điều này tôi biết nhưng cũng bỏ qua,
chẳng quan trọng gì. Cha tôi dắt tôi xuống bếp, chỉ vào nồi cám, trong đó có
các mẩu thai nhi bé xíu. Tôi lặng đi. Cha tôi khóc. Ông cầm phích đá ném vào
đàn chó béc giê: "Khốn nạn! Tao không cần sự giàu có này". Đàn chó
sủa vang. Ông bỏ lên nhà. Vợ tôi di vào nói với ông Cơ: "Sao không cho vào
máy xát? Sao để ông biết?!' ông Cơ bảo: "Cháu quên, cháu xin lỗi mợ".
Tháng mười hai, vợ tôi gọi người bán sạch đàn
chó béc giê. Vợ tôi bảo: "Anh thôi hút thuốc Galăng đi. Năm nay nhà mình
hụt thu hai mươi bảy nghìn, chi lạm mười tám nghìn, cộng là bốn mươi lăm
nghìn". Kim Chi hết thời gian nghỉ, đi làm. Nó bảo: "Cám ơn anh chị,
em đưa con về nhà đây". Tôi hỏi: "Về đâu?" Thằng Tuân đã bị bắt
giam vì tội côn đồ. Kim Chi đưa con về nhà của bố mẹ đẻ. Cha tôi đưa về tận nơi
bằng xe tắcxi thuê riêng. Cha tôi ở chơi với ông vụ phó bố của Kim Chi một
ngày. Ông này vừa đi công tác ở ấn Độ về, ông biếu cha tôi một mảnh lụa hoa và
nửa lạng cao tổng hợp. Cha tôi cho cô Lài mảnh lụa hoa, cho ông Cơ nửa lạng
cao.
VI
Trước tết Nguyên đán, ông Cơ nói với hai vợ
chồng tôi: "Cháu xin cậu mợ một việc". Vợ tôi hỏi: "Việc
gì?" ông Cơ nói vòng vèo, chẳng đâu vào đâu. Đại để ông muốn về thăm quê.
ở với chúng tôi sáu năm, cũng có dành dụm, ông Cơ muốn về bốc mộ bà vợ. Để lâu
ngày chắc ván đã sụt. "Nghĩa tử là nghĩa tận". ở thành phố, cũng muốn
về thăm họ hàng làng xóm cho nó mát mặt. Bây giờ đã vậy, sau này "cáo chết
ba năm quay đầu về núi". Vợ tôi cắt lời: "Thế bao giờ đi?" ông
Cơ gãi đầu: "Đi mười ngày, về Hà Nội trước hăm ba tết". Vợ tôi tính:
"Được. Anh Thuần này (Thuần là tên tôi), anh có nghỉ phép được
không?" Tôi bảo: "Được". Ông Cơ bảo: "Chúng cháu muốn mời
ông về quê chơi. Như đi du lịch". Vợ tôi bảo: "Tôi không thích. Thế
ông bảo sao?". Ông Cơ bảo: "Ông đồng ý rồi. Không có ông, cháu cũng
chẳng nhớ đến việc cải mộ nhà cháu". Vợ tôi hỏi: "Thế hai cha con có
bao nhiêu tiền?" ông Cơ bảo: "C'háu có ba nghìn, ông cho hai nghìn là
năm". Vợ tôi bảo: "Được, đừng lấy hai nghìn của ông, tôi bù cho hai
nghìn ấy, lại cho thêm năm nghìn. Thế là hai cha con có chục nghìn. Đi
được".
Trước hôm đi, vợ tôi làm cơm. Cả nhà ngồi ăn, có
cả ông Cơ, cô Lài. Cô Lài vui lắm, mặc bộ quần áo mới may bằng vải cha tôi cho
hôm về. Cái Mi và Cái Vi trêu: "Chị Lài xinh nhất". Cô Lài cười thỏn
thẻn: "Chả phải. Mợ mới xinh nhất". Vợ tôi bảo: "Em đi chú ý đỡ
ông những khi tàu xe". Cha tôi bảo: "Hay thôi không đi?" Ông Cơ
giãy nảy: "Chết, cháu đã điện rồi: Mang tiếng chết". Cha tôi thở dài:
"Tôi có tiếng gì mà mang?"
VII
Cha tôi đi Thanh Hóa cùng ông Cơ và cô Lài vào
sáng chủ nhật. Tối thứ hai, tôi đang xem tivi thì nghe tiếng "huỵch",
vội chạy ra ngoài thấy mẹ tôi ngã gục góc vườn. Mẹ tôi lẫn bốn năm nay, cho ăn
biết ăn, cho uống biết uống, phải giục đi ngoài. Mọi hôm có cô Lài săn sóc
không sao. Hôm nay, tôi sơ ý, cho ăn mà không giục đi ngoài. Tôi đỡ mẹ tôi vào,
bà cụ cứ gục mặt xuống. Không thấy có vết đau. Nửa đêm tôi dậy, thấy mẹ tôi
lạnh toát, mắt dại đi. Tôi sợ, gọi vợ tôi. Thủy bảo: "Mẹ già rồi".
Hôm sau mẹ tôi không ăn, hôm sau nữa, cũng không ăn, không chủ động đi ngoài.
Tôi giặt giũ, thay chiếu. Có ngày mười hai lần. Tôi biết Thủy và hai con tôi ưa
sạch sẽ nên tôi thay giặt luôn, không giũ ở nhà mà mang ra tận kênh đào. Thuốc
đổ vào cứ trớ ra.
Hôm thứ bẩy, mẹ tôi bỗng ngồi dậy được. Đi lững
thững một mình ra vườn. ăn được cơm. Tôi bảo: "Mừng rồi". Vợ tôi
không nói năng gì, chiều hôm ấy thấy mang về chục mét vải trắng, lại gọi cả thợ
mộc. Tôi hỏi: "Chuẩn bị à?" Vợ tôi bảo: "Không". Hai hôm
sau, mẹ tôi nằm liệt, lại bỏ ăn, lại đi ngoài như cũ. Người dốc nhanh, thải ra
thứ nước nâu sền sệt rất khắm. Tôi đổ sâm. Vợ tôi bảo: "Đừng đổ sâm, khổ
cho mẹ". Tôi òa khóc. Rất lâu tôi mới òa khóc như thế. Vợ tôi nín lặng,
rồi lại bảo: "Tùy anh". Ông Bổng sang thăm. Ông nói: "Bà ấy cứ
xoay ngang, xoay dọc trên giường như thế này là gay go lắm đấy!" Lại hỏi:
"Chị ơi, chị có nhận ra em không?". Mẹ tôi bảo: "Có". Lại
hỏi: "Thế em là ai?" Mẹ tôi bảo: "Là người". Ông Bổng khóc
òa lên: "Thế là chị thương em nhất. Cả làng cả họ gọi em là đồ chó. Vợ em
gọi em là đồ đểu. Thằng Tuân gọi em là đồ khốn nạn. Chỉ có chị gọi em là
người". Lần đầu tiên, cái ông chú đánh xe bò, lỗ mãng, táo tợn, làm đủ mọi
điều phi nhân bất nghĩa hóa thành đứa trẻ ngay trước mắt tôi.
VIII
Cha tôi về đến nhà thì sáu tiếng sau mẹ tôi mất.
Ông Cơ và cô Lài nói: "Tại chúng cháu. Chúng cháu ở nhà thì bà không
mất". Vợ tôi bảo: "Nói nhảm". Cô Lài khóc: "Bà ơi, bà đánh
lừa con bà đi! Sao bà không cho con đi hầu bà?". Ông Bổng cười: "Mày
muốn đi hầu bà thì đi, tao cho đóng ván". Khi liệm mẹ tôi, cha tôi khóc.
Ông hỏi ông Bổng: "Sao người bà ấy rút nhanh thế? Người già ai cũng chết
khổ như thế này à?". Ông Bổng bảo: "Anh lẩm cẩm. Hôm nào nước mình
cũng có hàng nghìn người chết khổ nhục vật vã đau đớn. Mỗi lính tráng các anh,
"đòm" phát là sướng".
Tôi cho bắc rạp, bảo thợ mộc đóng quan tài. Ông
Cơ cứ loay hoay bên đống ván vợ tôi cho xẻ hôm trước. Ông thợ mộc quát:
"Sợ chúng ông ăn cắp gỗ à?". Ông Bổng hỏi: "Ván mấy phân?"
Tôi bảo: "Bốn phân". Ông Bổng bảo: "Mất mẹ bộ xa lông. Ai lại đi
đóng quan tài bằng gỗ dổi bao giờ? Bao giờ bốc mộ, cho chú bộ ván". Cha
tôi ngồi âm thầm, trông rất đau đớn. Ông Bổng bảo: "Chị Thủy luộc cho tôi
con gà, nấu hộ nồi xôi". Vợ tôi hỏi: "Mấy cân gạo hả chú?" Ông
Bổng bảo: "Mẹ mày, sao hôm nay cứ ngọt xớt thế? Ba cân"! Vợ tôi bảo
tôi: "Họ hàng nhà anh kinh bỏ mẹ".
Ông Bổng hỏi tôi: "Nhà này ai chủ trì kinh
tế?" Tôi bảo: "Vợ cháu". Ông Bổng bảo: "Đấy là ngày thường.
Tao hỏi đám ma này thì ai chủ trì kinh tế". Tôi bảo: "Vợ cháu".
Ông Bổng bảo: "Không được con ơi, khác máu tanh lòng. Tao bảo bố mày
nhé". Tôi bảo: "Ông để con". Ông Bổng bảo: "Đưa tao bốn
nghìn, mày định làm bao nhiêu mâm?" Tôi bảo: "Mười mâm". Ông
Bổng bảo: "Không đủ cho đô tùy rửa ruột. Mày bàn với vợ mày đi. Bốn mươi
mâm". Tôi đưa cho ông bốn nghìn rồi vào nhà. Vợ tôi bảo: "Em nghe hết
rồi, em tính ba chục mâm, tám trăm đồng một mâm, ba tám hai tư. Hai tư nghìn,
phụ phí sáu nghìn. Việc mua bán em lo. Cỗ giao cho cô Lài. Đừng nghe ông Bổng,
lão ấy đểu lắm". Tôi bảo: "ông Bổng cầm bốn nghìn rồi". Vợ tôi
bảo: "Buồn anh lắm". Tôi bảo: "Anh đòi lại nhé". Vợ tôi
bảo: "Thôi, coi như trả công. Lão ấy tốt nhưng nghèo".
Phường bát âm đến bốn người. Cha tôi ra tiếp.
Nhập quan lúc bốn giờ chiều. Ông Bổng cạy miệng mẹ tôi cho vào chín đồng vừa
tiền chinh Khải Định, vừa tiền một hào nhôm. Ông bảo: "Để đi đò". Lại
cho vào cỗ bài tổ tôm, có lẫn cả mấy quân tam cúc. Ông bảo: "Không sao,
ngày xưa bà ấy vẫn chơi tam cúc".
Đêm ấy, tôi thức canh quan tài mẹ tôi, ngẫm nghĩ
lan man đủ điều. Cái chết sẽ đến với mỗi chúng ta, chẳng trừ ai cả. Ngoài sân,
ông Bổng với mấy bác đô tùy ngồi đánh tam cúc ăn tiền. Khi nào kết tốt đen, ông
Bổng lại chạy vào vái quan tài mẹ tôi: "Lạy chị, chị phù hộ cho em để em
vét thật nhẵn túi chúng nó". Cái Mi, cái Vi cũng thức với tôi. Cái Mi hỏi:
"Sao chết đi qua đò cũng phẫi trả tiền? Sao lại cho tiền vào miệng bà?"
Cái Vi bảo: "Đấy có phải ngậm miệng ăn tiền không bố". Tôi khóc:
"Các con không hiểu đâu. Bố cũng không hiểu, đấy là mê tín". Cái Vi
bảo: "Con hiểu đấy. Đời người cần không biết bao nhiêu là tiền. Chết cũng
cần". Tôi thấy cô đơn quá. Các con tôi cũng cô đơn. Cả đám đánh bạc, cả
cha tôi nữa.
IX
Từ nhà tôi ra nghĩa dịa đi tắt chỉ năm trăm mét
nhưng đi đường chính qua cổng làng phải hai cây số. Đường bé, không đẩy xe đòn
được mà phải khiêng vai. Đô tùy thay nhau đến ba chục người, có nhiều người vợ
chồng tôi không biết tên gì. Họ khênh quan tài hồn nhiên như việc bình thường
vẫn làm, như khênh cột nhà. Vừa đi vừa nhai trầu, hút thuốc, tán chuyện. Khi
nghỉ, đứng ngồi ngổn ngang ngay bên quan tài. Có người nằm lăn ra nói:
"Mát thật, không bận cứ ngủ ở đây đến tối". Ông Bổng bảo: "Các
bố ơi, đi đi còn về nhắm". Thế là đi. Tôi chống gậy giật lùi trước quan
tài theo tục lệ: "cha đưa mẹ đón". Ông Bổng bảo: "Bao giờ tôi
chết, đô tùy của tôi toàn dân cờ bạc, cỗ không thịt lợn mà thịt chó". Cha
tôi bảo: "Chú ơi, lúc này mà chú đùa à?". Ông Bổng nín bặt, lại khóc:
"Chị ơi, chị đánh lừa em chị đi... Chị bỏ em chị đi... ". Tôi nghĩ:
"Sao lại đánh lừa? Chẳng lẽ người chết đều
đã đánh lừa người sống cả sao? Bãi tha ma này toàn quân lừa lọc?".
Chôn cất xong, mọi người về nhà. Bày ra một lúc hai
mươi tám mâm. Nhìn mâm cỗ, tôi thật kính trọng cô Lài. Mâm nào cũng gọi:
"Lài đâu?" Cô Lài miệng dạ tíu tít, chạy ra bê rượu, bê thịt. Đến
tối, cô Lài tắm giặt, mặc quần áo mới ra hương án khóc: "Bà ơi, cháu xin
lỗi bà, cháu không đưa bà ra đồng... Hôm trước bà thèm canh cua, cháu ngại làm,
bà chẳng được ăn... Bây giờ đi chợ, cháu biết mua quà cho ai?... " Tôi
thấy đắng ngắt. Tôi nhớ đã chục năm nay tôi chưa lần nào mua được cho mẹ chiếc
bánh hay là gói kẹo. Cô Lài lại khóc: "Cháu ở nhà thì bà có chết không
bà?" Vợ tôi bảo: "Đừng khóc". Tôi cáu: "Cứ để cho cô ấy
khóc, đám ma không có tiếng khóc buồn lắm. Nhà mình có ai biết khóc bà cụ thế
đâu?" Vợ tôi bảo: "Ba mươi hai mâm. Anh phục em tính sát không?"
Tôi bảo: "Sát". Ông Bổng bảo: "Tôi đi xem giờ. Bà cụ được một
cái nhập mộ, hai cái trùng tang, một cái thiên di. Có yểm bùa không?" Cha
tôi bảo: "Bùa con khỉ. Trong đời mình, tôi chôn ba nghìn người chẳng có
người nào thế này". Ông Bổng bảo: "Thế là sướng, "đòm" phát
là xong". Ông giơ một ngón tay trỏ làm hiệu bóp cò.
X
Tết năm đó, nhà tôi không mua hoa đào, không gói
bánh chưng. Chiều mồng hai, đơn vị cũ của cha tôi cho người về viếng mẹ tôi.
Biếu năm trăm đồng. Ông Chưởng, phó của cha tôi bây giờ lên tướng, ra mộ thắp
hương. Anh Thanh đại úy cần vụ đi theo rút súng bắn ba phát lên trời. Sau này,
trẻ con trong làng kháo bộ đội bắn hai mốt phát đại bác viếng bà Thuấn. Ông
Chưởng hỏi cha tôi: "Anh muốn về thăm đơn vị dối già không? Tháng năm tập
trận. Đơn vị cho xe về đón". Cha tôi bảo: "Được". Ông Chưởng đi
thăm cơ ngơi nhà tôi, có ông Cơ hướng dẫn. Ông Chưởng bảo cha tôi: "Cơ
ngơi của anh ác thật. Vườn cây, ao cá, chuồng lợn, chuồng gà, biệt thự. Thế là
vững tâm". Cha tôi bảo: "Con tôi làm đấy". Tôi bảo: "Đấy là
vợ cháu". Vợ tôi bảo: "Cô Lài chứ! " Cô Lài cười thỏn thẻn, dạo
này đầu cứ gật gật liên hồi như bị động kinh: "Chả phải". Cha tôi
đùa: "Thế thì do mô hình V.A.C". Sáng mồng ba, Kim Chi đi xích lô bế
con về thăm. Vợ tôi mừng tuổi một nghìn. Cha tôi hỏi: "Thằng Tuân có thư
từ gì không?" Kim Chi bảo: "Không". Cha tôi bảo: "Lỗi ở bác
đấy. Tao không biết mày có chửa". Vợ tôi bảo: "Chuyện ấy là thường.
Bây giờ làm gì còn có trinh nữ. Con làm ở bệnh viện sản, con biết". Kim
Chi ngượng. Tôi bảo: "Đừng nói thế, nhưng mà làm trinh nữ thì mệt
thật". Kim Chi khóc: "Anh ơi, đàn bà chúng em nhục lắm. Đẻ con gái ra
em cứ nát ruột nát gan". Vợ tôi bảo: "Tôi còn hai con gái cơ".
Tôi bảo: "Thế các người tưởng làm đàn ông thì không nhục à?" Cha tôi
bảo: "Đàn ông thằng nào có tâm thì nhục.. Tâm càng lớn, càng nhục".
Vợ tôi bảo: "Nhà mình nói năng như điên khùng cả. Thôi đi ăn. Hôm nay có
cô Kim Chi, tôi đãi mỗi người một con gà hầm tâm sen. Tâm đấy. Ăn là trên
hết".
XI
Gần nhà tôi ở có cậu Khổng, trẻ con gọi là Khổng
Tử. Khổng làm ở xí nghiệp nước mắm nhưng lại thích thơ, làm thơ gửi báo Văn
nghệ. Khổng hay sang chơi. Khổng bảo: "Thơ siêu nhất". Cậu đọc cho
tôi nghe Loócca, Uýtxman v. v... Tôi không thích Khổng, ngờ ngợ cậu ta sang
chơi vì một cái gì phiêu lưu còn hơn cả thơ ca nữa. Một bận, thấy trong giường của
vợ tôi có một tập thơ chép tay. Vợ tôi bảo: "Thơ của cậu Khổng, anh có đọc
không?" Tôi lắc đầu. Vợ tôi bảo: "Anh già rồi". Bất giác tôi
thoáng rùng mình. Một hôm bận trực cơ quan nên tôi về muộn. Cha tôi đón cổng,
ông bảo: "Thằng Khổng sang chơi từ chập tối. Nó với vợ mày cứ rúc rích với
nhau, bây giờ chưa về, chướng quá". Tôi bảo: "Cha đi ngủ đi, để ý làm
gì?" Cha tôi lắc đầu, bỏ đi lên gác. Tôi dắt xe máy ra đường, phóng lang
thang khắp phố cho kỳ hết xăng. Tôi dắt xe đến ngồi ở một góc vườn hoa như một
tên du thủ du thực. Có một cô mặt đánh phấn đi ngang qua hỏi: "Ông anh ơi,
có đi chơi không?" Tôi lắc đầu. Khổng có ý tránh mặt tôi. Ông Cơ ghét lắm,
một hôm bảo tôi: "Cháu đánh nó nhé?" Suýt tôi gật đầu. Lại nghĩ:
"Thôi". Tôi vào thư viện mượn thử ít sách. Đọc Loócca, Uýtxman... tôi
cứ mơ hồ thấy những nghệ sĩ trác tuyệt là những con người cô đơn khủng khiếp.
Bỗng thấy thằng Khổng có lý. Chỉ tức nó đểu. Sao nó không đưa thơ nó cho người
khác xem mà lại đưa cho vợ tôi? Cha tôi bảo: "Anh nhu nhược. Duyên do là
anh đếch sống được một mình". Tôi bảo: "Không phải, cuộc đời nhiều
trò đùa lắm". Cha tôi bảo: "Anh cho là trò đùa à?" Tôi bảo:
"Không phải trò đùa, nhưng cũng không phải nghiêm trọng". Cha tôi
bảo: Sao tôi cứ như lạc loài? Cơ quan định cử tôi đi công tác phía Nam. Tôi bảo
vợ tôi: "Anh đi nhé?" Vợ tôi bảo: "Đừng đi. Mai anh sửa cửa nhà
tắm, cái cửa hỏng rồi. Hôm nọ cái Mi đang tắm, thằng Khổng đi qua định giở trò
đểu làm nó hết hồn. Thằng khốn nạn ấy em cấm cửa rồi". Vợ tôi òa khóc:
"Em thật có lỗi với anh, với con". Tôi khó chịu quay đi. Nếu có cái
Vi bây giờ thì nó sẽ hỏi tôi rằng: "Bố ơi, đấy có phải nước mắt cá sấu
không?"
XII
Tháng Năm, đơn vị cũ cho xe về đón cha tôi. Anh
Thanh đại úy cầm thư của ông Chưởng về. Cha tôi cầm thư run run. Thư viết:
"... Chúng tôi cần anh, mong anh... nhưng anh đi được thì đi, không
ép". Tôi nghĩ cha tôi không nên đi nữa nhưng nói ra bất tiện. Cha tôi già
sụp hẳn đi từ khi về hưu. Hôm nay cầm thư, thấy ông nhanh nhẹn và trẻ trung
hẳn. Tôi cũng vui lây. Vợ tôi chuẩn bị đồ đạc cho vào cái sắc du lịch. Cha tôi
không nghe, ông bảo: "Cho vào ba lô". Cha tôi đi chào làng nước một
lượt, ra cả ngoài mộ mẹ tôi, lại bảo anh Thanh bắn ba phát súng lên trời. Buổi
tối cha tôi gọi ông Cơ đến cho hai nghìn, bảo khắc một cái bia dá gửi về Thanh
Hóa đánh dấu mộ vợ. Cha tôi lại gọi cô Lài dến bảo: "Cháu lấy chồng
đi". Cô Lài òa khóc: "Cháu xấu xí lắm, chẳng ai lấy. Lại cả tin
nữa". Cha tôi nghẹn ngào: "Con ơi, con không hiểu rằng cả tin chính
là sức mạnh để sống hả con?" Tôi cũng không ngờ những điều như thế lại là điềm
báo chuyến này cha tôi ra đi không về. Trước khi lên xe, cha tôi lấy trong ba
lô ra quyển vở học sinh. Ông đưa cho tôi. Ông bảo: "Trong này cha có ghi
chép ít điều, con đọc thử xem". Cái Mi, cái Vi chào ông. Cái Mi hỏi:
"Ông đi ra trận hả ông?" Cha tôi bảo: "Ừ". Cái Vi hỏi:
"Đường ra trận mùa này đẹp lắm có phải
không ông?" Cha tôi chửi: "Mẹ mày! Láo!"
XIII
Cha tôi đi được vài ngày thì ở nhà xảy ra chuyện
cười nôn ruột. Số là ông Cơ cùng với ông Bổng vớt bùn dưới ao (vợ tôi trả ông
Bổng hai trăm đồng một ngày công, cơm nuôi), bỗng thấy một cái đít chum nổi
lên. Hai ông hì hục đào, lại thấy một đít chum nữa, ông Bổng đoán chắc các cụ
ngày xưa chôn của. Hai ông báo với vợ tôi. Thủy đến xem, cũng lội xuống đào.
Rồi cả cô Lài, cả cái Mi, cái Vi. Cả nhà bê bết bùn đất. Vợ tôi bắt phải ngăn
ao, lại đi thuê máy bơm Côle về tát nước. Không khí thật nghiêm trang. Ông Bổng
thích lắm: "Công tao thấy trước, cứ phải chia cho tao rnột chum". Hì
hục một ngày đào được hai cái chum sứt trong chẳng có gì. Ông Bổng bảo:
"Chắc còn nữa". Lại đào. Được thêm một cái chum nữa, cũng vỡ. Cả nhà
mệt lả, bụng đói cồn cào. Vợ tôi sai mua bánh mì về ăn lấy sức đào tiếp. Đào
gần chục mét thì vớ được cái lọ sành. Cả nhà mừng rỡ, ai cũng đoán vàng. Mở ra
trong thấy toàn một chuỗi "Bảo Đại thông báo" bằng đồng đã han rỉ cả.
Lại thấy một cái mề đay mủn nát. Ông Bổng bảo: "Thôi chết, tao nhớ ra
rồi."
Ngày xưa tạo với trùm Nhân ăn trộm ở nhà Hàn
Tín, bị đuổi, trùm Nhân vứt cái lọ này xuống ao". Cả nhà được một mẻ cười
nôn ruột. Trùm Nhân là tên ăn trộm khét tiếng ở vùng ngoại ô. Hàn Tín trước kia
là lính thuộc địa cho Tây, tham gia phong trào "Rồng Nam phun bạc, đánh
đuổi Đức tặc". Cả hai đã chết mục xác từ thuở nảo thuở nào. Ông Bổng bảo:
"Không sao, bây giờ cả làng này chết tao cũng đủ tiền đi đò nhét vào miệng
họ". Sáng hôm sau, ngủ dậy thì tôi nghe thấy có tiếng gọi cổng. Tôi ra
thấy Khổng đứng ngoài. Tôi nghĩ: "Mẹ khỉ, cái thằng đểu này là điềm gở
nhất của số phận mình". Khổng bảo: "Anh Thuần ơi, anh có điện. Ông cụ
mất rồi!"
Minh họa của họa sĩ Thành Chương |
XIV
Điện của ông Chưởng: "Thiếu tướng Nguyễn
Thuấn, hy sinh khi làm nhiệm vụ hồi... giờ... ngày mai táng tại nghĩa trang
liệt sĩ hồi... giờ... ngày" Tôi lặng người. Vợ tôi xếp đặt mọi việc rất
nhanh. Tôi ra thuê xe, về nhà đã thấy gọn đâu vào đấy. Vợ tôi bảo: "Khóa
cửa nhà trên. Ông Cơ ở lại". Xe đi Cao Bằng theo đường số Một. Đến nơi thì
lễ an táng cha tôi cử hành đã được hai tiếng đồng hồ. Ông Chưởng bảo:
"Chúng tôi có lỗi đối với gia đình". Tôi bảo: "Không phải thế.
Đời người có mệnh". Ông Chưởng bảo: "Cha anh là người đáng
trọng". Tôi hỏi: "Theo nghi lễ quân đội hả chú". Ông Chưởng bảo:
"Cụ ra trận địa, đòi lên chốt". Tôi bảo: " Cháu hiểu rồi, chú
đừng kể nữa". Tôi khóc, chưa bao giờ tôi khóc như thế. Bây giờ tôi mới
hiểu khóc như cha chết là khóc thế nào. Hình như đấy là cái khóc lớn nhất đời
một con người.
Mộ của cha tôi đặt trong nghĩa trang liệt sĩ. Vợ
tôi mang theo máy ảnh bảo chụp mấy kiểu. Hôm sau tôi xin về luôn, ông Chưởng
giữ lại nhưng tôi không nghe. Đường về vợ tôi bảo xe đi chậm. Ông Bổng lần đầu
mới được đi xa, thích lắm. Ông bảo: "Nước mình thật đẹp như tranh. Bây giờ
tôi mới hiểu vì sao phải yêu đất nước. Chứ ở quê ta, dù ngay Hà Nội có văn minh
thật, tôi chẳng thấy yêu gì cả". Vợ tôi bảo: "Tại chú quen đấy. ở nơi
khác cũng thế, họ lại thấy yêu Hà Nội". Ông Bổng bảo: "Thế là nơi này
yêu nơi kia, người này yêu người kia. Tất cả đều đất nước mình, nhân dân mình
cả. Vậy thì đất nước muôn năm, nhân dân muôn năm. Hoan hô đèn cù! "
XV
Có lẽ câu chuyện của tôi kết thúc ở đây. Sau đó
nếp sống của gia đình tôi trở lại như là trước ngày cha tôi nghỉ hưu. Vợ tôi
tiếp tục công việc bình thường. Tôi đã hoàn thành công trình nghiên cứu điện
phân. Ông Cơ trở nên ít nói, một phần vì bệnh cô Lài nặng hơn. Lúc rỗi, tôi giở
đọc những điều cha tôi ghi chép. Tôi hiểu cha tôi hơn. Trên đây là những sự
việc lộn xộn của hơn một năm cha tôi nghỉ hưu mà tôi chép lại. Tôi coi đấy như
nén hương thắp nhớ người. Nếu có ai đã có lòng để mắt đọc điều tôi viết, xin
lượng thứ cho tôi.
Tôi xin cảm tạ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét