Đảo Cortes
Alice Munro
Dịch giả: Nguyễn Đ. Thanh
Nguyên tác: CORTES ISLAND
CÔ DÂU NHỎ.
Tôi hai mươi tuổi, cao một thước sáu mươi bảy, nặng khoảng sáu
mươi, sáu mươi lăm ký, nhưng vài người - vợ ông chủ của Chess, bà thư ký già
trong văn phòng của anh, và bà Gorrie trên lầu, gọi tôi là cô dâu nhỏ. Đôi khi,
cô dâu nhỏ của chúng tôi. Chess và tôi xem đó là lời nói đùa, nhưng phản ứng tự
nhiên của anh là một cái nhìn vui thích và yêu mến. Còn tôi là một nụ cười hờn
dỗi - bẽn lẽn, chấp nhận.
Chúng tôi sống trong một tầng hầm ở Vancouver. Nhà không phải của gia đình Gorries, như tôi đã nghĩ lúc đầu, nhưng là của Ray, con trai bà Gorrie. Anh thỉnh thoảng đến sửa chữa những thứ xung quanh nhà. Anh đi vào bằng cửa tầng hầm, như Chess và tôi. Anh là một người đàn ông gầy, ngực hẹp, có lẽ ở tuổi ba mươi, luôn mang theo một thùng dụng cụ và đội chiếc mũ thợ. Dường như lưng anh bao giờ cũng cong, có thể vì thường cúi xuống, làm đường ống dẫn nước, hệ thống dây điện hoặc gỗ mộc. Khuôn mặt anh như sáp, và anh thường ho nhiều. Mỗi tiếng ho nói lên tánh độc lập kín đáo, xác định việc hiện diện của anh trong tầng hầm như một sự xâm nhập cần thiết. Anh không xin lỗi vì có mặt ở đó, nhưng anh không di chuyển như thể anh là chủ nhà. Những lần duy nhất tôi nói chuyện với anh là khi anh gõ cửa cho tôi biết nước hoặc điện sẽ bị tắt trong một thời gian ngắn. Tiền thuê nhà được trả bằng tiền mặt mỗi tháng cho bà Gorrie. Tôi không biết bà ấy có đưa lại cho anh hoặc giữ một phần để đở chi phí. Nếu không tất cả bà và ông Gorrie có - bà nói với tôi như vậy - là lương hưu của ông Gorrie. Không phải của bà. “Tôi chưa đủ già”, bà nói.
Bà Gorrie luôn gọi xuống cầu thang để hỏi thăm Ray và xem anh có
muốn một tách trà không. Anh luôn trả lời anh không sao và không có thời gian.
Bà nói anh làm việc quá cực, giống như bà. Bà cố gắng đưa cho anh một vài món
tráng miệng bà đã làm dư ra, vài thứ mứt hoặc bánh hay bánh gừng - cũng là
những thứ bà luôn đẩy cho tôi. Anh sẽ trả lời không, anh vừa ăn xong, hay có
đầy đồ ăn ở nhà. Tôi cũng luôn từ chối, nhưng sau lần thứ bảy hay thứ tám tôi
chịu thua. Thật xấu hổ để tiếp tục từ chối, trước vẻ mặt dịu dàng và thất vọng
của bà. Tôi khâm phục cách Ray có thể tiếp tục trả lời không. Anh thậm chí
không nói, "Không, thưa Mẹ." Mà chỉ “Không”.
Sau đó, bà cố gắng tìm một vài chủ đề trò chuyện.
"Vậy, con có gì mới và hay không?"
Không có gì nhiều. Không biết. Ray không bao giờ thô lỗ hoặc khó
chịu, nhưng anh không bao giờ cho bà biết thêm. Sức khỏe anh ổn. Cơn cảm lạnh
cũng ổn. Bà Cornish và Irene cũng luôn ổn.
Anh sống trong ngôi nhà của bà Cornish, ở phía Đông Vancouver. Anh
luôn có việc để làm xung quanh nhà bà Cornish cũng như nhà này - đó là lý do
tại sao anh phải vội vàng đi ngay sau khi công việc đã được thực hiện. Anh còn
phụ giúp chăm sóc Irene, con gái của bà, ngồi xe lăn. Irene bị bại não.
"Thật tội nghiệp", bà Gorrie nói, sau khi Ray cho biết Irene vẫn ổn.
Bà không bao giờ trách cứ trước mặt anh về thời gian anh dành cho cô gái bị
bệnh, các cuộc đi chơi ở Công Viên Stanley hoặc những buổi tối đi mua kem. (Bà
biết về những điều này bởi vì đôi khi bà nói chuyện điện thoại với bà Cornish.)
Nhưng đối với tôi, bà nói, "Tôi không thể không nghĩ đến hình ảnh cô ấy để
kem chảy xuống khuôn mặt. Tôi không thể. Người ta chắc cười và trố mắt nhìn
họ".
Bà nói khi bà đưa ông Gorrie ra ngoài trong xe lăn, người ta nhìn
họ (ông Gorrie bị đột quỵ), nhưng khác, bởi vì bên ngoài ông không cử động hoặc
làm một âm thanh nào và bà luôn cẩn thận cho ông ăn mặc đàng hoàng. Trong khi
Irene ngồi ưởn người ra và cứ ngông kêu không ngừng. Cô thật tội nghiệp không
thể làm sao khác.
Bà Cornish có thể có một ý nghĩ gì đó trong đầu, bà Gorrie nói. Ai
sẽ là người chăm sóc cô gái bệnh tật đó khi bà ấy không còn nữa?
"Phải có một đạo luật không cho người khỏe mạnh có thể kết
hôn với một người như thế, nhưng cho đến nay thì không có."
Khi bà Gorrie mời tôi lên uống cà phê tôi không bao giờ muốn đi.
Tôi bận rộn với cuộc sống riêng trong tầng hầm. Đôi khi bà ấy đến gõ cửa, tôi
giả vờ như không có ở nhà. Nhưng để làm vậy tôi cần phải tắt đèn và khóa cửa
ngay khi tôi nghe bà mở cửa ở đầu cầu thang, và sau đó tôi phải hoàn toàn im
lặng khi bà đến gõ nhẹ móng tay vào cửa và gọi nhỏ tên tôi. Ngoài ra tôi phải
rất yên tĩnh ít nhất một giờ sau đó và không được xả nước nhà vệ sinh. Nếu tôi
trả lời là không thể có thời gian, tôi có chuyện để làm, bà sẽ cười và hỏi
"Chuyện gì?".
"Tôi đang viết thư," tôi trả lời.
"Luôn luôn viết thư", bà nói. "Cô chắc nhớ
nhà."
Lông mày của bà màu hồng - một biến thể của màu đỏ hơi hồng từ mái
tóc bà. Tôi không nghĩ tóc có thể tự nhiên, nhưng làm sao bà có thể nhuộm lông
mày? Khuôn mặt bà ốm, ửng đỏ, linh động, răng to và sáng lấp lánh. Sự khao khát
thân thiện, có bạn của bà không chấp nhận được sự từ khước nào. Sáng hôm đầu
tiên Chess đưa tôi đến căn hộ, sau khi đón tại bến xe lửa, bà đã gõ cửa chúng
tôi với một đĩa bánh và nụ cười chó sói này. Tôi vẫn còn đội chiếc mũ trên đầu,
và Chess đã phải ngừng tay âu yếm tôi. Mấy cái bánh đã khô cứng và được phủ lên
một lớp đường đặt màu hồng tươi để mừng danh nghĩa cô dâu của tôi. Chess nói
chuyện với bà cộc lốc. Anh phải trở lại làm việc trong vòng nửa giờ, và sau khi
anh đã đuổi bà đi, anh không còn thời gian để tiếp tục những gì anh đã bắt đầu.
Thay vào đó, anh ăn hết cái bánh này đến cái khác, phàn nàn rằng nó có vị như
mạt cưa.
"Chồng cô thật là nghiêm", bà nói với tôi. "Tôi
phải cười, anh luôn nhìn tôi với cái nét nghiêm trọng, thật nghiêm trọng này
khi tôi thấy anh đi đi về về. Tôi muốn nói với anh ta là hãy thư thả, anh chưa
phải vác tất cả mọi vấn đề của thế giới lên vai."
Đôi khi tôi phải theo bà lên lầu, tách rời khỏi cuốn sách hoặc
đoạn văn tôi đang viết.
Chúng tôi ngồi tại bàn phòng ăn của bà. Có một miếng vải ren trải
lên, và một cái gương bát giác phản ảnh một con thiên nga bằng gốm. Chúng tôi
uống cà phê trong những cái tách bằng sứ tàu và ăn trong những đĩa nhỏ cùng bộ
(cũng những cái bánh đó nữa, hoặc bánh nho khô dính lại, hay bánh nướng dầy) và
dùng những khăn ăn thêu nhỏ xíu để chạm vào môi xóa đi những mảnh vụn. Tôi ngồi
đối diện với tủ đựng đồ sứ tàu trong đó tất cả các ly tốt, và bộ kem đường,
muối tiêu được cất vào - quá xinh xắn hoặc khéo tay để sử dụng hàng ngày, cũng
như bình hoa, một ấm trà có hình dạng như một căn nhà tranh, và chân để nến
hình hoa loa kèn. Mỗi tháng một lần bà Gorrie lấy tất cả mọi thứ ra khỏi tủ
đựng đồ sứ tàu và rửa sạch. Bà cho biết như vậy. Bà nói với tôi những điều liên
quan đến tương lai tôi, căn nhà và ngày mai mà bà cho rằng tôi sẽ có, và bà
càng nói tôi càng cảm thấy một trọng lượng sắt đè nặng lên chân tay, tôi càng
muốn ngáp và ngáp vào giữa buổi sáng, bò ra chỗ khác và trốn đi ngủ. Nhưng tôi
lại nói lớn trầm trồ tất cả mọi thứ. Các đồ sứ tàu trong tủ, các thói quen chăm
sóc nhà cửa trong cuộc sống của bà Gorrie, các bộ trang phục bà mặc vào mỗi
buổi sáng. Váy và áo len trong sắc thái màu hoa cà hoặc san hô, rất hợp với
những chiếc khăn lụa nhân tạo.
"Điều đầu tiên là luôn ăn mặc chỉnh tề, giống như cô sắp sửa
đi làm vậy, chảy tóc, và trang điểm" - bà đã bắt gặp tôi hơn một lần trong
chiếc áo choàng mặc ở nhà - "và sau đó cô vẫn luôn có thể mang một chiếc
tạp dề vào nếu cô phải giặt đồ hoặc nấu nướng. Như vậy rất tốt cho tinh thần
cô".
Và luôn có vài cái bánh nướng sẵn để khi có người nào có thể ghé
qua (theo như tôi biết, bà không bao giờ có bất cứ người khách nào khác ngoài
tôi, và khó có thể nói rằng tôi đến thình lình). Và không bao giờ mời cà phê
trong ly to.
Cách bà trình bày không hẳn quá khô khan. Mà là "Tôi luôn
-" hoặc "Tôi luôn thích -" hoặc "Tôi nghĩ nó tốt đẹp hơn để
-".
"Ngay cả lúc tôi sống xa trong vùng hoang dã, tôi luôn thích
-" Nhu cầu để ngáp hay la hét của tôi lắng xuống một chút. Bà đã sống
trong những vùng hoang dã ở đâu? Và khi nào?
"Ồ, bờ biển xa phía trên", bà trả lời. "Tôi cũng là
một cô dâu, ngày xưa. Tôi đã sống ở đó nhiều năm. Vịnh Union. Nhưng nơi đó
không quá hoang dã. Đảo Cortes."
Tôi hỏi nơi đó ở đâu, và bà nói: "Ồ, một nơi xa trên
đó."
"Đó hẳn phải thú vị lắm", tôi nói.
"Ồ, thú vị", bà lặp lại. "Nếu cô gọi những con
gấu là thú vị. Hoặc những con báo là thú vị. Tôi lại muốn có một chút ít nền
văn minh cho riêng tôi".
Những cánh cửa kéo bằng gỗ sồi ngăn phòng ăn với phòng khách.
Chúng luôn được hé mở để bà Gorrie, ngồi ở cuối bàn, có thể trông chừng ông
Gorrie, đang ngồi trong chiếc ghế tựa trước cửa sổ phòng khách. Bà nói về ông
như người "chồng trong xe lăn," nhưng trên thực tế ông chỉ ngồi xe
lăn khi bà đưa ông đi ra ngoài. Họ không có máy truyền hình - nó vẫn gần như
còn là một thứ mới lạ ở thời điểm đó. Ông Gorrie ngồi nhìn đường phố, công viên
Kitsilano bên kia đường và cửa tiệm Burrard Inlet xa hơn. Ông tự đi vào phòng
tắm, với một cây gậy trong tay và tay kia nắm chặt lưng ghế hoặc vịn vào tường.
Một khi vào trong ông tự lo được, mặc dù phải mất một thời gian dài. Và bà
Gorrie cho biết đôi khi cần lau dọn một chút sau đó.
Thường tôi chỉ có thể nhìn thấy một ống quần của ông Gorrie ló dài
ra trên chiếc ghế tựa màu xanh lá cây sáng rực. Một hoặc hai lần khi tôi ở đó
ông buộc phải lê lết đi lảo đảo đến phòng vệ sinh. Một người đàn ông to lớn -
đầu to, vai rộng, xương nặng.
Tôi không nhìn khuôn mặt của ông. Người bị tê liệt bởi đột quỵ hay
bệnh đối với tôi là những điềm báo xấu, ấn tượng ghê sợ. Nó không phải cái
nhìn chân tay vô dụng hoặc các dấu hiệu thể chất khác của số phận ác nghiệt mà
tôi phải né tránh – nhưng là đôi mắt con người của họ.
Tôi cũng không tin rằng ông nhìn tôi, mặc dù bà Gorrie gọi cho ông
biết tôi lên thăm. Ông phát ra một tiếng gầm gừ mà ông chỉ có thể làm được khá
nhất để biểu hiện một lời chào, hoặc đuổi đi.
Căn hộ của chúng tôi có hai phòng rưỡi. Nó được trang bị lúc thuê,
và những nơi như vậy chỉ có một nửa đồ đạc, với những thứ nếu không dùng đến sẽ
vứt đi thôi. Tôi nhớ sàn phòng khách được lót những ô vuông và hình chữ nhật
còn sót lại bằng vải sơn cứng - tất cả màu sắc và hình thể khác nhau gắn khít
như cái chăn điên rồ với những dải kim loại. Và bếp hơi thì phải bỏ hai mươi
lăm xu để sử dụng. Giường của chúng tôi nằm trong một hốc tường bên ngoài bếp -
nó quá vừa vặn đến độ phải trèo lên giường từ phía dưới. Chess đã đọc biết rằng
đây là cách các cô gái hậu cung phải lên giường của vua, đầu tiên sùng bái đôi
chân của ông, sau đó bò lên tỏ lòng tôn kính các bộ phận khác. Vì vậy, đôi khi
chúng tôi hay chơi trò này.
Một bức màn được luôn kéo kín ở chân giường, để phân chia hốc
tường với nhà bếp. Nó thực sự là tấm trải giường cũ, một miếng vải trơn có tua
màu be ngả vàng một bên, với mô hình đầy hoa hồng và lá xanh, và bên mặt trải
giường là những đường sọc màu rượu vang đỏ và xanh lá cây với hoa lá tựa như
bóng ma trên nền màu be. Tôi nhớ rõ bức màn này hơn bất cứ cái gì khác trong
căn hộ. Và không có gì để ngạc nhiên. Trong tình vợ chồng nồng thắm, và sau khi
đạt đến cao độ của nó, tấm vải đó hiện ra trước mắt tôi và gợi cho tôi nhớ lại
những điều tôi thích khi lấy chồng - phần thưởng mà tôi chịu đựng bị xúc phạm
không lường trước được với danh hiệu cô dâu nhỏ và mối đe dọa đặc biệt của tủ
đựng đồ sứ tàu.
Chess và tôi đều xuất thân từ những gia đình xem quan hệ tình dục
khi chưa lập gia đình là kinh tởm và không thể tha thứ, và sau khi kết hôn nó
dường như không bao giờ được đề cập đến và sớm cho vào quên lãng. Chúng tôi ở
đúng thời kỳ mà lối suy nghĩ này đã kết thúc, mặc dù chúng tôi không biết. Khi
mẹ của Chess tìm thấy bao cao su trong túi xách của anh, bà đã khóc với cha
anh. (Chess nói rằng anh đã nhận được ở trại đào tạo quân sự trường đại học -
thật vậy - và anh đã quên hẳn luôn, đó là một lời nói dối.) Vì vậy, có một nơi
và một cái giường của riêng chúng tôi, nơi vợ chồng có thể tiếp tục những gì
mình thích dường như là tuyệt vời. Chúng tôi đã thực hiện được điều mặc cả này,
nhưng không bao giờ nghĩ rằng những người lớn tuổi hơn - cha mẹ, các cô và chú
bác - cũng có thể làm được, cho sự ham muốn. Dường như sự bận tâm chính của họ
là về nhà cửa, bất động sản, máy cắt cỏ, tủ đông lạnh và bức tường chắn. Và,
tất nhiên, đối với phụ nữ, là có con cái. Tất cả những điều đó chúng tôi nghĩ
có thể hoặc không lựa chọn, trong tương lai. Chứ không bao giờ nghĩ nó sẽ đến
mà không thể thay đổi được, như tuổi tác hay thời tiết.
Và bây giờ khi tôi nghĩ lại một cách trung thực, nó không xảy ra.
Không có gì đến mà chúng tôi không có sự chọn lựa. Kể cả không mang thai. Chúng
tôi làm liều, chỉ để xem nếu mình đã thực sự trưởng thành chưa, nếu thực sự nó
có thể xảy ra không.
Một điều khác tôi làm phía sau bức màn là đọc sách. Tôi đọc những
cuốn sách mượn được từ thư viện Kitsilano cách đây vài khu phố. Và khi cuốn
sách có thể khuấy lên một trạng thái ngạc nhiên nào đó, tôi sẽ nhìn lên và thấy
những lần sọc hoa mắt thật chóng mặt. Và không chỉ các nhân vật, câu chuyện,
nhưng bối cảnh của cuốn sách trở thành gắn liền với những sợi dây dài bông hoa
không tự nhiên màu rượu vang sậm hoặc xanh lá cây ảm đạm. Tôi đọc những cuốn
sách dầy có tựa đề quen thuộc và thần bí - tôi thậm chí cố gắng đọc Lễ Đính Hôn
- và xen ở giữa các tiểu thuyết của Aldous Huxley và Henry Green, và đến Ngọn
Hải Đăng Cuối Cùng của Cheri và Cái Chết của Trái Tim. Tôi ngấu nghiến hết cuốn
này qua cuốn khác mà không cần thiết lập bất kỳ sự lựa chọn nào, lần lượt lao
đầu vào từng cuốn giống như thời thơ ấu. Tôi vẫn còn trong giai đoạn háo hức
thèm đọc đó, tham lam, gần như khốn khổ.
Từ nhỏ tôi đã có một rắc rối - dường như tôi phải là một nhà văn
vừa là một đọc giả. Tôi mua một cuốn tập học trò và thử viết - đã viết, những
trang bắt đầu thật hách và sau đó trở thành khô khan, vì vậy mà tôi phải xé
chúng ra và xoắn lại như một hình phạt gắt gao và vứt vào thùng rác. Tôi làm
như vậy nhiều lần cho đến khi tôi chỉ còn mảnh bìa cuốn tập. Sau đó, tôi mua
một cuốn khác và bắt đầu toàn bộ quá trình một lần nữa. Cùng chu kỳ - phấn khởi
và tuyệt vọng, phấn khởi và tuyệt vọng. Nó giống như một trạng thái mang thai
bí mật và sẩy thai mỗi tuần.
Cũng không hoàn toàn bí mật. Chess biết tôi đọc rất nhiều và tôi
đang cố gắng để viết. Anh không ngăn cản gì cả. Anh nghĩ đó là một việc hợp lý
mà tôi có lẽ hoàn toàn có thể học để làm. Nó sẽ đòi hỏi tập luyện khó khăn
nhưng có thể chế ngự được, như chơi cờ hay quần vợt. Tôi không cảm ơn anh vì
lòng tin rộng lượng này. Nó chỉ làm các thảm họa của tôi thêm khôi hài.
Chess làm việc cho một công ty buôn bán thực phẩm. Anh đã nghĩ đến
trở thành một thầy dạy lịch sử, nhưng cha anh đã thuyết phục rằng nghề giảng
dạy không có cách nào lo cho vợ được và anh nên bước ra đời. Ông đã giúp anh có
được công việc này nhưng nói rằng một khi được thu nhận vào làm anh không nên
mong đợi bất kỳ ưu đãi nào. Anh nghe theo. Anh ra khỏi nhà trước khi trời sáng,
trong mùa đông đầu tiên của hôn nhân chúng tôi, và trở về nhà sau khi trời tối.
Anh làm việc chăm chỉ, không thắc mắc công việc anh làm có phù hợp với bất cứ
lợi ích nào mà anh có thể có hoặc có bất cứ mục đích nào mà anh có thể một lần
nào đó mong thực hiện. Không có mục đích nào ngoại trừ đưa cả hai chúng tôi đến
với cuộc sống của máy cắt cỏ và tủ đông đá mà chúng tôi tin là không bao giờ
bận tâm tới. Tôi có thể ngạc nhiên trước sự khuất phục của anh, nếu tôi nghĩ
đến. Một sự khuất phục vui vẻ, bạn có thể nói hào hiệp, của anh.
Nhưng về sau, tôi nghĩ, đó là những gì người đàn ông làm.
Tôi đi ra ngoài tìm việc làm cho mình. Nếu trời không mưa to quá
tôi đến tiệm thuốc mua một tờ báo đọc quảng cáo trong khi uống một tách cà phê.
Sau đó, tôi bắt đầu đi bộ, ngay cả trong cơn mưa phùn, đến những nơi đăng cần
một cô hầu bàn hay nhân viên bán hàng hoặc một công nhân nhà máy - bất kỳ công
việc nào không đòi hỏi cụ thể đánh máy hoặc kinh nghiệm. Nếu mưa thật nhiều tôi
sẽ dùng xe buýt. Chess nói tôi nên luôn đi bằng xe buýt và không đi bộ để tiết
kiệm tiền. Anh nói trong khi tôi đang tiết kiệm, vài cô gái khác có thể nhận
được việc rồi.
Thực ra đó là điều mà tôi dường như hy vọng. Tôi chưa bao giờ hoàn
toàn hối tiếc để nghe. Đôi khi tôi sẽ đi đến nơi và đứng trên vỉa hè, nhìn vào
Tiệm Áo Phụ Nữ, với những tấm gương và thảm màu nhạt, hoặc xem các cô gái vội
vã xuống cầu thang vào giờ nghỉ trưa từ văn phòng đang cần một nhân viên sắp
xếp hồ sơ. Tôi thậm chí không vào bên trong, biết rằng thế nào tóc, móng tay và
đôi giày cũ sẽ không thể hiện tốt cho tôi. Và tôi cũng cảm thấy đủ nản lòng bởi
các xưởng máy - tôi có thể nghe tiếng ồn máy móc hoạt động trong các tòa nhà
nước ngọt được vô chai hoặc đồ trang trí Giáng Sinh được kết lại, và tôi có thể
nhìn thấy mấy cái bóng đèn treo trên trần tựa như trong nhà kho. Móng tay và
đôi giày phẳng gót có thể không quan trọng ở nơi đó, nhưng sự vụng về và ngu
dốt về cơ khí sẽ làm cho họ chửi, la vào mặt tôi (tôi cũng có thể nghe được
những mệnh lệnh hét lớn át cả tiếng ồn của máy móc). Tôi sẽ bị sỉ nhục và sa
thải. Tôi cũng không nghĩ rằng bản thân mình có khả năng thậm chí để học cách
sử dụng một máy tính tiền. Tôi đã nói như vậy với người quản lý một nhà hàng,
khi ông thực sự dường như nghĩ đến việc thu nhận tôi. "Cô có nghĩ rằng cô
có thể học hỏi được không?", ông hỏi, và tôi nói không. Ông nhìn như thể
ông chưa bao giờ nghe bất cứ ai thừa nhận một điều như vậy trước đây. Nhưng tôi
đã nói sự thật. Tôi không nghĩ tôi có thể học hỏi được, khi phải vội vàng và ở
nơi công cộng. Tôi sẽ chết cứng. Điều duy nhất mà tôi có thể dễ dàng thu nhận
được giống như những khúc mắt của Cuộc Chiến Ba Mươi Năm.
Tất nhiên, thật sự là tôi không phải lo. Chess giúp đỡ tôi, trên
mức độ rất cơ bản. Tôi không phải tự ép buộc mình đi ra ngoài vì anh đã đi.
Người đàn ông cần phải đi làm.
Tôi nghĩ có lẽ tôi có thể quản lý công việc trong thư viện, vì vậy
tôi đến đó để hỏi, mặc dù họ không có đăng cần người. Một phụ nữ ghi tên tôi
vào danh sách. Cô lịch sự nhưng không có khích lệ. Sau đó, tôi đi đến các nhà
sách, chọn những nơi trông như họ không có một máy tính tiền. Tiệm càng trống
và ngổn ngang càng tốt. Người chủ thường bận hút thuốc hoặc ngủ gà ngủ gật ở
bàn làm việc, và trong các cửa tiệm bán sách cũ thường có mùi mèo.
"Mùa đông chúng tôi không bận rộn lắm", họ nói.
Một người phụ nữ nói tôi có thể trở lại vào mùa xuân. "Mặc dù chúng tôi
thường cũng không bận lắm lúc đó."
Mùa đông ở Vancouver không giống như bất kỳ mùa đông nào tôi đã
từng biết đến. Không có tuyết, thậm chí không có cái gì có thể gọi là một cơn
gió lạnh. Ở giữa ban ngày, trong phố, tôi có thể ngửi cái gì đó giống như đường
cháy - tôi nghĩ đó phải là dây xe điện. Tôi đi dọc theo đường Hastings, nơi mà
không có một người phụ nữ nào khác sẽ đi bộ - chỉ có những ông già nghèo người
Tàu lang thang, say rượu, lê lết từng bước. Không ai nói một lời xấu nào với
tôi. Tôi đi ngang qua kho hàng, những khu cỏ dại mà ngay cả bóng dáng một người
đàn ông cũng không thấy. Hoặc xuyên qua Kitsilano, với những ngôi nhà cao bằng
gỗ đầy người sống chặt chọi, như chúng tôi, đến khu phố gọn gàng Dunbar, với
các ngôi nhà gỗ vữa và cây đốn đi. Và qua Kerrisdale, những hàng cây sang trọng
xuất hiện, cây phong trên sân cỏ. Những cây đà Tudor, đối xứng kiểu Georgia,
giống như Bạch Tuyết với mái tranh giả. Hoặc có thể mái nhà lợp bằng lá thật,
làm sao tôi biết được?
Ở tất cả những nơi có người sinh sống, đèn được bật sáng khoảng
bốn giờ chiều, và sau đó đèn đường sáng lên, đèn trong xe buýt điện thắp sáng,
và những đám mây ở phía tây cũng thường sẽ tách rời nhau trên biển để lộ những
vệt màu đỏ của mặt trời lặn - và khi tôi đi vòng trong công viên để về nhà,
những chiếc lá từ bụi cây mùa đông lấp lánh trong không khí ẩm ướt của một
hoàng hôn mờ nhạt màu hồng. Người ta đi mua sắm đang trở về nhà, người đi làm
đang sửa soạn về nhà, người ở trong nhà cả ngày đi bộ ra ngoài một chút để giúp
trở về một mái nhà hấp dẫn hơn. Tôi gặp những người phụ nữ đẩy xe con và phàn
nàn con trẻ và không bao giờ nghĩ rằng tôi cũng sớm muộn gì sẽ giống họ. Tôi
gặp những người già dắt chó đi bộ, và những người khác, di chuyển chậm chạp
hoặc ngồi xe lăn, được người bạn hay người trông nôm họ đẩy. Tôi gặp bà Gorrie
đẩy ông Gorrie. Bà mặc một áo choàng và mũ len mềm màu tím (bây giờ tôi biết bà
may hầu hết quần áo của bà) và rất nhiều phấn hồng trên mặt. Ông Gorrie đội một
chiếc mũ thấp và một khăn dày quấn quanh cổ. Bà chào tôi nghe chói tai và chủ
nhân, ông thì không có phản ứng. Ông không có vẻ thích đi. Nhưng người ngồi xe
lăn hiếm khi biểu lộ bất cứ điều gì ngoài sự cam chịu. Vài người có vẻ bị sỉ
nhục hoặc hết sức khó chịu.
"Này, khi chúng tôi gặp cô ở công viên ngày hôm ấy," bà
Gorrie hỏi, "cô không phải đi tìm việc làm về, phải không?"
"Không" tôi nói dối. Bản năng của tôi là nói dối với bà
ta về bất cứ điều gì.
"Ồ, tốt. Bởi vì tôi chỉ muốn nói, cô biết, là nếu cô có đi ra
ngoài tìm việc cô thực sự cần chăm sóc cô lại một chút. Vâng, chắc cô biết điều
đó."
«Vâng» tôi trả lời.
"Tôi không thể hiểu được cách một số phụ nữ đi ra ngoài ngày
nay. Tôi chưa bao giờ đi ra ngoài trong đôi giày bằng phẳng và không trang
điểm, ngay cả khi tôi chỉ cần đến tiệm tạp hóa. Chứ đừng nói là nếu tôi sẽ đi
gặp ai đó để xin việc."
Bà biết tôi đang nói dối. Bà biết tôi đứng lặng yên bên kia cửa
tầng hầm, không trả lời tiếng bà gõ. Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu bà bươi rác
của chúng tôi, phát hiện và đọc những trang giấy lộn xộn, nhàu nát mà tôi đã
viết ra những thảm họa dông dài của tôi. Tại sao bà ấy không tha tôi? Bà không
thể. Tôi là một công việc đặt ra cho bà - có lẽ tánh đặc thù, thiếu khả năng
của tôi, nằm trong một lớp với những tai biến của ông Gorrie, và cái gì không
thể sửa đổi được đành phải cam chịu.
Một hôm bà đi xuống cầu thang khi tôi đang trong tầng hầm giặt đồ. Tôi được phép sử dụng máy quay, ép, giặt và bồn giặt mỗi thứ ba.
"Vậy, cô có hy vọng nào tìm được việc chưa?" bà hỏi, và
ở thời điểm kích thích này tôi trả lời rằng thư viện có lẽ có việc cho tôi
trong tương lai. Tôi nghĩ có thể tôi giả vờ đi làm ở đó - tôi có thể đi và ngồi
ở đó mỗi ngày tại một trong những bàn dài, đọc sách hoặc thậm chí cố gắng để
viết văn, như tôi đã làm thỉnh thoảng trong quá khứ. Tất nhiên, sẽ lòi đuôi mèo
ra nếu bà Gorrie đến thư viện, nhưng bà sẽ không thể đẩy ông Gorrie đi lên đồi,
xa như vậy. Hoặc nếu bà ấy có đề cập đến việc làm của tôi với Chess - nhưng tôi
cũng không nghĩ sẽ xảy ra. Bà cho biết đôi khi bà ngại chào anh ấy, vì anh có
cái nhìn thật khó chịu.
"Vậy, có lẽ trong khi chờ đợi...," bà nói. "Tôi
nghĩ có lẽ trong khi chờ đợi cô có muốn một việc làm nhỏ ngồi với ông Gorrie
buổi chiều không?"
Bà nói bà nhận được việc làm phụ bán trong cửa hàng quà tặng tại
Bệnh Viện St Paul ba hoặc bốn buổi chiều một tuần. "Đó không phải là một
công việc có lương nếu không tôi đã gửi cô đến đó", bà nói. "Nó chỉ
là việc làm tình nguyện. Nhưng bác sĩ nói nó sẽ tốt để tôi ra khỏi nhà.
"Bà sẽ bị đuối sức," ông ta nói. Không phải là tôi cần tiền, Ray rất
tốt với chúng tôi, nhưng tôi nghĩ đó chỉ là một công việc tình nguyện nhỏ thôi
-" Bà nhìn vào bồn giặc và thấy áo sơ mi của Chess trong nước sạch với áo
ngủ bông hoa của tôi và những tấm ra giường màu xanh nhạt.
"Ồ, cô ơi," bà nói. "Cô không giặt đồ trắng và đồ
màu chung chứ?"
"Chỉ là màu nhạt thôi," tôi trả lời. "Nó không lan
ra."
"Màu nhạt vẫn là màu", bà nói. "Cô có thể nghĩ áo
sơ mi màu trắng như vậy, nhưng chúng sẽ không còn trắng như trước
nữa."
Tôi trả lời lần sau tôi sẽ nhớ.
"Đó chỉ là cách cô chăm sóc chồng cô thôi," bà nói, với
một nụ cười chướng tai gai mắt.
"Chess không bận tâm," tôi nói, không nhận ra điều này
sẽ trở nên càng lúc càng xa sự thật trong những năm tới và tất cả những việc
dường như ngẫu nhiên, dễ dàng, và phụ thuộc, sẽ trở thành điểm tâm trong cuộc
sống thực của tôi.
Tôi nhận việc, ngồi với ông Gorrie buổi chiều. Trên một bàn nhỏ
bên cạnh chiếc ghế tựa màu xanh lá cây có trải một khăn tay - để thắm nước đổ
ra - và trên đó là những chai thuốc, thuốc nước và một đồng hồ nhỏ để ông biết
giờ. Bàn phía bên kia chồng đầy sách đọc. Tờ báo buổi sáng, tờ báo buổi tối hôm
qua, các số tạp chí Life, Look và Maclean, tất cả đều là những tạp chí mỏng to
lớn thời đó. Trên kệ dưới bàn là một đống sổ lưu niệm - loại trẻ em sử dụng ở
trường, giấy màu nâu, bìa cạnh cứng. Vài mẫu giấy báo và hình ảnh ló ra. Đó là
những cuốn sổ lưu niệm ông Gorrie đã cất giữ trong những năm qua, cho đến khi
ông bị đột quỵ và không thể nào cắt những mẫu báo được nữa. Trong phòng có một
kệ sách, nhưng nó chỉ đựng thêm nhiều tạp chí và sổ lưu niệm khác và một nửa kệ
đựng sách giáo khoa trung học, có thể là của Ray.
"Tôi luôn đọc báo cho ông ấy," bà Gorrie nói. "Ông
không mất khả năng đó, nhưng ông không thể cầm tờ báo với hai tay, và đôi mắt
ông mệt mỏi hơn."
Như vậy, tôi đọc cho ông Gorrie nghe trong khi bà Gorrie, dưới
chiếc dù hoa, bước nhẹ ra cửa đi tới bến xe buýt. Tôi đọc trang thể thao và
những tin tức địa phương, tin tức thế giới và tất cả các vụ án mạng, cướp của
cũng như thời tiết xấu. Tôi đọc các thư gởi đến ban biên tập, các thư gởi đến
bác sĩ cho lời khuyên y tế và các thư gởi đến Ann Landers cùng những trả lời
của bà. Có vẻ như tin tức thể thao và Ann Landers làm cho ông chú ý nhiều nhất.
Đôi khi tôi phát âm sai tên một cầu thủ hoặc nhằm lẫn các thuật ngữ, do đó
những gì tôi đọc không có nghĩa gì hết, và ông sẽ lẩm bẩm không hài lòng để cho
tôi biết và đọc lại. Khi tôi đọc trang thể thao ông luôn gần như căng thẳng và
cau mày. Nhưng khi tôi đọc Ann Landers khuôn mặt của ông thoải mái và ông phát
ra tiếng mà tôi hiểu là cảm kích - giống như ríu rít và thở sâu. Ông phát những
tiếng này chỉ khi các lá thư đề cập đến một vài quan tâm đặc biệt hoặc tầm
thường của phụ nữ (một người viết rằng bà chị dâu luôn giả vờ tự nướng được một
chiếc bánh, mặc dù giấy từ tiệm bánh vẫn còn nằm ở bên dưới khi nó được đem ra
mời) hoặc khi họ đề cập - một cách cẩn thận thời đó - đến quan hệ tình dục.
Trong khi đọc trang xã luận hoặc vài bài dài nói huyên thuyên về
những gì người Nga nói và những gì người Mỹ nói tại Liên Hiệp Quốc, mí mắt của
ông sẽ sụp xuống - hoặc, đúng hơn, mí bên mắt tốt sẽ rũ xuống gần như hoàn toàn
và mí bên kia, xấu hơn, sẽ rũ xuống một chút - và các chuyển động ngực sẽ thấy
rõ hơn, vì vậy tôi có thể dừng lại một chút để xem nếu ông đã ngủ. Và lúc đó
ông sẽ phát ra một thứ tiếng khác - cộc lốc và quở trách. Như tôi đã quen với
ông, và ông đã quen với tôi, tiếng này bắt đầu có vẻ ít như khiển trách mà trấn
an nhiều hơn. Và sự trấn an không chỉ để cho biết ông không ngủ nhưng là thực
tế vào thời điểm đó ông không có hấp hối.
Lúc đầu tôi đã xem chuyện ông chết trước mắt tôi như một điều
khủng khiếp. Tại sao ông không phải chết, khi ông dường như đã chết phân nửa
rồi? Con mắt hỏng của ông như một hòn đá dưới nước đục, và một bên miệng giựt
mở, cho thấy mấy cái răng xấu, nguyên thủy (đa số người già đều có răng giả)
với chất hàn sậm tối sáng ngời qua lớp men ẩm ướt. Việc ông còn sống và trên
thế giới dường như đối với tôi là một sai lầm có thể bị xóa bỏ bất cứ lúc nào.
Nhưng sau đó, như tôi đã nói, tôi quen với ông. Ông chiếm một tọa độ lớn, với
cái đầu to cao cả, lồng ngực rộng và bàn tay phải bất lực nằm trên đùi
quần dài, lọt vào mắt tôi khi đọc sách. Như một di tích, ông là một cựu chiến
binh thời chưa khai hóa. Eric Blood-Axe. Vua Knut.
“Sức mạnh của tôi suy yếu nhanh chóng”, ông vua biển nói với thuộc
hạ của ông.
“Tôi sẽ không bao giờ đi biển, giống như một kẻ chiến thắng nữa.”
Đó là hình ảnh của ông. Phân nửa cơ thể to lớn nặng nề phá hỏng đồ
nội thất và đập vào bức tường mỗi khi ông từ từ tiến dần vào phòng tắm. Mùi
người, không phân loại được nhưng cũng không hẳn là xà phòng và phấn bột sạch
sẽ của trẻ con - một mùi thuốc lá bám vào quần áo dày (mặc dù ông không hút
thuốc nữa) và lớp da ủ kín tôi nghĩ dày như da thú, với chất bài tiết và hơi
nóng động vật nực nồng. Một mùi nước tiểu thoáng nhưng nặng, trên thực tế, sẽ
làm cho tôi ghê tởm nếu từ một người phụ nữ nhưng mà dường như trong trường hợp
ông, không những được tha thứ mà là biểu hiện một cách nào đó của đặc quyền
thời xưa. Khi tôi đi vào phòng tắm sau khi ông vừa ở đó ra, nó giống như ổ hang
của một con thú ghẻ, vẫn còn mạnh mẽ.
Chess nói tôi đang lãng phí thời gian ngồi trông ông Gorrie. Bây
giờ thời tiết sáng sủa, và ban ngày dài hơn. Các cửa hàng thay đổi trưng bày
mới, bừng dậy khỏi giấc ngủ mê của mùa đông. Mọi người đều sẵn sàng hơn để nghĩ
đến việc thuê người. Vì vậy, tôi cần phải đi ra ngoài bây giờ, nghiêm túc tìm
kiếm một việc làm. Bà Gorrie chỉ trả tôi bốn mươi xu một giờ.
"Nhưng em đã hứa với bà", tôi nói.
Anh cho biết một hôm đã thấy bà ấy xuống xe buýt. Anh nhìn thấy bà
từ cửa sổ văn phòng. Và nó không gần Bệnh Viện St. Paul gì hết.
Tôi nói, "Có thể bà đang trong giờ nghỉ".
Chess trả lời: "Anh chưa bao giờ thấy bà ta đi ra ngoài ban
ngày trước đây. Chúa ơi!".
Tôi đề nghị đưa ông Gorrie đi dạo trong chiếc xe lăn, bây giờ thời
tiết đã tốt hơn. Nhưng ông bác bỏ ý kiến với vài tiếng phát biểu cho tôi hiểu
chắc chắn có điều gì đó khó chịu đối với ông khi bị đẩy ngồi trong xe lăn ra
chỗ công cộng - hoặc có thể bị đẩy bởi một người như tôi, rõ ràng là được thuê
để làm công việc.
Tôi đã gián đoạn đọc báo để hỏi ông điều này, và khi tôi định tiếp
tục ông làm một cử chỉ và tiếng ồn khác, cho tôi biết ông không muốn nghe nữa.
Tôi đặt tờ báo xuống. Bàn tay khỏe của ông vẫy về phía đống sổ lưu niệm trên kệ
dưới bàn bên cạnh. Ông phát ra nhiều tiếng nữa. Tôi chỉ có thể diễn tả những
tiếng như gầm gừ, khịt mũi, tằng hắng, sủa, lầm bầm. Nhưng đến bây giờ đối với
tôi nghe gần giống như chữ. Phát âm tựa như chữ. Tôi nghe không những chỉ những
lời bắt buộc và yêu cầu ("Không muốn", "Giúp tôi ngồi lên",
"Cho tôi xem giờ", "Tôi cần uống") mà những tuyên bố khó
khăn hơn: "Chúa ơi, tại sao con chó đó không im đi?" hoặc "Nhiều
căng thẳng" (điều này sau khi tôi đọc một số bài phát biểu hoặc của ban
biên tập trong báo).
Bây giờ điều tôi nghe là "Hãy xem trong đó có cái gì hay hơn
trong báo không".
Tôi lôi chồng sổ lưu niệm ra khỏi kệ và bày trên sàn dưới chân
ông. Trên bìa được viết, bằng bút chì đen lớn, ngày của những năm gần đây. Tôi
lướt qua năm 1952 và thấy bài báo nói về đám tang của Vua George VI. Phía trên
có hàng chữ bút chì. "Albert Frederick George. Sinh năm 1885. Chết năm
1952." Hình ảnh của ba nữ hoàng mang khăn tang che mặt.
Trang kế tiếp là một câu chuyện về đường Cao Tốc Alaska.
"Đây là một hồ sơ thú vị," tôi nói. "Ông có muốn
tôi giúp ông bắt đầu một cuốn khác không? Ông có thể chọn những gì ông muốn tôi
cắt ra và dán vào, và tôi sẽ làm."
Ông phát ra tiếng có nghĩa "Quá nhiều rắc rối" hay
"Tại sao bận tâm bây giờ?" hoặc thậm chí "Thật là một ý tưởng
ngu ngốc". Ông gạt qua một bên Vua George VI, muốn xem ngày trên những
cuốn sách khác. Ông không tìm được điều ông muốn. Ông ra dấu về phía kệ sách.
Tôi mang ra một chồng sổ lưu niệm nữa. Tôi hiểu đó là cuốn sách cho một năm đặc
biệt mà ông đang tìm, và tôi đưa mỗi cuốn sách lên để ông có thể nhìn thấy
trang bìa. Đôi khi tôi lật mở các trang mặc dù ông từ chối. Tôi thấy một bài
viết về các con báo trên Đảo Vancouver và một bài về cái chết của một nghệ sĩ
nhào lộn và một bài khác về một đứa trẻ sống sót dù bị mắc kẹt trong một trận
tuyết lở. Trở lại trong những năm ba mươi chiến tranh, trong năm tôi được sinh
ra, gần một thập kỷ trước đó ông mới hài lòng. Và ra lệnh. Nhìn cuốn này. 1923.
Tôi bắt đầu lật từ đầu.
"Tuyết rơi trong tháng giêng chôn vùi những ngôi làng tại
-"
Không phải nó. Nhanh lên. Tiếp tục đi.
Tôi bắt đầu lật nhanh hơn.
Chậm lại. Từ từ. Chậm lại.
Tôi lật từng trang một không dừng lại để đọc cái gì hết cho đến
trang ông muốn. Đây rồi. Đọc đi.
Không có hình ảnh hoặc tựa đề. Hàng chữ bằng bút chì viết:
"Vancouver Sun, 17 tháng 4 năm 1923." "Đảo Cortes", tôi
đọc. "Được rồi?" Đọc đi. Tiếp tục.
ĐẢO CORTES.
Vào buổi sáng sớm chủ nhật hay khuya tối thứ bảy, một hỏa hoạn đã
hoàn toàn phá hủy căn nhà của Anson James Wild ở phía nam hòn đảo. Ngôi nhà ở
một khoảng cách rất xa với bất kỳ nhà hoặc cư trú nào khác và vì vậy không một
ai trên đảo đã phát hiện những ngọn lửa. Có báo cáo cho biết sáng sớm chủ nhật,
một tàu đánh cá đi về hướng Desolation Sound đã thấy ngọn lửa nhưng người đi
trên tàu nghĩ ai đó đang đốt cháy những bụi cỏ khô. Biết rằng ngọn lửa không
nguy hiểm vì khu rừng lúc đó ẩm ướt nên họ tiếp tục con đường của họ.
Ông Wild là chủ Khu Vườn Trái Cây Wildfruit và là một cư dân sống
trên đảo khoảng mười lăm năm. Ông là một người cô độc và trước đó đã ở trong
quân đội nhưng ông tỏ ra thân thiện với những người ông gặp. Ông đã có vợ một
thời gian và có một con trai. Hình như ông được sinh ra ở vùng các Tỉnh Miền
Đại Tây Dương.
Ngôi nhà hoàn toàn đã bị phá hủy bởi ngọn lửa và cột nhà rơi sập
xuống. Xác của ông Wild được tìm thấy giữa đống tro tàn gần như không còn nhận
diện được.
Một lon thiếc cháy đen cho là đã đựng dầu lửa được phát hiện trong
đống đổ nát.
Vợ ông Wild không có ở nhà vào thời điểm đó, vì thứ tư trước bà đã
chấp nhận đi theo một chiếc thuyền đến chở một trọng tải táo từ vườn trái cây
của chồng bà đến Comox. Bà có ý định trở lại cùng ngày nhưng đã ở lại ba ngày
và bốn đêm vì động cơ chiếc thuyền có vấn đề. Sáng chủ nhật bà quay trở lại với
người bạn cho quá giang và họ đã khám phá thảm kịch.
Nỗi lo sợ được hướng về cậu con trai của gia đình Wilds không có
trong nhà khi lửa cháy. Một cuộc tìm kiếm bắt đầu ngay sau đó và trước khi trời
tối vào chiều chủ nhật đứa trẻ được tìm thấy trong rừng cách căn nhà khoảng một
dặm. Nó bị ướt và lạnh ở trong bụi cây hằng giờ nhưng không hề hấn gì. Hình như
nó có mang theo một số thực phẩm khi rời khỏi nhà vì trên người có vài miếng
bánh mì vụn.
Một cuộc điều tra sẽ tiến hành tại Courtenay để tìm nguyên nhân
của đám cháy đã phá hủy căn nhà của gia đình Wilds và dẫn đến cái chết của ông
Wild.
"Ông có biết những người này không?" Tôi hỏi.
Lật trang.
Ngày 4 tháng tám 1923.
Một cuộc điều tra được tiến hành tại Courtenay trên Đảo Vancouver
về cơn hỏa hoạn gây ra cái chết của Anson James Wild tại Đảo Cortes, trong
tháng tư năm nay, cho thấy sự nghi ngờ đốt phá bởi người đàn ông chết hoặc một
hoặc nhiều người vô danh không thể được chứng minh.
Sự hiện diện của một lon thiếc dầu lửa không tại hiện trường hỏa
hoạn đã không được chấp nhận như bằng chứng đầy đủ. Ông Wild thường xuyên mua
và sử dụng dầu lửa, theo lời ông Percy Kemper, thủ kho của Manson’s Landing,
Đảo Cortes. Đứa con trai bảy tuổi của ông không thể cung cấp bằng chứng nào về
đám cháy. Nó được tìm thấy bởi một nhóm nhiều giờ sau đó, lang thang trong rừng
không xa nhà lắm. Để trả lời câu hỏi, cậu bé nói rằng cha cậu đã cho miếng bánh
mì và táo và nói cậu đi đến Mansons Landing nhưng cậu đi lạc. Nhưng vài tuần
sau đó, cậu bé nói không nhớ điều này và không biết làm sao để có thể đi lạc,
con đường mà cậu đã đi nhiều lần trước đây. Bác sĩ Anthony Helwell ở Victoria
phát biểu ông đã khám nghiệm cậu bé và tin rằng cậu có thể đã bỏ chạy khi vừa
trông thấy ngọn lửa, có thể có thời gian để quơ lấy một số thực phẩm mang theo,
mà bây giờ cậu hoàn toàn không nhớ gì hết. Lần lượt, ông nói câu chuyện của cậu
bé có thể đúng và hồi ức bị xoá bỏ sau đó. Ông nói hỏi thêm đứa trẻ sẽ không
ích lợi bởi vì cậu ta có lẽ không thể phân biệt giữa thực tế và tưởng tượng của
cậu trong vấn đề. Bà Wild không có mặt ở nhà vào thời điểm hỏa hoạn vì bà đã đi
đến Đảo Vancouver trên chiếc thuyền của James Thompson Gorrie ở Union Bay. Cái
chết của ông Wild đã được phán xét là một tai nạn xảy ra bất ngờ, nguyên nhân
của nó là một ngọn lửa không rõ nguồn gốc.
Đóng cuốn sách lại bây giờ.
Cất nó đi. Cất tất cả đi.
Không. Không. Không phải như vậy. Cất chúng theo thứ tự. Từng năm.
Như vậy tốt hơn. Như chúng đã được cất đi.
Bà ấy về đến chưa? Nhìn ra cửa sổ.
Tốt. Nhưng bà sắp sửa về đến.
Vậy, cô nghĩ gì về chuyện đó?
Tôi không cần biết. Tôi không cần biết cô nghĩ gì.
Cô có bao giờ nghĩ rằng cuộc sống con người có thể như thế và kết
thúc như thế này không? Đúng, có thể.
Tôi không CÓ nói với Chess về chuyện này, mặc dù tôi thường nói
với anh bất cứ điều gì tôi nghĩ sẽ làm anh thích hoặc vui về sinh hoạt trong
ngày của tôi. Bây giờ anh có một cách để bác bỏ bất cứ đề cập nào đến ông bà
Gorries. Anh dành một chữ cho họ. Đó là "lố bịch".
Trong công viên tất cả những cây nhỏ có vẻ thảm thương đã trổ hoa.
Bông hoa màu hồng tươi sáng, tựa như bắp rang nhuộm màu nhân tạo.
Và tôi bắt đầu làm một công việc thực sự.
Thư viện Kitsilano gọi điện thoại và yêu cầu tôi đến làm một vài
giờ vào buổi chiều thứ bảy. Tôi được ngồi ở phía bên kia bàn làm việc, đóng dấu
ngày đến hạn trong những cuốn sách của khách. Tôi quen mặt một số người này,
cùng là đến mượn sách. Và bây giờ tôi mỉm cười với họ, thay mặt cho thư viện.
Tôi nói, "Hẹn gặp lại trong hai tuần".
Vài người cười và trả lời: "Ồ, sớm hơn nhiều," cũng là
người nghiện sách như chính tôi.
Thật ra đó là một công việc tôi có thể phụ trách. Không có máy
tính tiền - khi tiền phạt được trả tôi có thể lấy tiền thối lại trong một ngăn
kéo. Và tôi đã biết hầu hết những cuốn sách ở đâu trên kệ. Khi cần sắp xếp thẻ
vào, tôi biết bảng chữ cái.
Tôi được cho làm nhiều giờ hơn. Không bao lâu sau đó, một công
việc toàn thời gian tạm thời. Một trong những nhân viên thường trực bị sẩy
thai. Cô nghỉ hai tháng và đến cuối thời gian đó cô lại mang thai và bác sĩ
khuyên cô không trở lại làm việc. Vì vậy, tôi gia nhập nhóm nhân viên thường
xuyên và giữ công việc này cho đến khi tôi vào nửa thời kỳ mang thai đầu tiên
của tôi. Tôi làm việc với những phụ nữ tôi đã biết mặt từ lâu. Mavis và
Shirley, bà Carlson và bà Yost. Tất cả mọi người đều nhớ thời gian tôi thường
đến và đi lang thang xung quanh - như họ nói – hằng giờ trong thư viện. Tôi ước
gì họ không để ý đến tôi nhiều như vậy. Tôi ước gì mình không đến đây thường
như vậy.
Một niềm vui thật đơn giản, đến chỗ ngồi của tôi, đối diện với
khách từ phía sau bàn làm việc, có khả năng, nhanh nhẹn và thân thiện với những
người tiếp xúc với tôi. Được nhìn thấy như một người biết công việc, có một
chức năng rõ ràng trên thế giới. Bỏ tánh ẩn trốn, lang thang, mơ ước và trở
thành cô gái trong thư viện.
Tất nhiên, bây giờ tôi có ít thời gian hơn để đọc, và đôi khi tôi
sẽ cầm một cuốn sách trong giây lát, lúc làm việc tại bàn - tôi sẽ cầm một cuốn
sách như một vật thể, không như một chiếc tàu mà tôi phải làm ráo nước ngay lập
tức - và tôi sẽ có một thoáng sợ hãi, như trong giấc mơ khi cảm thấy mình đến
lầm nơi hoặc quên giờ thi và hiểu rằng đây chỉ là đỉnh của vài thảm họa mờ ảo
hoặc sai lầm cả đời người.
Nhưng sự sợ hãi này sẽ biến mất trong một phút.
Những phụ nữ làm việc chung với tôi nhắc lại những lần họ đã nhìn
thấy tôi đang viết trong thư viện.
Tôi nói tôi viết thư. "Cô viết thư trong tập giấy nháp?"
"Đúng vậy", tôi trả lời. "Nó rẻ hơn."
Cuốn tập cuối cùng đã trở lạnh, giấu trong ngăn kéo đựng ngổn
ngang vớ và đồ lót của tôi. Nó đã lạnh, nhìn thấy nó làm tôi cảm thấy đầy hoài
nghi và hổ thẹn. Tôi định vứt bỏ nó nhưng không làm.
Bà Gorrie đã không chúc mừng tôi khi nhận được việc này.
"Cô không có nói với tôi là cô vẫn đang tìm kiếm việc",
bà nói. Tôi trả lời tôi đã để tên lại ở thư viện trước đây đã lâu và tôi đã nói
với bà.
"Đó là trước khi cô bắt đầu làm việc cho tôi", bà nói.
"Vậy, bây giờ phải làm gì với ông Gorrie?" "Tôi xin
lỗi", tôi trả lời.
"Không có tốt cho ông chút nào, đúng không?"
Bà nhíu lông mày màu hồng và cất giọng cao để nói chuyện với tôi.
Tôi đã nghe bà ấy nói chuyện trong điện thoại, với người bán thịt hoặc người
bán tạp hóa khi họ làm sai hóa đơn của bà.
"Và tôi phải làm gì?", bà nói. "Cô đã đặt tôi trong
một tình trạng khó xử, phải không? Tôi hy vọng cô giữ lời hứa với những người
khác khá hơn một chút so với tôi."
Tất nhiên, chuyện này vô lý. Tôi đã không hứa hẹn gì với bà là tôi
sẽ làm bao lâu. Tuy nhiên, tôi vẫn cảm thấy bất an có lỗi, nếu không tội lỗi. Tôi
đã không hứa hẹn gì, nhưng còn những lần khi tôi đã không trả lời tiếng gõ của
bà, khi tôi đã cố gắng lẻn vào và ra khỏi nhà mà không để bị chú ý, hạ thấp đầu
xuống khi tôi đi qua dưới cửa sổ nhà bếp? Còn cách tôi đã luôn có một cớ nhẹ
nhưng ngọt ngào tình bạn khi trả lời những lời mời - chắc chắn - có thật của
bà?
"Thực sự nó chỉ tốt thôi", bà nói. "Tôi cũng không
muốn một người không đáng tin cậy trông chừng ông Gorrie. Tôi không hoàn toàn
hài lòng với cách cô chăm sóc ông ấy, dù sao, tôi có thể nói với cô điều
đó."
Không bao lâu bà tìm được một người khác để ngồi trông ông - một
phụ nữ nhỏ như người nhện với mái tóc đen, bọc lưới. Tôi chưa bao giờ nghe bà
ta nói chuyện. Nhưng tôi nghe bà Gorrie nói chuyện với bà ấy. Cánh cửa ở đầu
cầu thang để mở vì vậy tôi biết.
"Cô ấy không bao giờ rửa tách trà của ông. Phân nửa thời gian
cô cũng thậm chí không bao giờ làm trà cho ông. Tôi không biết cô ấy tốt ở cái
gì. Ngồi và đọc báo."
Ngày nay khi tôi rời khỏi nhà, cửa sổ nhà bếp để mở tung và giọng
nói của bà vang lên trên đầu tôi, mặc dù bà có vẻ đang nói chuyện với ông
Gorrie.
"Cô đi đó. Trên đường đi. Thậm chí cô cũng sẽ không bận tâm
vẫy tay mình bây giờ nữa. Chúng ta đã cho cô một việc làm lúc không ai khác
nhận cô, nhưng cô sẽ không bận tâm. Ồ, không."
Tôi không vẫy tay. Tôi phải đi ngang cửa sổ phía trước, nơi ông
Gorrie đang ngồi, nhưng tôi có ý nghĩ nếu tôi vẫy tay bây giờ, ngay cả khi tôi
nhìn ông, ông sẽ bị mất mặt. Hoặc tức giận. Bất cứ tôi làm điều gì có vẻ giống
như chế nhạo.
Trước khi tôi đi được nửa đường tôi đã quên cả hai. Buổi sáng rực
rỡ, và tôi di chuyển với một cảm giác thư thả và có mục đích. Trong những lần
như vậy, quá khứ ngay lập tức của tôi có vẻ thoáng hổ thẹn. Hằng giờ sau bức
màn của hốc tường, hằng giờ tại bàn ăn nhà bếp viết hết trang này đến trang kia
một cách thất bại, hằng giờ trong căn phòng quá nóng với ông già. Tấm thảm và
ghế bọc nệm cũ xì, mùi quần áo và cơ thể của ông và những cuốn tập sưu tầm dán
tài liệu keo đã khô, bao nhiêu giấy báo tôi phải bước qua. Câu chuyện rùng rợn
mà ông đã lưu lại và bảo tôi đọc. (Tôi không bao giờ hiểu trong một giây phút
rằng đó là loại sách bi kịch của con người mà tôi ưa chuông.) Nhớ lại tất cả
những điều đó như nhớ lại một thời kỳ lúc nhỏ tôi bị bệnh được quấn chặt trong
những tấm nỉ ấm cúng với mùi dầu gió, kẹt trong sự mệt mỏi và cơn sốt, không
hoàn toàn nhìn thấy các cành cây qua cửa sổ trên lầu. Tôi không hối tiếc quá
nhiều những lúc như vậy vì chúng sẽ bị loại bỏ một cách tự nhiên. Và nó dường
như là một phần của chính tôi lúc ốm yếu? - giờ đây sẽ bị loại bỏ. Bạn sẽ nghĩ
hôn nhân sẽ làm chuyển đổi này, nhưng không, trong một thời gian. Tôi đã ngủ
qua mùa đông và nghiền ngẫm con người tôi - tựa như con lừa, thiếu nữ tính, bí
mật một cách phi lý. Bây giờ tôi chọn đứng dậy và thừa nhận sự may mắn của tôi
chuyển thành một người vợ và một nhân viên. Đủ đẹp và có khả năng khi gặp rắc
rối. Không lạ. Tôi có thể vượt qua.
Bà Gorrie mang lên một áo gối. Đưa hàm răng ra trong một nụ cười
vô vọng, thù địch, bà hỏi có phải của tôi không. Tôi trả lời không do dự là
không phải. Hai áo gối mà tôi có được mặc vào hai chiếc gối trên giường chúng
tôi.
Bà nói bằng một giọng khó chịu, "Vây, chắc chắn không phải là
của tôi".
Tôi trả lời, "Làm thế nào bà biết được?".
Từ từ, một cách nhiễm độc, nụ cười của bà mang vẻ tự tin hơn.
"Đây không phải là loại vải tôi từng để trên giường của ông Gorrie. Hoặc
của tôi." Tại sao không?
"Bởi vì – nó-không-đủ-tốt."
Nên tôi phải đi vào lấy áo gối ra khỏi gối trên giường trong hốc
tường và mang chúng ra cho bà ấy, và chứng tỏ không phải là một cặp, mặc dù tôi
đã thấy như vậy. Một được thực hiện bằng thứ vải "tốt" – của bà - và
một trong tay bà là của tôi.
"Tôi sẽ không tin rằng cô đã không nhận thấy," bà nói,
"nếu là người khác chứ không phải cô".
Chess đã nghe nói về một căn hộ khác. Một căn hộ thực sự, không
phải là một "phòng lớn" - nó có một phòng tắm đầy đủ và hai phòng
ngủ. Một người bạn nơi làm việc của anh đang dọn đi, bởi vì hai vợ chồng đã mua
một ngôi nhà. Nó ở trong một tòa nhà cao góc First Avenue và Macdonald Street.
Tôi vẫn có thể đi bộ đến nơi làm việc, và anh có thể lấy cùng xe buýt anh đi
bây giờ. Với hai tiền lương, chúng tôi có đủ khả năng.
Người bạn và vợ đã để lại một số đồ nội thất, mà họ sẽ bán với giá
rẻ. Nó sẽ không phù hợp với ngôi nhà mới của họ, nhưng đối với chúng tôi nó có
vẻ lộng lẫy. Chúng tôi đi quanh phòng tầng thứ ba thật sáng sủa, trầm trồ các
bức tường sơn kem, sàn gỗ sồi, tủ bếp rộng rãi, và sàn phòng tắm lát gạch. Thậm
chí có cả một ban công nhỏ nhìn ra ngoài lá cây Công Viên MacDonald. Chúng tôi
đã yêu nhau một cách mới, yêu với trạng thái mới của chúng tôi, sự xuất hiện
của chúng tôi vào cuộc sống trưởng thành từ tầng hầm chỉ là một trạm dừng rất
tạm thời. Nó sẽ được đề cập trong câu chuyện chúng tôi như một lời đùa, một thử
nghiệm chịu đựng, trong nhiều năm tới. Từng diễn tiến của chúng tôi - thuê nhà,
ngôi nhà đầu tiên chúng tôi sở hữu, ngôi nhà thứ hai chúng tôi sẽ có, ngôi nhà
đầu tiên trong một thành phố khác - sẽ tạo ra cảm giác phấn khích này của sự
tiến bộ và thắt chặt kết nối của chúng tôi. Cho đến ngôi nhà vĩ đại nhất cuối
cùng và cho đến nay, mà tôi bước vào với những cảm giác về thiên tai và linh
cảm thật mờ nhạt về trốn thoát.
Chúng tôi thông báo cho Ray, mà không nói với bà Gorrie. Làm bà
tăng lên một cấp độ thù địch mới. Thực tế, bà hơi điên rồ.
"Ồ, cô ấy nghĩ cô quá thông minh. Thậm chí cô còn không thể
giữ hai phòng sạch. Khi cô quét sàn cô ta chỉ quét bụi vào một góc.
Khi tôi mua cây chổi đầu tiên, tôi đã quên mua một máng rác, và
thời gian đó tôi đã làm như vậy. Nhưng cô chỉ có thể biết nếu cô lẻn vào phòng
chúng tôi với chìa khóa của cô khi tôi ra ngoài. Điều đó trở nên rõ ràng là cô
đã làm.
Cô ấy là một kẻ lén lút, bạn biết. Tôi biết lần đầu tiên tôi thấy
cô thật là một kẻ lén lút. Và nói dối. Đầu cô không ổn. Cô ngồi xuống đó và nói
đang viết thư và cô cứ viết đi viết lại cùng một thứ - không phải là thư, đó
chỉ là điều tương tự lập đi lập lại. Đầu cô ấy không ổn."
Bây giờ tôi biết rằng bà đã mở xem các trang vò nát trong sọt rác
của tôi. Tôi thường cố gắng bắt đầu cùng câu chuyện với cùng những chữ. Như bà
nói, cứ viết đi viết lại nữa.
Thời tiết đã trở nên khá ấm áp, và tôi đi làm không có áo khoác,
mặc một chiếc áo len ấm nhét vào váy, và một sợi dây nịt thắt thật chặt.
Bà mở cửa trước và hét sau lưng tôi.
"Đàn hà hư. Nhìn người đàn bà hư, cách cô ta hở ngực và lắc
lư mông. Cô tưởng cô là Marilyn Monroe hả?"
Và "Chúng tôi không cần cô trong nhà chúng tôi. Cô dọn ra
khỏi đây càng sớm càng tốt".
Bà gọi điện thoại cho Ray và nói với anh tôi định ăn cắp ra trải
giường của bà. Bà phàn nàn rằng tôi đã kể chuyện về bà ngoài đường phố. Bà đã
để cửa mở chắc chắn cho tôi có thể nghe, và bà hét vào điện thoại, nhưng điều
này hầu như không cần thiết, bởi vì chúng tôi cùng trên một đường dây và có thể
nghe được bất cứ lúc nào. Tôi không bao giờ làm vậy - bản năng tôi là bịt tai
lại - nhưng vào một buổi tối khi Chess ở nhà anh nhấc điện thoại lên và trả
lời.
"Anh đừng để ý đến bà ấy, Ray, bà chỉ là một người đàn bà già
điên. Tôi biết bà là mẹ của anh, nhưng tôi phải nói với anh là bà ấy
điên."
Tôi hỏi anh là Ray đã nói những gì, anh ta có giận hay không. Anh
ấy chỉ nói, "Chắc chắn, không sao."
Bà Gorrie đã gác điện thoại lại và la lớn thẳng xuống cầu thang,
"Tôi sẽ nói cho các người biết ai điên. Tôi sẽ nói ai là kẻ nói dối điên
khùng rêu rao những lời dối trá về tôi và chồng tôi-".
Chess trả lời, "Chúng tôi không nghe bà. Bà để yên vợ
tôi." Sau đó, anh hỏi tôi, "Bà ta ngụ ý gì về bà và chồng
bà?"
Tôi trả lời, "Em không biết".
"Bà ấy chỉ kiếm chuyện với em thôi", anh nói. "Bởi
vì em còn trẻ và đẹp và bà ấy là một mụ già."
"Quên đi," và anh nói một lời nửa đùa để tôi vui
lên.
"Phụ nữ lớn tuổi họ làm sao vậy?"
Chúng tôi chuyển đến căn hộ mới bằng taxi chỉ mang theo va li.
Chúng tôi đứng chờ trên vỉa hè đưa lưng vào nhà. Tôi mong đợi một
vài tiếng la hét cuối cùng lúc đó, nhưng không có một âm thanh nào hết.
"Nếu bà ta có một khẩu súng và bắn vào lưng em?" Tôi
hỏi.
"Đừng nói chuyện như bà ấy", Chess nói.
"Em muốn vẫy tay ông Gorrie nếu ông ở đó."
"Không nên."
Tôi KHÔNG có một cái nhìn cuối cùng về căn nhà, và tôi không bao
giờ trở lại đi bộ xuống con đường đó, khu Arbutus Street đối diện với công viên
và biển. Tôi không có một ý tưởng rõ ràng vẻ bên ngoài của nó, mặc dù tôi nhớ
một vài điều – tấm màn ở hốc tường, tủ đựng đồ sứ tàu, chiếc ghế tựa màu xanh
của ông Gorrie - rất rõ.
Chúng tôi quen biết những cặp vợ chồng trẻ khác cũng đã bắt đầu
như chúng tôi, sống trong những nơi rẻ tiền trong nhà người khác. Chúng tôi
nghe nói về chuột, gián, nhà vệ sinh kinh hồn, bà chủ nhà điên khùng. Và chúng
ta sẽ nói về bà chủ nhà điên của chúng tôi. Hoang tưởng.
Ngoài ra, tôi không nghĩ đến bà Gorrie.
Nhưng, ông Gorrie xuất hiện trong giấc mơ của tôi. Trong đó, tôi
dường như quen biết ông trước khi ông biết bà ấy. Nhanh nhẹn và mạnh mẽ, nhưng
ông không còn trẻ, và ông không có vẻ khỏe hơn so với lúc tôi đọc sách cho ông
trong phòng phía trước. Có lẽ ông có thể nói chuyện, nhưng ở mức độ các tiếng
ồn mà tôi đã học để hiểu ra - nó đột ngột và bắt buộc, một chú thích cần thiết
nhưng có lẽ khinh thị với hành động. Và hành động bùng nổ, vì đây là những giấc
mơ khiêu dâm. Suốt thời gian tôi là một người vợ trẻ, và sau đó, không chậm
trễ, một người mẹ trẻ - bận rộn, trung thành, thường xuyên hài lòng - tôi cứ có
những giấc mơ thỉnh thoảng như vậy, trong đó sự tấn công, phản ứng, khả năng
xảy ra, vượt ra ngoài cuộc sống thực. Và hoàn toàn không có tình cảm lãng mạn.
Kể cả sự đúng đắn. Giường của chúng tôi – ông Gorrie và tôi - là bãi biển sỏi
đá hoặc boong tàu thô cứng hoặc cuộn dây roi trừng phạt nhờn mở. Có một sự
thích thú mà bạn có thể gọi là xấu xa. Mùi hăng, con mắt thạch, hàm răng chó
của ông. Tôi tỉnh dậy ra khỏi những giấc mơ ngoại giáo rã rời thậm chí vì ngạc
nhiên, hay xấu hổ, và ngủ thiếp đi một lần nữa và thức dậy buổi sáng với một trí
nhớ mà tôi thường phủ nhận. Trong thật nhiều năm và chắc chắn lâu sau khi ông
đã chết, ông Gorrie hoạt động trong cuộc sống về đêm của tôi như vậy. Cho đến
khi tôi dùng ông, tôi cho như vậy, như chúng ta dùng người chết. Nhưng nó không
bao giờ có vẻ như vậy - rằng tôi là người chủ động, là tôi đã mang ông đến đó.
Cả hai cách dường như đều xảy ra tốt, như thể ông cũng đã mang tôi đến đó, và
đó là kinh nghiệm của ông cũng như là của tôi.
Và chiếc thuyền, boong tàu và sỏi đá trên bờ biển, những hàng cây
chỉ lên trời hoặc cúi xuống, nghiêng ra trên mặt nước, nét phức tạp của những
hòn đảo xung quanh và những ngọn núi mờ ảo nhưng khác nhau, dường như hiện hữu
trong một hỗn độn tự nhiên, ngông cuồng hơn nhưng bình thường hơn bất cứ điều
gì tôi có thể mơ đến hoặc chế tạo ra. Tựa như một nơi vẫn tiếp tục hiện hữu cho
dù bạn có đó hay không, và trong thực tế nó vẫn còn đó.
Nhưng tôi không bao giờ nhìn thấy những xà ngang cháy nám của ngôi
nhà rơi xuống xác người chồng. Chuyện đó đã xảy ra quá lâu trước đây và khu rừng
đã lớn lên bao bọc tất cả lại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét