Đường Tống truyền kỳ
Truyền kỳ là thể loại văn học
thịnh hành dưới thời Đường, kế thừa thể chí quái thời Lục triều, đồng thời là
nguồn gốc của thoại bản đời Tống và tiểu thuyết Minh Thanh sau đó.
“Đường Tống truyền kỳ” là
tác phẩm được Lỗ Tấn biên tập vào năm 1927 và do Bắc Tân thư cục ở Thượng Hải
xuất bản lần đầu tiên.
LỜI
TỰA
Hồ Ứng Lân xứ Đông Việt nhà
Minh là người tinh thông tứ bộ (1), ông từng nói: “Phàm chuyện biến ảo linh dị
vốn đã thịnh từ thời Lục triều (2), nhưng đa phần ghi chép tạp nhạp lời đồn thổi,
vị tất do tưởng tượng viết nên. Đến đời Đường, người ta mới có ý ưa chuộng điều
kỳ lạ, mượn tiểu thuyết để gửi gắm nơi ngòi bút. Như “Mao Dĩnh”, “Nam Kha” còn
coi được, chứ “Đông Dương dạ quái” kể về Thành Tự Hư và “Huyền quái lục” thuật
chuyện Nguyên Vô Hữu thì chỉ khiến độc giả được vui cười, vì văn phong tầm thường
không đáng để bàn tới. Truyện ký của người thời Tống phần lớn đều bám sát sự thật,
nhưng văn chương đó vẫn chưa đáng để xem”. Lời ông cũng có lý. No say thơ phú rồi
thì phải tìm kiếm món gì mới, những ý tưởng văn vẻ chợt băng ngang, thế là tiểu
thuyết có được buổi huy hoàng. Hậu hiền lại noi theo đường chính, đối đãi như đất
cát, duy có “Thái Bình quảng ký” là bao dung, nên mười phần mới còn tồn được một.
Song lại học thương nhân kiếm lợi, tô sức hoa mỹ, như “Thuyết hải”, như “Cổ kim
dật sử”, như “Ngũ triều tiểu thuyết”, như “Long uy bí thư”, như “Đường nhân
thuyết oái”, như “Nghệ uyển quấn hoa”, vì muốn tổng mục hoành tráng để huyễn hoặc
người xem, họ thường nhắm mắt chế ra tựa đề, còn đổi tên người soạn, làm cho
các truyện thời Tấn Đường phần lớn bị trổ mặt cắt mũi. Con kiến tiếc cái mũi,
khác đâu hương tượng, Mô Mẫu (3) che lấy mặt, há kém Mao Tường (4), tuy đó là
tiểu thuyết, luôn ở hàng thấp kém, không đáng xếp vào cửu lưu (5), nhưng đổi đầu
gọt chân như thế thì cũng hãi hùng thật.
Khi xưa tôi đã thấy ngán ngẩm
cho cảnh ấy nên quyết tâm cải chính. Trước là biên tập tiểu thuyết từ đời Hán đến
đời Tùy, làm thành năm bộ “Câu trầm” (6), rồi lại sưu tầm tác phẩm truyền kỳ thời
Đường Tống, tính soạn ra một quyển đáng tin hơn bản hiện giờ. Nhưng mấy lần gặp
khó khăn, không có thời gian chỉnh lý, chỉ đành vứt vào trong tráp cho mối gặm
mà thôi. Mùa hạ năm nay thất nghiệp (7), đang ở ẩn tại Nam Trung, tình cờ tôi
nhìn thấy “Trung Quốc đoản thiên tiểu thuyết tập” của anh Trịnh Chấn Đạc, sách
quét tan khói bụi, bỏ giả tìm chân, những gì bị che lấp bấy lâu bỗng chốc được
mang ra ánh sáng. Song tiếc thay “Dạ quái lục” vẫn đang để Vương Thù, “Linh ứng
truyện” chưa sửa tên Vu Thích (8), dường như còn quyến luyến cố cựu. Tiếp đến lại
đọc “Đăng khoa ký khảo” của Từ Tùng người Đại Hưng, ông học rộng biết nhiều, kê
cứu rất sâu sắc, nhưng chuyện Lý Trưng thi đỗ lại dẫn “Nhân hổ truyện” của Lý Cảnh
Lượng làm chứng. Đó là do người đời Minh đề bừa, thiên này không phải Cảnh Lượng
viết (9). Tuy chỉ là điểm nhỏ nhặt, song một khi đã chép sai thì tất gây hại
cho văn chương, cũng mang họa đến cho những ai khảo sử nữa. Chợt nhớ tới ý định
năm nào, tôi bèn mở tráp ra đọc kỹ, buồn chán lại tăng thêm, nhưng đâu vẫn còn
đó, bèn căn cứ theo thứ tự về niên đại mà xem qua một lượt. Thật vậy, “Cổ kính”
của Vương Độ vẫn còn sót dư âm của truyện chí quái buổi Lục triều, nhưng đã
tăng thêm phần hoa diễm. Còn “Dương xướng” của Thiên Lý và “Thượng Thanh” của
Liễu Đĩnh thì lại ủy mị quá, cứ như mấy vần thơ. Người đời Tống ưa khuyến thiện
trừng ác, chép sự thật mà câu nệ, khó tìm thấy chỗ sinh động bay bổng, xem như
mạch sống của truyền kỳ đến đây đã dứt rồi. Duy thời điểm giữa hai niên hiệu Đại
Lịch và Đại Trung, các tác giả xuất hiện nhiều như muôn hoa đua nở trên văn uyển,
Thẩm Ký Tế và Hứa Nghiêu Tá thì rạng danh đằng trước, Tưởng Phòng và Nguyên Chẩn
thì nổi bật phía sau, còn thế hệ Lý Công Tá, Bạch Hành Giản, Trần Hồng, Thẩm Á
Chi lại càng thêm trác tuyệt. Đặc biệt là thiên “Dạ quái”, rõ ràng nương theo
thuyết hư vô, đến nay đã quá quen thuộc rồi, nhưng dưới thời Đường thì quả thật
mới mẻ lắm, vậy mà Hồ quân lại tỏ ý chê bai, trộm nghĩ chưa thể tán đồng. Tự
tôi thẩm định, tuy những gì mình ghi chép chẳng có chi tuyệt diệu, song chỗ dụng
tâm ngày ấy xem ra cũng đáng quý. Lại nhớ tới mấy năm gần đây, số người tha thiết
với truyền kỳ Đường Tống quả thật không nhiều. Nay lấy giọt nước rót vào nguồn
học thuyết kia để hiến tặng đồng lưu, xem như góp chút sức mọn, giúp họ đỡ vất
vả khảo cứu, mang đến niềm vui khi thưởng thức trọn vẹn. Thế là đóng cửa bày
sách rồi hiệu đính duyệt lại, ngót một tháng mới xong, tổng cộng tám quyển, có
thể mang ra in ấn. Ý nguyện hoàn thành, biết là may mắn, nhưng vừa mới vui đã
thở dài, vì lưu luyến cố hương mà không sao về kịp, còn thời gian thì thoăn thoắt
tên bay, hỡi ôi, đó là sống hết mình ư, hay thực bất đắc dĩ vậy?
“Đường Tống truyền kỳ”, NXB Văn học (2018)
Tôi vẫn còn mấy điểm, xin đề
luôn vào bên trái như sau:
1. Nguồn tư liệu tôi dùng để
biên soạn sách này là “Văn uyển anh hoa” bản thời Minh; bản in “Thái Bình quảng
ký” của Hoàng Thịnh đời Thanh, hiệu đính bản của Hứa Tự Xương triều Minh; bản
“Tư trị thông giám khảo dị” thời Tống của Hàm Phân lâu; “Thanh tỏa cao nghị” của
Sĩ Lễ cư do Đổng Khang khắc bản, hiệu đính bản chép tay và bản khắc của Trương
Mộng Tích đời Minh; sách “Bách xuyên học hải” thời Tống được khắc vào đời Minh;
bản chép tay sách “Thuyết phu” thời Minh; “Văn phòng tiểu thuyết”, bản in của Cố
Nguyên Khánh nhà Minh; bản “Lâm lang bí thất tùng thư” của Hồ Đĩnh đời Thanh;…
2. Tập truyện này chỉ thu thập
những thiên đơn lẻ. Thiên nào đã có trong sách rồi, dù cho rất nổi tiếng hay
sách gốc đã mất thì tôi cũng đều không chọn, như “Hồng Tuyến” trong “Cam trạch
dao” của Viên Giao, “Đỗ Tử Xuân” trong “Tục Huyền quái lục” của Lý Phục Ngôn
(10), “Côn Lôn Nô” và “Nhiếp Ẩn Nương” trong “Truyền kỳ” của Bùi Hình,… Còn
“Phi Yên truyện” của Hoàng Phủ Mai tuy là dật văn của “Tam Thủy tiểu độc”,
nhưng “Thái Bình quảng ký” khi trích dẫn lại không nói rõ xuất xứ từ sách nào,
tựa hồ từng là truyện đơn lẻ, cho nên tôi vẫn chọn lấy.
3. Khi tuyển chọn đưa vào
sách, văn chương triều Đường thì châm chước, còn tác phẩm đời Tống phải lọc kỹ.
Phàm các tổng tập do người thời Minh Thanh soạn, nhiều chỗ họ nhắm mắt đề tên
tác giả, cứ phải thẩm định chỉnh sửa để truất bỏ sai lầm, tôi nào dám cả gan cắt
xén, chỉ vì muốn tìm kiếm sự thật đó thôi. Nhật Bản có thiên “Du tiên quật” do
Trương Văn Thành viết, vốn phải đặt sau “Bạch viên truyện”, nhưng vì anh Chương
Mâu Trần vừa in ấn phát hành, cho nên tôi cũng không chọn.
4. Văn chương trong tập truyện
này đôi lúc lại thấy ở sách khác, hoặc có nhiều dị bản, nếu đem đối chiếu thì
có thể hiệu đính cho nhau, mà câu chữ khác đi cũng là chuyện bình thường. Tôi
nghĩ không cần thiết phải chú rõ chữ này xuất xứ từ bản kia, vì sẽ rất rối rắm.
Độc giả nào muốn biết cho tường tận thì ở quyển mạt tôi có chép rõ nguồn, tự
mình kiểm chứng với sách gốc sẽ tìm được cứu cánh.
5. Trước giờ tôi hay đọc nhiều
loại sách, gặp quyển nào có liên quan đến truyền kỳ thời Đường Tống mà đủ để
tham khảo kiểm chứng thì đều ghi lại cho khỏi quên. Nay bởi bôn ba nên mất mát
khá nhiều. Sống ở xứ người đâu dễ tìm ra sách, chẳng sáng tác được gì hết. Nay
lại gom thành tập, kèm theo những gì mình vừa xem gần đây, bèn làm thêm một quyển
và đặt ở cuối cùng, nhằm lưu giữ kiến văn từ hồi xưa.
6. Các khúc gia đời Kim
Nguyên trở đi vẫn hay khai thác truyện truyền kỳ thời Đường, những trước tác
tôi đọc cũng có thể kể ra một hai tựa. Nhưng mảng từ khúc xưa nay tôi vốn chẳng
dụng tâm, lúc biên soạn sách ắt lắm chỗ nhầm lẫn, việc tinh nghiên bác khảo
đành phải nhường lại chuyên gia.
7. Số thiên và số quyển
trong sách này không nhiều, nhưng hoàn thành cũng không dễ. Trước nhờ chị Hứa
Quảng Bình (11) tuyển chọn, phần lớn rút từ bộ “Thái Bình quảng ký”. Song tài
liệu để kiểm chứng chỉ có mỗi bản Hoàng Thịnh nên tôi rất sợ sai lầm. Năm ngoái
nhờ bản của Hứa Tự Xương người Trường Châu do anh Ngụy Kiến Công hiệu đính cất
trong thư viện Đại học Bắc Kinh mà tôi mới hiểu tường tận. Nay gom góp tư liệu
lại, đặt làm quyển mạt, song bản thảo ban đầu rất sơ sài, còn nhiều điểm lẫn lộn,
anh Tưởng Kính Tam mang tới hơn chục loại sách, ra sức tìm kiếm và kiểm duyệt mới
được như bây giờ. Đến lượt anh Đào Nguyên Khánh thiết kế cho bìa sách, đó là
món quà anh từng tặng tôi hơn một năm trước đây. Nhờ công sức của nhiều người
mà sách đã hoàn thành, tôi chỉ biết chép vài lời nói suông để khắc ghi tình bằng
hữu.
Ngày
10 tháng 9 năm Trung Hoa Dân Quốc thứ 16, Lỗ Tấn hiệu đính xong và đề tựa
Lúc
này trời đã khuya, trăng tròn vằng vặc, muỗi đói vo ve, tôi ở Quảng Châu
CHÚ
THÍCH
(1) “Tứ bộ” tức kinh (sách của
thánh nhân), sử (lịch sử), tử (sách của hiền nhân), tập (thi từ).
(2) Lục triều là sáu triều đại
Đông Ngô, Đông Tấn, Lưu Tống, Tề, Lương, Trần đều đóng đô tại Kiến Khang (hay
còn gọi là Kim Lăng), tức Nam Kinh ngày nay.
(3) Mô Mẫu là phi tử của
Hoàng Đế. Sách “Lộ sử hậu kỷ” nói: “Thứ phi của Hoàng Đế là Mô Mẫu, dung mạo xấu
xí nhưng đức hạnh sâu dày”.
(4) Thiên “Tề vật luận”
trong “Nam Hoa kinh” của Trang Tử chép: “Mao Tường, Ly Cơ là những người đẹp giữa
nhân gian vậy”.
(5) Bách gia chư tử thời
Xuân Thu Chiến Quốc có mười lưu phái lớn, gọi là “thập lưu”, bao gồm Nho gia, Đạo
gia, Pháp gia, Mặc gia, Danh gia, Nông gia, Tạp gia, Âm Dương gia, Tung hoành
gia và Tiểu thuyết gia. Đến thời Đông Hán, thiên “Nghệ văn chí” trong sách “Hán
thư” của Ban Cố nói rằng: “Lưu phái Tiểu thuyết gia bắt nguồn từ đám bại quan,
thu góp lời nói ở đầu phố ngõ hẻm, lấy chuyện nghe ở dọc đường mà viết sách”,
ngụ ý chê Tiểu thuyết gia thấp kém. Do đó về sau Tiểu thuyết gia bị loại, chỉ
còn lại “cửu lưu” mà thôi. Chữ “tiểu thuyết” trong tiếng Hán xuất hiện đầu tiên
ở sách “Nam Hoa kinh”, thiên “Ngoại vật”: “Sức tiểu thuyết dĩ cán Huyện lệnh, kỳ
ư đại đạt diệc viễn hĩ” (tô sức tiểu thuyết để đi làm Huyện lệnh thì thông
đạt đạo lớn còn xa lắm). “Tiểu thuyết” ở đây chỉ những chuyện vụn vặt, tầm thường,
như Lỗ Tấn giải thích là “vào lỗ tai ra lỗ miệng”, không giống với cách hiểu
ngày nay. Sang thời Minh Thanh, thể loại tiểu thuyết chương hồi mới mang dáng dấp
của novel theo quan điểm hiện đại, nhưng vẫn bị coi là văn học hạng thấp.
(6) Tức bộ “Cổ tiểu thuyết
câu trầm” do Lỗ Tấn biên tập từ năm 1909 đến năm 1911.
(7) Ngày 21 tháng 4 năm
1927, Lỗ Tấn từ chức Chủ nhiệm Khoa Văn học kiêm Chủ nhiệm Giáo vụ của Đại học
Trung Sơn, về sống tại lầu Bạch Vân ở Quảng Châu.
(8) “Đông Dương dạ quái lục”
đề tác giả là Vương Thù, “Linh ứng truyện” đề tác giả là Vu Thích, đó là sai lầm
trong sách “Đường nhân thuyết oái”. Khi soạn “Trung Quốc đoản thiên tiểu thuyết
tập”, Trịnh Chấn Đạc vẫn theo sai lầm này.
(9) Sách “Thái Bình quảng
ký” trích truyện này từ “Tuyên thất chí” của Trương Độc, đề tựa là “Lý Trưng”.
“Cổ kim thuyết hải” đời Minh đổi tựa thành “Nhân hổ truyện” và viết sai tên tác
giả là Lý Cảnh Lượng, Từ Tùng cũng theo sai lầm đó.
(10) “Thái Bình quảng ký”
chép truyện “Đỗ Tử Xuân” và ghi xuất xứ từ “Tục Huyền quái lục” của Lý Phục
Ngôn, học giả Đài Loan Từ Chí Bình cũng khẳng định tác giả là Lý Phục Ngôn.
Nhưng Trần Ứng Tường đời Minh và các học giả Trung Quốc hiện đại như Vương Mộng
Âu, Trình Nghị Trung thì cho rằng truyện này xuất xứ từ “Huyền quái lục” của
Ngưu Tăng Nhụ.
(11) Hứa Quảng Bình (1898 –
1968) người Phiên Ngung, Quảng Đông, học Khoa Quốc văn ở Đại học Sư phạm nữ Bắc
Kinh, bà là bạn đời của Lỗ Tấn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét