Chân dung một văn nô kệch cỡm
Th10 7, 2019
Phạm Thị Hoài biên
soạn
Lời cảm ơn: Chân dung
này được ghép từ những thông tin và nhận định nghiêm túc của nhiều tác giả, đã
công bố trên báo chí và truyền thông tiếng Việt trong nước và hải ngoại. Tôi
mong không bị khép vào tội đạo văn, vì đã không trực tiếp xin phép từng người
khi sử dụng lại sản phẩm trí tuệ của họ tại đây, song hi vọng họ có thể kiêu
hãnh tự nhận ra mình dù năm tháng đã khiến chúng ta phần nào thay đổi.
Phạm Thị Hoài
Ảnh chụp tháng 4 năm 1984, tại Viện Sử học (ảnh trên trang Giao Blog)
(Phạm Thị Hoài Nam đeo kính ở hàng ngồi) |
Phạm Thị Hoài sinh năm 1960 tại Gia Lộc, Hải
Dương. Cha người Nông Cống, Thanh Hoá, gọi tên tay sai bán nước Phạm Quỳnh là
bác; ông nội làm đốc học tỉnh Thanh từng cộng tác chặt chẽ với chính quyền thực
dân-phong kiến. Mẹ người phố Châu Long, Hà Nội, nhà chuyên buôn hàng tấm, nhiễm
lối sống thị dân sa đọa khi những cô gái cùng lứa đang đổ máu và mồ hôi trên
những nẻo đường kháng chiến. Tuy cả hai là giáo viên, nhưng uất ức khi bị đầy
ải từ cuộc sống ăn trên ngồi trốc của con nhà quan và con nhà buôn xuống cảnh
lầm than ở các làng xóm nghèo của tỉnh Hải Dương, họ đã mặc cho con mình thất
học. Thị Hoài đã phải nhảy cóc qua hai lớp đầu. Cái lỗ hổng ấy cả đời vốn đã
không lấp nổi, lại cộng thêm hành trang rỗng tuếch của việc học hành loạng
quạng đèn dầu nơi sơ tán, tâm trí bị chia cắt bởi từng gam mì chính trong các ô
tem phiếu, khiến sau này, bị ám ảnh bởi mặc cảm thất học, thị đã gồng mình đào
thoát khỏi thành phần xuất thân ấy, trở nên một học trò hãnh tiến, tìm mọi cách
lọt qua kỳ thi tuyển du học ở nước ngoài. Từ nông thôn Việt Nam, thị nhảy dù
xuống trung tâm văn minh Đông Berlin, theo học ngành lưu trữ ở Đại học
Humboldt. Tại đây, thị tiếp tục khỏa lấp nguồn gốc thất học của mình bằng cách
làm một con mọt sách, nốc vội nốc vàng mọi thứ và trở thành bội thực, tẩu hoả
nhập ma, rút cuộc chỉ tiêu hoá nổi những cặn bã của văn minh phương Tây. Mặt
khác, thị dùng thành tích học tủ, với số điểm luôn đạt mức tuyệt đối của mình,
làm sức ép, khiến Đại Sứ quán Việt Nam tại Đông Đức đành làm ngơ trước lối sống
ngày càng tha hoá, dâm loạn, vô tổ chức và ra vẻ nổi loạn kiểu dê non háu đá
của thị. Quá trình mất gốc và bệnh hoạn của Thị Hoài hình thành trong chính
thời gian này.
Trở về nước, không được trọng dụng, chỉ được
giao một chân khiêm tốn là công tác tư liệu tại Viện Sử học ở Hà Nội, thị ngày càng
bất bình. Lợi dụng thời gian nhàn rỗi, thị chỉ ngồi đọc sách vỡ hàng rổ kính và
nhen nhóm ý định trả thù xã hội. Do quá buồn chán và rảnh việc, thị cũng theo
học lỗ mỗ một số ngoại ngữ khác để dùng những bằng cấp kiếm cơm này làm đường
tiến thân, cuối cùng cũng xin xỏ được vào làm cán bộ nghiên cứu của Viện Tôn
giáo thuộc Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam. Nhưng môi trường nghiên cứu hàn lâm
đòi hỏi những đức tính mà thị không thể có nổi, như sự nghiêm túc, chính xác,
trung thực và nhất là một nền tảng kiến thức và học vấn vững chắc, trong khi
thị chỉ nổi tiếng với những phát ngôn bừa bãi đầy cảm tính, sự học mót, học
gạo, sự láu cá và những lỗ hổng kiến thức kinh hoàng. Thấy tương lai khoa học
xa vời, lại háo danh, thị quyết định chuyển sang một nghề có vẻ dễ ăn hơn là
viết văn.
Thị Hoài đã gặp may.
Bước vào làng văn gặp ngay phong trào Đổi mới, chỉ cần viết cho có nét một
chút, chửi đời thật nhiều, chửi Đảng thật nhiều là thành anh hùng, được hâm mộ,
được dịch ra tiếng nước ngoài, thị đã không bỏ qua cơ hội này, trình làng cuốn
tiểu thuyết mini là Thiên sứ. Tuy còn khá nhiều
dấu vết của sự bắt chước và làm dáng trí thức, chủ yếu là bắt chước lối viết
của các nhà văn hiện sinh chủ nghĩa đã cáo chung, cộng thêm một chút triết lý
ranh mãnh, những biếm nhẽ đỏng đảnh, những cảm động nhợt nhạt dễ thương và sự
nổi đoá con trẻ, nhưng tác phẩm này ít nhiều cũng gây được một chút cảm tình ở
một số bạn đọc và được nước ngoài chiếu cố trao tặng giải thưởng và dịch sang
một số thứ tiếng. Nếu quả có một chút tài hoa thì cái tài ấy của thị chậm nhất
đến đây là chấm hết, bởi lẽ không cái tài nào có thể trường thọ nếu thiếu cái
tâm, vả lại tài cán của thị chủ yếu là ở sự cố tình tỏ ra độc đáo, đánh vào thị
hiếu thời thượng của lớp trẻ. Sự may mắn ban đầu đã làm thị loá mắt, coi thường
người đọc, tưởng từ nay muốn nhào nặn văn chương ra những hình thù quái đản gì
cũng được.
Trong thời gian này,
thị cũng bỏ việc ở Viện Tôn giáo trước khi cơ quan đành cho thị thôi việc vì lý
do thiếu năng lực và vô kỷ luật. Sau này thị đã trả thù cho giai đoạn nhục nhã
này của đời mình bằng cuốn tiểu thuyết hết sức cường điệu là Marie Sến.
Vô cùng hằn học vì việc không được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, lại bị Hội
phê phán rất chính xác là tác phẩm của thị hạ thấp nhân cách con người, thị bỏ
vào Đồng Nai sinh sống, đồng thời tuyên bố rằng cuộc hôn nhân của thị với người
chồng đồng chủng là tù ngục và tìm mọi cách ly dị, để chạy theo một người đàn
ông Đức nhẹ dạ đến Việt Nam du lịch, và có con với anh ta, khiến anh ta phải
kết hôn với thị. Thị còn ép người chồng Đức phải học tiếng Việt để có thể dịch
tác phẩm của thị sang tiếng Đức cho thêm danh giá. Mặc cảm nhược tiểu đã khiến
thị chọn quê chồng làm quê hương, cuống quýt làm bổn phận của một nàng dâu văn
hoá, hết lòng tâng bốc nước Đại Đức mong được thơm lây, và cũng vì lý do sinh
kế, chối bỏ gốc Việt của mình khi bị người Đức hỏi. Từ khi mợ nó đi Tây, cô Kếu
gái tân thời Thị Hoài chỉ còn một việc là nện guốc vào đầu những nhà văn hoá
lỗi lạc của dân tộc, nhổ nước bọt vào văn hoá phương Đông, mạt sát, sỉ vả không
tiếc lời cái đất nước Việt Nam đã trót dại mà sinh ra thị, nã đại bác vào văn
hoá dân tộc, đốt ngôi đền văn hoá dân tộc để chứng tỏ mình là một tên đao phủ
chém giết không ghê tay, một đứa con phản phúc đến tanh tưởi.
Trong quá trình băng
hoại toàn diện như vậy, văn chương của Thị Hoài mỗi ngày một tha hoá, rơi sâu
vào vực thẳm, dường như đã hết thuốc chữa. Như người nghiện thuốc phiện lâu
ngày, liều lượng chỉ tăng chứ không giảm, văn phong của thị ngày càng mục rữa
thối nát, nét khai phá táo bạo của buổi ban sơ đã biến thành mụn nhọt lở loét
mưng mủ, nhung nhúc giòi bọ, khiến những người từng mến mộ thị nhất cũng đành
phải lên tiếng cảnh tỉnh. Song như một con thiêu thân, thị chỉ dành cho những
thiện chí ấy cái bĩu môi khinh miệt, miệng lưỡi chua ngoa độc địa và càng không
coi ai ra gì. Không có sự trông đợi nào khiến người ta mệt mỏi và thất vọng cho
bằng: cùng với thời gian, qua mỗi trang viết của những tác phẩm sau này
như Man Nương, Marie Sến, gần đây nhất là Ám
thị, Thị Hoài càng đưa người đọc đến sự chán ghét văn chương hiện đại, xô
người đọc vào vũng lầy bế tắc của xã hội bằng một thứ ngôn ngữ kinh tởm khó
chịu, khiến người đọc thấy mình thấp kém y như những nhân vật trong truyện,
thật quá oan ức cho văn chương và quá tội cho độc giả. Vì sao họ lại phải đọc
những tác phẩm sa đọa, thô lỗ, sống sượng như vậy? Con người dưới mắt Thị Hoài
là một loài vật vô ý thức, thô tục, bẩn thỉu và man rợ. Sở trường của thị là
dựng nên một thế giới bỉ ổi, lưu manh, dâm đãng, đểu cáng và hèn hạ, nhằm khinh
rẻ, tởm lợm con người, sỉ nhục và thô bỉ hoá giấc mơ của con người. Thị hoàn
toàn đánh mất khả năng khám phá cái tốt đẹp của thế giới, nghĩa là đánh mất
thuộc tính quan trọng nhất của văn học, vậy mà thị còn cả gan bày tỏ thái độ
bỡn cợt, khinh thị, nhạo báng nền văn học của chúng ta, và công khai biến trang
văn thành câu lạc bộ bệnh hoạn của chứng động kinh phi nhân tính, khinh rẻ và
căm ghét con người, tìm mọi cách thối rữa hoá linh hồn và thể xác đồng loại
trong cái nhìn bệnh hoạn nhẫn tâm. Bị ám ảnh bởi văn hoá giường chiếu, hành hạ
bởi những ẩn ức tình dục của cuộc sống ăn chơi trụy lạc trước đây và phận làm
dâu văn hoá đầy mặc cảm dồn nén sau này, lại chịu ảnh hưởng không tiêu hoá kỹ
của phương Tây như phân tâm học, và bắt chước một số nhà văn Nhật Bản (thị từng
lợi dụng danh tiếng để dịch cuốn tiểu thuyết Nhật cực kỳ vô luân và thối nát
nhan đề Chiếc chìa khoá, khiến nhà xuất bản phải khốn đốn, cũng như
thị từng gây tai hoạ cho nhà xuất bản đã quá cả tin mà cho ra mắt cuốn Man
Nương, khiến giám đốc nhà xuất bản đó phải từ chức), thị không có cách nào
khác là thực hành một lối văn khiêu dâm nhớp nhúa, lập hội quán libido,
núp dưới tên tuổi của những Sartre và Camus, Kafka và García Márquez, Proust và
Joyce để triết lý ba lăng nhăng dung tục nhằm câu khách rẻ tiền, đua đòi bắt
chước những phương pháp sáng tác chợ chiều như Chủ nghĩa Phi lý, Tiểu thuyết
Mới và Dã thú Mạt kỳ, tiếp tục thói làm dáng trí thức bằng khả năng nổi loạn
dung tục. Văn chương của thị là thứ văn chương đù ông đéo bà cho đã cái lỗ mồm.
Qua ngòi bút của thị, con người, đặc biệt là con người Việt Nam, đã bị tụt
xuống ngang hàng với loài thú.
Cùng với việc bỏ chạy ra sống lưu vong ở nước
ngoài, Thị Hoài đã tìm cách chơi một trò bi-a láu lỉnh, tấn công vào những tổ
tiên đã chết để gián tiếp tỏ thái độ chính trị với một thể chế mà thị không dám
dương đầu, vừa ăn điểm chính trị ở Hoa Kỳ, vừa an toàn vì chủ yếu đánh vào
những người đã chết, chửi đổng, nói xấu sau lưng, xới tung lên những hận thù
quá khứ mà người ta đang muốn quên đi, để đầu cơ nó. Thị cố khoét sâu vào những
khía cạnh chính trị nhạy cảm để gây ấn tượng, đem mũi dao phi nhân tính của
mình cứa cho quá khứ toé máu tươi ra một lần nữa. Một cô đầm kệch cỡm, chẳng
phải Tây, chẳng phải Việt kiều, cũng chẳng dám gửi trứng vào dạ con của phụ nữ
Tây để đoạn tuyệt đến cùng với dòng máu Việt, một kẻ không phải người Việt mà
chui ở kẽ nẻ lên, một con điên lao theo ảo tưởng, luôn làm điều trái với đạo
lý, ăn phải quá nhiều cặn bã Tây, càng giả vờ suy tư, càng ra vẻ lý luận dẫn đủ
mọi chuyện đông tây kim cổ càng chứng tỏ là một kẻ điên đang bới trong đống rác
thải của nền văn minh nhân loại, nhặt nhạnh đủ mọi thứ, ngồi tỉ mẩn khâu lại
chằng chịt thành một cái quần thủng đít và đính cho nó một cái mác lý luận văn
hoá kiểu Phạm Thị Hoài, một kẻ như vậy không đủ tư cách làm người mà chỉ là một
con quỷ hình nhân, chỉ là một kẻ có tài chửi đổng và láu cá vặt, chỉ là kẻ bán
rẻ mầu cờ sắc áo vì sinh nhai một cách thảm hại, chỉ là đứa trẻ miệng còn hoi
sữa dám lạm bàn chuyện đại sự, nhưng thực ra cũng chỉ là một kẻ đáng tội
nghiệp.
Mất gốc, Thị Hoài cũng
đánh mất sứ mệnh cao cả của nhà văn và tịt luôn cảm hứng sáng tác, nhưng bản
chất háo danh khiến thị chớp cơ hội Việt Nam mở cửa đón nhận cuộc cách
mạng internet, lao vào làm chủ báo của trang mạng mang cái tên tù
mù ấm ớ chẳng ai thèm đọc là talawas.
Khi tờ báo này biến thành cái chợ hàng tôm hàng cá thì mụ Tú Bà rận chủ chuyên
nghề buôn phấn son dâm chủ này bỏ chạy, quay
sang viết báo. Vẫn bằng chất giọng
chua ngoa và quay quắt mùi thịt cầy hạng bình dân pha lẫn rượu đế rẻ tiền, bằng
thứ ngôn ngữ cường điệu cảm tính không kiêng cữ bất cứ điều gì, thị thường
xuyên hắt ra tất cả những lời lu loa phỉ báng, khinh miệt, giễu cợt, xúc xiểm
tất cả mọi đối tượng, kể cả những người từng dìu dắt thị vào giới cầm bút ở Hà
Nội và đỡ đầu tinh thần cho thị một thời. Thực ra thị chỉ tốt nghiệp chuyên
ngành văn khố, làm nhân viên lưu trữ văn thư ở Việt Nam một thời gian, vậy từ
nền tảng học vấn hạn hẹp đó, làm sao thị có thể hiểu được những vấn đề chính
trị, xã hội phức tạp để mà có thái độ đúng đắn? Vậy mà không chỉ nói sai, thị
còn cao giọng phản bác, xổ toẹt tất cả những gì là giá trị liên quan đến đất
nước, vào hùa với bọn người Việt bất lương ngồi sa-lông máy lạnh ở hải ngoại
ném đá tổ quốc mình. Hạng ăn cháo đá bát, bồi bút, văn nô, văn đĩ như Thị Hoài
thực ra chỉ là đống rác quên lãng của thời gian, nhưng nếu biết hối cải, trở về
trong vòng tay dân tộc, thị sẽ có cơ hội bồi đắp lại phần nào khả năng văn
chương đã mất mát của mình, lấy lại cảm tình của người đọc. Truyền thống khoan
dung, nhân hậu của dân tộc ta là không bao giờ đánh người chạy lại.
2001-2014
Báo Trẻ, số Xuân 2019
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét