TƯỜNG VI KỶ ĐỘ HOA
bạch vân hoàn tự tán
不向東山久 ,
薔薇幾度花 ?
白雲還自散 ,
明月落誰家 ?
憶東山 – Lý Bạch
bất hướng đông sơn cửu,
tường vi kỷ độ hoa ?
bạch vân hoàn tự tán,
minh nguyệt lạc thùy gia ?
Từ lâu không về Đông sơn
Tường vi đã mấy lần hoa nở ?
Đám mây trắng hẳn còn giăng mắc
Ánh trăng rọi xuống nhà ai ?
(PVB dich)
薇 vi , bộ thảo (艸)
1. Rau vi.
2. Tử vi 紫薇 (mãn đường hồng 滿堂紅, bách nhật hồng 百日紅, hồng hoa cửu khung tử 紅花九芎仔 cây hoa tử vi, tục gọi là hoa bách nhật hồng 百日紅. Về nhà Đường 唐 trồng ở tỉnh Trung Thư. Sau gọi tỉnh Trung Thư là Tử Vi tỉnh 紫薇省. Nhà Minh 明 đổi làm ty Bố Chính, cho nên gọi Bố Chính ty 布政司 là Vi viên 薇垣.
3. Tường vi 薔薇. Xem chữ tường 薔 . 薔 sắc, tường [sc 蔷 bộ thảo (艸) 1. Cỏ sắc. 2. Một âm là tường . Tường vi 薔薇 một thứ cây mọc ven tường, xúm xít từng bụi, hoa cái đỏ, cái trắng, cái vàng.
Nguyễn Du 阮攸 :
Kế trình tại tam nguyệt,
Do cập tường vi hoa
計程在三月,
猶及薔薇花
(Hoàng Mai đạo trung 黃梅道中)
Tính đường đi, tháng ba về tới,
Còn kịp thấy hoa tường vi.
ỨC ĐÔNG SƠN
của Lý Bạch
Thu Tứ
Nguyên văn
Dịch nghĩa Mây trắng tan, như người họp rồi tan. Trăng sáng rụng đâu mất, như cảnh sum vầy đầm ấm... rụng đâu mất. Nhớ quá, Đông Sơn! |
Nguyên văn Ức Đông Sơn Bất hướng Ðông Sơn cửu Tường vi kỷ độ hoa Bạch vân hoàn tự tán Minh nguyệt lạc thùy gia. Dịch nghĩa Nhớ Ðông Sơn Lâu không trở về Ðông Sơn Không biết bụi tường vi đã nở hoa mấy lần Mây trắng lại tan rồi Không biết trăng sáng đã rơi xuống nhà ai. Dịch ra thơ lục bát Trần Trọng Kim: Ðông Sơn xa cách bao xuân, Tường vi đã trải mấy lần nở hoa. Mây kia bạc xóa tan ra, Vầng trăng khuất sáng, bóng sa nhà nào. Ngô Tất Tố: Non Đông xa cách bao xuân! Cây tường vi đã mấy lần nở hoa? Mây xưa hẳn vẫn bay xa? Trăng xưa biết rụng xuống nhà ai nao? Anh Nguyên: Đông Sơn chẳng đến đã lâu, Tường vi mấy độ khoe mầu sắc, hương? Những làn mây trắng còn vương? Nhà ai trăng sáng đầy vườn đêm nay?!... Thu Tứ: Đêm trăng ngồi nhớ nơi xa, Vườn xưa đã mấy mùa hoa thưa người... Kìa mây trắng lại tan rồi, Kìa trăng vằng vặc đã rơi phương nào... |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét