Hồng Tuyến
紅線
Đời
Đường trong phủ quan Tiết Độ Sứ Lộ Châu là Tiết Tung, có người tỳ nữ tên là Hồng
Tuyến, gảy đàn Nguyễn rất hay, lại tinh thông kinh sử, vì thế nên được quan Tiết
Độ Sứ rất là tín cẩn, giao cho chưởng quản các loại văn bản tấu chương, xưng là
Nội Ký Thất.
Một
hôm, trong quân mở đại yến, Hồng Tuyến thưa với Tiết Tung rằng:
-
Tôi nghe tiếng trống đánh rất là bi ai, người đánh trống hẳn có tâm sự gì u uẩn!
Tiết
Tung cũng là người am hiểu âm nhạc, nên đáp :
- Ta
cũng thấy như vậy !
Bèn
cho gọi người đánh trống đến hỏi, thì người ấy thưa rằng:
-
Đêm qua vợ tôi qua đời, nhưng tôi không dám xin nghỉ !
Tiết
Tung nghe người ấy nói vậy, lập tức thả cho về quê.
Bấy
giờ là sau năm Chí Đức, đời Đường Túc Tông, các vùng Hà Đông và Hà Bắc chưa được
yên ổn, triều đình sai Phù Dương làm Tiết Độ Sứ trấn thủ vùng này, và lệnh cho
Tiết Tung giữ vững nơi ấy để khống chế vùng đất phía đông núi Thái Hàng Sơn.
Sau
khi hết loạn An Lộc Sơn, các cơ cấu quân chính mới được thiết lập, còn trong giai
đoạn phôi thai, triều đình ra lệnh cho Tung đem con gái gả cho con trai của Tiết
Độ Sứ Ngụy Bác là Điền Thừa Tự, còn con trai của Tung thì lấy con gái của Tiết
Độ Sứ Hoạt Châu là Lịnh Cô Chương.
Nhờ
vào mối thông gia như thế, các sứ gỉa của các Tiết Độ Sứ ba trấn thường qua lại
với nhau.
Nhưng
Điền Thừa Tự vì bị bịnh phổi, nên hay lo ngại. Mỗi khi gặp mùa nóng nhiệt nặng
nề hơn, Tự thường bảo :
- Ta
như được trấn nhậm vùng Sơn Đông, khí hậu mát mẻ, thì có thể sống thêm được ít
năm nữa !
Vì
thế, Tự cho chiêu mộ ba ngàn dũng sĩ trong quân đội, người nào võ nghệ và
đảm lựơc cũng gấp mười lần người thường, mệnh danh là "Ngoại Trạch
Nam". Tự lại đem ưu hậu bổng lộc để cung dưỡng họ, đêm ngày phòng vệ nơi
chỗ ở cuả Trạch, chờ ngày lành tháng tốt, sẽ cất quân sang xâm chiếm Lộ Châu.
Tiết
Tung nghe được tin ấy, ngày đêm trong bụng lo lắng không yên, miệng thường lẩm
bẩm nói một mình, mà không tìm ra biện pháp đối phó.
Một
tối, vào lúc sắp bắt đầu tiếng trống cầm canh, cửa viên môn trong quân trung đã
đóng kín, Tung chống gậy thong thả tản bộ một mình ở ngòai đình viện, bên cạnh
chỉ có người nữ tỳ Hồng Tuyến theo hầu.
Hồng
Tuyến nó thưa với Tung :
- Từ
một tháng nay con thấy chúa công ăn ngủ bất an, trong bụng hẳn có điều lo lắng,
chẳng hay đó có phải chuyện nơi biên ải không ?
Tung
đáp :
-Đây
là chuyện liên quan đến sự an nguy của đất nước, khanh không hiểu nổi đâu !
Hồng
Tuyến nói :
-
Thiếp tuy thuộc hạng thấp hèn ti tiện, nhưng có thể giúp chúa công giải trừ lo
lắng ưu phiền.
Tung
nghe Hồng Tuyến nói thế, lấy làm lạ, bèn đem việc Điền Thừa Tự chuẩn bị đánh
chiếm Lộ Châu kể hết cho nàng nghe, rồi tiếp :
- Ta
kế thừa công nghiệp của tổ phụ để laị, chịu ơn lớn của triều đình, một sớm một
chiều để mất cương thổ, huân nghiệp trăm năm như thế là tiêu tan hết.
Hồng
Tuyến nói :
- Việc
này không khó, chúa công khỏi nhọc lòng, tạm cho thiếp đến Ngụy Thành quan sát
tình hình và dò xét hư thực thế nào. Vào lúc canh một đêm nay thiếp xin lên đường,
thì canh hai sẽ trở về phúc mệnh. Ở nhà, xin chúa công chuẩn bị khoái mã và sứ
gỉa cùng soạn sẵn một phong thư ngoại giao, còn những việc khác, xin chờ thiếp
về tính sau.
Tung
nghe nàng nói, rất lấy làm kinh ngạc, hỏi :
-
Khanh quả không phải là như người thường, ta thật ngu muội hồ đồ. Nhưng nếu như
việc này không thành, chẳng hóa ra lại chuốc họa đến cho mau hay sao. Vậy nên
làm thế naò ?
Hồng
Tuyến đáp :
-
Thiếp đi chuyến này, mọi việc ắt phải thành công.
Rồi
nàng trở vaò khuê phòng, hóa trang để sang thành Ngụy Bác. Trên đầu, tóc nàng kết
búi như người Ô Man, cài bằng cây trâm Kim Tước. Mình mặc một chiếc aó ngắn mầu
tím. Chân đi hài tơ xanh. Trước bụng, đeo con chủy thủ có khắc long vằn. Ở giữa
trán, viết tên thần Thái Nhất, sau đó ra vái Tung hai vái từ biệt.
Chớp
mắt biến mất không thấy hình tích nàng đâu nữa.
Tung
cũng đóng cửa, vaò trong phòng, ngồi một mình lặng lẽ dứơi ánh đèn. Bình thường,
mỗi khi Tung uống rượu, chỉ một vài chén đã say rồi, nhưng tối hôm nay, Tung uống
luôn cả chục chén mà vẫn tỉnh táo.
Ngoài
cửa, chợt có tiếng tù và báo hiệu bình minh theo gió vọng vào, kèm với tiếng lá
rụng trong sương mai ngoài thềm.
Tung
kinh ngạc, đứng dậy. Chưa rõ chuyện gì, thì thấy Hồng Tuyến trở về.
Tung
mừng rỡ, an ủi hỏi nàng :
-
Sao, việc có xong không ?
Nàng
đáp :
-
Thiếp may mắn, đã không làm nhục mệnh của chúa công.
Lại
hỏi :
-
Khanh có phải hạ sát địch nhân không?
- Việc
đó không sẩy ra, nhưng thiếp có mang về đây chiếc hộp baú bằng vàng thường để đầu
giường cuả Điền Thừa Tự, để làm bằng chứng
Rồi
nàng thuật lại đầu đuôi công việc sang thám sát tình hình bên phía Điền Thừa Tự
cho Tung nghe.
Nguyên
sau khi từ giã Tung, thì khoảng gần giờ tý, Hồng Tuyến đến thành Ngụy Bác, rồi
vượt qua mấy lớp cửa, vào được chỗ ở của Điền Thừa Tự. Nàng nghe tiếng ngáy như
sấm của bọn " Ngọai Trạch Nam " từ trong trú phòng của họ vọng ra, rồi
tiếng bọn binh sĩ phòng vệ đi lại ở ngoài sân đình hô gọi nhau như truyền trong
gió.
Nàng
khẽ đẩy cửa bên trái tẩm thất, lẻn vào đến chỗ màn ngủ cuả Điền Thừa Tự.
Nàng
thấy Tự nằm trong màn, gác chân ngủ như chết. Đầu kê trên một chiếc gối làm bằng
da tê giác. Râu và tóc được bọc bằng một chiếc túi bằng tơ mầu vàng. Thanh Thất
Tinh Bảo Kiếm dấu bên cạnh gối đầu hơi ló ra chuôi ngoài. Cạnh đó là chiếc hộp
baú hở nắp. Nàng thấy trong hộp ghi tám chữ sinh thần của Tự và tên Bắc Đẩu
Thần. Những hương liệu quý, cùng những báu vật đẹp mắt phủ đầy tán lọan trên nắp
hộp. Cho thấy Điền Thừa Tự mong muốn lúc sinh tiền được tận hưởng mọi giầu
sang phú quý. Tự ngủ yên trong giấc mơ đẹp. Trong căn ngọa thất đầy hương thơm
như thế.
Bình
thường trong quân doanh, Tự tỏ ra uy thế lẫm liệt, không nể sợ ai. Nhưng
lúc này, Tự đâu biết rằng tính mệnh của mình đang nằm trong tay Hồng
Tuyến.
Còn
nàng cũng chẳng bận lòng đến việc thả, hay bắt Tự làm gì.
Bấy
giờ, dưới ánh đuốc mờ tỏ lập lòe, hương lư khói tạnh tro tàn. Bốn phía bố trí
thị nữ, vệ sĩ canh gác nghiêm mật. Giáo mác, binh đao la liệt. Tuy nhiên, cũng
có đứa dựa đầu vào bình phong mà ngáy, lại có đứa cầm phất trần vươn tay duỗi
chân mà ngủ.
Hồng
Tuyến bèn thaó lấy những chiếc khuyên tai của bọn thị nữ, còn aó, quần thì buộc
lại một túm. Nhưng bọn chúng đêù ngủ say mê mẹt, chẳng đứa nào hay biết gì. Sau
đó, nàng mới lấy đến chiếc hộp báu của Điền Thừa Tự, rồi theo lối tây môn ra khỏi
thành Ngụy Bác.
Đi
được gần hai trăm dậm, Hồng Tuyến nhìn lại, chỉ thấy đài Đồng Tước cao sừng sừng
nguy nga. Con sông Chương Hà cuồn cuộn đông lưu. Trên cây trăng tà lơ lửng. Thỉnh
thoảng đó đây văng vẳng tiếng gà gáy sáng.
Lúc
ra đi, Hồng Tuyến lòng đầy phẫn hận bao nhiêu, thì nay trở về lại tràn trề hân
hoan phấn khởi, khiến cho nàng nhất thời quên hết nỗi lao luỵ dọc đường . Nàng
nghĩ đến cái tình tri ngộ Tiết Tung mà muốn đáp đền muôn một.
Nay
thì tâm nguyện đã thành.
Hồng
Tuyến thuật đến đấy, bèn đổi giọng nói với Tung :
- Sở
dĩ giờ tý canh ba đêm qua, thiếp phải trở đi trở về bảy tám trăm dặm, tiến nhập
vaò nơi nguy hiểm, vượt qua năm sáu tòa thành, là chỉ mong sao chúa công được
giảm bớt ưu phiền, chứ thiếp nào có quản chi tân khổ !
Tung
nghe lời Hồng Tuyến, sai sứ giả cầm thư sang trao cho Điền Thừa Tự.
Trong
thư viết rằng :
“Tối
qua, tôi có người gia khách từ Ngụy Bác thành trở về, mang theo chiếc hộp báu của
nguyên soái thường vẫn để đầu giường, tôi không dám giữ lại, nay xin kính cẩn
phụng hoàn."
Sứ
giả cuả Tung phi ngựa như bay, chỉ nửa đêm đã sang đến thành Ngụy Bác. Bấy giờ
trong thành, khắp nơi đêù thấy người ta sưu tra để tìm chiếc hộp báu của Điền
Thùa Tự. Toàn thể binh lính đều tỏ vẻ lo lâu sợ haĩ.
Sứ
giả của Tiết Tung đến cưả Ngụy Thành, xin vào yết kiến Điền Thưà Tự ngay.
Tự vội
vã ra đón vào.
Lúc
sứ giả của Tung, dâng hộp báu trả laị cho Tự, Tự không cầm nổi sự kinh ngạc và
sợ haĩ, cơ hồ suýt té xuống đất. Sau đó, Tự mời sứ giả vào trong nội thất của
mình nghỉ ngơi. Lại mở đại yến thết đãi để mua chuộc tình cảm, tặng tống lễ vật
rất nhiều cho họ.
Ngày
hôm sau, Tự phái người của mình đem ba vạn tấm tơ lụa, vải vóc, và hai trăm con
ngựa tốt, cùng vô số những vật dụng quý báu trân kỳ khác, sang biếu cho Tung,
và thưa rằng :
"Đầu
tôi chưa rơi, mạng sống vẫn còn, đó là nhờ ơn riêng của tướng quân.
Tôi nguyện sửa đổi lỗi,, thay cách cư sử, không còn gây điều phiền nhiễu . Từ
nay, một lòng một dạ tuân theo sự chỉ huy khu xử cuả tướng quân, không còn dám
nhận là thân gia của tướng quân nữa. Xin tướng quân cho tôi được làm kẻ theo
sau ngựa hầu tướng quân, mỗi khi tướng quân xuất hành, hoặc làm kẻ cầm roi dẫn
ngựa, khi tướng quân hồi thành. Việc tôi nuôi dưỡng bọn dũng sĩ "Ngọai Trạch
Nam", vốn chỉ để đề phòng trộm cướp đạo tặc, thật không hề có dị chí mưu đồ
chuyện khác, nay cũng xin giải giáp và cho chúng hoàn hương cầy ruộng. "
Từ đấy,
Nam Bắc hai miền, cứ hai tháng một lần, lại phái sứ giả sang thông tin với
nhau.
Một
hôm, thình lình Hồng Tuyến đến từ biệt Tung để ra đi.
Tung
bảo với nàng :
-
Khanh sinh ra ở nhà ta, sống với ta, nay sao lại có ý đi đâu ? Vả, lúc này là
lúc ta cần nhờ đến khanh, lẽ naò lại bỏ ta mà đi ?
Hồng
Tuyến thưa :
- Kiếp
trước, thiếp vốn là nam tử, bôn tẩu giang hồ cầu học, đọc được sách Thần Nông
Dược Thư, chữa được bệnh tật cho đời. Thuở đó, có người đàn bà mang thai, thình
lình trong bụng bị ký sinh trùng, thiếp dùng Nguyên Hoa Tửu để trị, chẳng ngờ cả
mẹ lẫn hai con đều bị chết.
Vì tội
ấy, thiếp bị Diêm Vương ở dưới âm ty trách phạt, phải đầu thai làm con gái,
mang kiếp nô lệ tỳ tiện, khổ sở. May nhờ thác sinh vaò cửa chúa công, đến nay
cũng mười chín năm rồi. Ăn no mặc đẹp, lụa là mỹ vị phủ phê, thương yêu hết mực.
Vinh huy đến thế là cùng. Huống hồ, nay triều đình đã trung hưng, lập xong pháp
điển, bọn loạn thần ắt phải chu diệt hết. Việc thiếp sang Ngụy thành mới đây,
thiếp chỉ mong sao baó được đôi chút, ân dầy nghĩa cả của chúa công mà thôi.
Nay nam bắc hai xứ đã hòa hiếu, thành trì được baỏ toàn, vạn dân an cư lạc nghiệp,
tướng sĩ mong được cởi giáp buông đao. Thiếp thấy, thân phận nữ nhi như thiếp,
mà làm được việc ấy, cũng đủ xoá bỏ được tội kiếp truớc, chuộc lại nguyên bổn.
Nay đã đến lúc thiếp nên trốn bỏ cõi tục, tu hình luyện khí, tìm cõi trường
sinh bất tử.
Tung
nói :
- Nếu
khanh chẳng muốn lưu lại chốn bụi hồng này, thì ta xin tặng ngàn vàng làm phí
khoản xây dựng đạo quán để khanh làm chỗ ẩn cư tu trì !
Hồng
Tuyến đáp :
- Việc
tu trì là việc liên quan đến hậu kiếp sau này, làm sao thiếp có thể tính trước
được!
Tung
thấy không thể giữ nàng ở lại được, bèn mở dạ yến trong đại sảnh đường, mời tất
cả tân khách đến dự để tiễn nàng.
Tung
vừa uống rượu vừa ca.
Lại
mời người tân khách là Lãnh Triều Dương làm bài từ để ngâm :
Thái Lăng ca oán mộc lan
chu
采 菱 歌 怨 木 蘭 舟
Tống khách hồn tiêu bách
xích lâu,
送 客 魂 消 百 尺 樓
Hòan tự Lạc phi thừa vụ khứ
還 似 洛 妃 乘 霧 去
Bích thiên vô tế thuỷ
không lưu
碧 天 無 際 水 空 流
Tung
ca xong, không cầm được nỗi lòng bi lụy sướt mướt. Hồng Tuyến chắp tay vái
Tung, cũng hai hàng nước mắt đầm đìa, rồi giả rượu say rời tiệc đi ra.
Sau
đó chẳng ai biết nàng đi đâu.
Chú thích:
Tiết
Độ Sứ 節 度 使
Tên chức quan.
Vào thời kỳ đầu nhà Đường duyên theo chế
độ nhà Bắc Chu và nhà Tuỳ thiết lập chức Tổng Quản tại những vùng đất trọng yếu,
sau lại đôỉ là Đô Đốc, coi mọi việc quân sự cuả một số châu.
Sang đến đời Đường Duệ Tông mớí gọi là
Tiết Độ Sứ.
Đâù niên hiệu Thiên Bảo, nhà Đường lập ra
9 Tiết Độ Sứ ở ngoài duyên biên. Mỗi Tiết Độ Sứ lấy một số châu làm một trấn, tổng
lãm hết mọi quyền quân sự, dân chính, tài chánh, và quyền giám sát. Nhân
vì những viên quan này lúc nhậm chức được triều đình ban cho hai lá cò tinh 旌 và
hai cờ tiết 節 nên mới có danh xưng là Tiết Độ Sứ. Bên
dưới quyền Tiết Độ Sứ có các thuộc quan là Hành Quân Tư Mã, Phán Quan, Chưởng
Thư Ký, Thôi Quan. Mới đầu Tiết Độ Sứ chỉ thiết lập tại những nơi biên phòng và
những trấn trọng yếu. Sau loạn An Lộc Sơn, Tiết Độ Sứ được đặt ra quá nhiều, đến
nỗi cha truyền con nối, laị mang quá nhiều chức vị, có quyền tuyển bổ liêu thuộc,
xưng hùng xưng bá một phương, hình thành một cục diện phiên trấn cát cứ nghiêm
trọng cuôí thời kỳ nhà Đường.
Đến thời Ngũ Đại, việc thiết lập Tiết Độ
Sứ quá lạm dụng, và các Tiết Độ Sứ lại càng hoành hành ngang ngược hơn.
Đến thời nhà Tống, bãi bỏ các phiên trấn,
quyền hành trả về cho các châu, Tiết Độ Sứ chỉ còn là vinh hàm của các tương,
tướng và họ hàng nhà vua, hoặc kông đi nhậm chức, hoặc có đi cũng không có qưyền
hạn gì.
Đến các đời Liêu và Kim vẫn còn tồn tại.
Nhưng đến đời Nguyên thì phế bỏ.
Lộ
Châu 潞 州
Lộ Châu, tức Thượng Đảng Quận, tên một
châu đời Đường. Trị sở tại thành phố Trường Trị tỉnh Sơn Tây ngày nay.
Nội
Ký Thất 內 記 室
Cổ đại có chức Ký Thất. Nội Ký Thất như
ngày nay goị là Bí Thư riêng.
Đường
Túc Tông 唐 肅 宗
Đường Túc Tông là con thứ ba của Đường
Huyền Tông, mẹ họ Dương sinh năm 711, đến năm 756 tức vị. Đường Túc Tông ở ngôi
đươc 7 năm thì mất, có bốn niên hiêụ là Chí Đức (756-758), Càn Nguyên
(758-760), Thượng Nguyên (760-762) và Bảo Ứng (762)
Nguỵ
Bác 魏 博
Ngụy Bác là tên một phương trấn đời Đường,
một trong ba trấn của Hà Bắc lúc bấy giờ, được đặt ra để chủ yếu nhằm mục
đích để phủ dụ vỗ về tàn dư của An Lộc Sơn. Nguỵ Bác Tiết Độ Sứ cai trị Ngụy
Châu (nay thuộc thuộc huyện Đại Danh tỉnh Hà Bắc, thống hạt bao quát sáu
châu như Nguỵ Bác, Bối Châu, Vệ Châu.
Điền
Thưà Tự 田 承 字
Điền Thừa Tự (704-778) người Lư Long
Bình Châu (nay thuộc huyện Lư Long tỉnh Hà Bắc), nguyên là cưụ bộ hạ của
An Lộc Sơn. Trong cuộc loạn An Sử, Điền Thừa Tự thường đi tiền đạo. Sau khi loạn
bình, Điền Thừa Tự xin hàng triều đình, và từng được bổ nhiệm Tiết Độ Sứ các
châu Bốí Bác Thương, Doanh, sau chiếm cứ bẩy châu, trở thành một phiên trấn
cát cứ trọng yếu thời ký cuối của nhà Đường.
Tiết
Tung 薛 嵩
Tiết Tung là cháu của danh tướng Tiết
Nhân Quý nhà Đường, người Long Môn (nay thuộc Hà Tân tỉnh Sơn Tây), từng nhậm
các chức Tiết Độ Sứ, Hình Bộ Thượng Thư, Hữu Bộc Xạ, phong Bình Dương Quận
Vương.
Nguyễn 阮
Tức đàn Nguyễn. Tương truyền đàn này do
Nguyễn Hàm đời Tấn sáng chế ra, vì thế mang tên đàn Nguyễn. Hình trạng như đàn
nguyệt, chia ra ba lọai là Đại Nguyễn, Trung Nguyễn và Tiểu Nguyễn.
Ngoại
Trạch Nam 外 宅 男
Nghĩa tương đương như con nuôi.
Thái
Ất Thần. 太 乙 神
Tên một vị tôn thần của Đạo Giáo, cũng
còn gọi là Tháí Nhất, Bắc Cực Thần
Thất
Tinh Bảo Kiếm 七 星 寶 劍
Thất Tinh tức Bắc Đẩu Thất Tinh, Ngũ Tử
Tư người nước Ngô thời Xuân Thu, thường đeo bên người thanh bảo kiếm này.
Tý Dạ
Tam Khắc 子 夜 三 刻
Tý dạ, tức nửa đêm giờ tý, tương đương với
giờ bây giờ từ 23 giờ đêm đến đầu 1giờ sáng hôm sau. Khắc 刻,
cổ nhân dùng hồ lậu 漏 đựng nước, để đo giờ giấc, và trong
hồ có một mũi tên khắc một trăm số tương đương vơí 24 của một ngày, như vậy
một khắc bằn 14 phút 40 .
Đồng
Tước Đài 銅 雀 台
Đài
này do Taò Tháo cất vào năm 210 thời Tam Quốc ở tại huyện Lâm Chương tỉnh Hà Bắc,
gồm hơn một trăm gian, dùng làm chỗ cư ngụ cho các sủng phi của Tào Tháo. Và
thường lên đây yến ẩm, tiếp đãi tân khách, ngắm nhìn phong cảnh. Vì
trên nóc đài, có một con chim lớn bằng đồng, xòe hai cánh, và đuôi như cố
muốn bay lên trên không, vì thế mới thành tên là Đồng Tước.
Con
Tháo là Tào Thực có làm một bài phú là "Đăng Đài Phú", rất được người
đời truyền tụng.
Đỗ Mục
đời Đường có bài "Đồng Tước Đài Hòai Cổ", có câu nổi tiếng:
东 风 不 与 周 郎 便,
铜 雀 春 深 锁 二 乔
Đông phong bất dữ Chu Lang
tiện
Đồng Tước xuân thâm tỏa nhị
Kiều.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét