Thứ Năm, 20 tháng 6, 2019

Nguyên Ngọc : Hoà bình khó nhọc (Phần 2)


Hồi ký Nguyên Ngọc: Hoà bình khó nhọc (2)


Tố Hữu vừa bước vào phòng họp hội nghị đảng viên, liền nắm lấy chùm râu Nguyên Hồng hỏi:

– Râu thật hay giả?

Hay là ông ta vẫn chưa chịu quên được câu tuyên bố thẳng thắn ngang tàng của Nguyên Hồng mấy chục năm trước?

Hội nghị đảng viên họp ở 51 Trần Hưng Đạo, vẫn trong cái căn phòng lát gỗ lịch sử ấy. Phòng họp có một cái bục gỗ.

Tố Hữu bước tới bục, đứng một lúc, rồi bắt đầu nói. Câu đầu tiên:

– Cái bục này đối với tôi là hơi cao đấy. Đối với anh Nguyên Ngọc, chắc còn cao hơn.

Vậy là tôi hiểu rồi.

Ông nói khoảng ba giờ liền. Tôi không nhớ hết. Đại ý bản Đề dẫn bị phê phán kịch liệt. Nó chệch hướng. Nó có mùi vị tự do tư sản. Nó cổ vũ cho tư tưởng cá nhân tư sản.

– Nghe nói có người nhắc đến chuyện nhà văn tự sát bên Liên Xô. Ở đây, ai muốn, thử tự sát coi ?…

Ông nói về sự ưu việt của chủ nghĩa tập thể. Ông kể rằng ông vừa đi một chuyến Cao Bằng, đến một thôn xóm nào đó, xa lắm, gặp một anh giữ máy bơm nước hợp tác xã. Anh ấy văn hóa i tờ, kỹ thuật chẳng học hành gì, nhưng bao nhiêu năm nay cái máy vẫn chạy ngon lành. Đó là cái gì? Vì sao? Tập thể có thể làm nên những điều kỳ diệu như vậy đấy. Con người mới đâu? Đi đi, rồi sẽ thấy…


… Hội nghị lặng như tờ. Không biết ai đó ngồi phía sau tôi, thì thào:

– Phen này bỏ mẹ thằng Ngọc.

Tôi cũng im lặng. Về sau Nguyễn Khải bảo: lúc đó mình nhìn thằng bạn, thấy mặt nó cứ lầm lì. Cái thằng!


… Cuối buổi, tất nhiên tôi phải thay mặt anh em nói mấy lời. Tôi nói cảm ơn anh Tố Hữu về những ý kiến của anh, và chúng tôi sẽ nghiêm túc nghiên cứu.

Chế Lan Viên tiễn Tố Hữu ra cổng.

Nguyễn Trọng Oánh đèo xe đạp tôi về. Oánh bảo:

– Không thể chịu được cái chuyện anh máy nước hợp tác xã của ông Tố Hữu. Kỳ không thể chịu được!

Tối hôm đó, chúng tôi lại ngồi với nhau ở 4 Lý Nam Đế, trong phòng ngày xưa Nguyễn Thi thường nằm bò ra sàn, cái khăn ướt quấn chặt trên đầu, hì hục viết.

Có ba anh em: Nguyễn Khải, Giang Nam và tôi. Cũng lạ, chúng tôi vẫn bình tĩnh tính chuyện ngày mai. Chúng tôi vẫn tin rằng ý kiến của chúng tôi đúng, có thể có nhiều sơ hở, nhưng cơ bản là đúng, sơ hở thì điều chỉnh lại, chả sao.

Bất ngờ Chế Lan Viên đến. Hình như anh đi bộ từ 51 Trần Hưng Đạo lên tận đây. Ngồi một lúc, anh bảo:

– Khi chiều, mình đưa anh Tố Hữu ra cổng, anh ấy dặn: Nói thế thôi, chứ phải bảo vệ thằng Ngọc để nó làm việc.

Chúng tôi pha trà, mời anh uống. Uống xong chén nước, anh đứng dậy, nói:

– Thôi bây giờ thế này, để mình dẫn cậu Ngọc lên xin lỗi anh Tố Hữu. Đi với mình.

Nguyễn Khải, Giang Nam không nói gì.

Còn tôi, thực tình lúc đó tôi giận lắm.

– Cảm ơn anh – tôi nói – nhưng… một là, tôi thấy tôi chẳng có gì phải xin lỗi ông Tố Hữu. Hai nữa, tôi cũng là người lớn rồi, anh ạ, cần đi, tôi đi một mình cũng được. Cảm ơn anh.

Chế Lan Viên hằm hằm bỏ ra về.

Chúng tôi còn họp tiếp một ngày nữa. Cuối cùng, là người chủ trì hội nghị, tôi phát biểu kết luận. Tôi nói:

– Hội nghị chúng ta cơ bản nhất trí với bản Đề dẫn của Đảng đoàn…

Ra về, nhiều anh em bắt tay tôi. Người bảo:

– Được lắm!

Người bảo:

– Mày thật quá quắt. Chết, con ạ.

Cũng có người quay mặt đi.


*


Chúng tôi vẫn làm việc, nhưng công việc như cứ rã dần ra. Không khí nặng nề.

Có hôm Nguyễn Khải nói:

- Mình tưởng cậu có ông Chu Huy Mân, ông Võ Chí Công sau lưng cậu chứ. Hóa ra …

- Không, tôi chẳng có ai sau lưng cả. Tự mình chịu trách nhiệm.

Báo Văn Nghệ lại đăng cái bài “hiện thực phải đạo” của Hoàng Ngọc Hiến (6). Giang Nam, tổng biên tập, có đưa cho tôi xem trước, hỏi ý kiến. Tôi nói:

– Tôi thấy bài anh Hiến có ý hay, nhưng không chặt. Có chỗ anh phiến diện giải thích văn học trực tiếp từ cơ sở kinh tế – xã hội, theo tôi, không ổn. Nhưng đó là ý kiến riêng của tôi. Tôi đề nghị nguyên tắc làm việc thế này: Đảng đoàn không duyệt từng bài báo. Tổng biên tập có thể hỏi ý kiến, tham khảo, nhưng đăng hay không, tự anh phải quyết định.

Nhiều người bảo bài viết của anh Hiến là “đồng loã, bố trí hợp đồng” với bản Đề dẫn của tôi. Hoàn toàn không phải như vậy. Có lẽ hai chúng tôi gần nhau ở một số ý tưởng nào đó, thế thôi.

Tôi lại vụng về trong quan hệ với Nguyễn Khải. Có lần anh hỏi tôi:

– Hay là mình chuyển sang bên Hội, ra khỏi quân đội luôn.

Tình hình biên chế của cơ quan Hội đang rất gay go. Quỹ lương nặng quá. Người thừa nhiều. Tôi nói:

– Để tính đã, ông ạ. Biên chế còn căng quá.

Khải giận tôi. Ít lâu sau, anh chuyển hẳn vào Sài Gòn.

Trong Đảng đoàn, Chế Lan Viên là người công kích tôi dữ dội hơn cả. Anh ở Sài Gòn, lâu lâu mới ra Hà Nội, đi đây đi đó nắm tình hình, lên chỗ Tố Hữu thăm dò… Rồi đến kỳ họp, tấn công tôi ráo riết. Anh viết cả bài đánh tôi trên báo Văn Nghệ. Giang Nam hỏi tôi:

– Có đăng không?

Tôi nói:

– Tùy anh. Nhưng theo tôi, cứ đăng. Chẳng sao đâu.

Những ngày ấy, nhiều lúc tôi thấy cô đơn vô cùng. Đi làm về, mệt nhoài, căng thẳng, chẳng biết nói với ai.

Tôi cám ơn anh Tô Hoài. Anh vẫn làm việc với tôi, chia sẻ bao nhiêu việc linh tinh phức tạp hàng ngày. Anh làm việc chu đáo, tận tụy và nhẹ nhàng. Chỉ thường vắng mặt, ốm đau hay đi đâu đó, những khi có cuộc đấu đá căng.

Cũng có nhiều người khuyên tôi:

– Cậu nên gặp ông Tố Hữu một bữa. Gặp, nói đôi lời, lại đâu vào đấy cả thôi. Cậu tự ái lớn quá.

Tôi không đi. Vì thấy chẳng có gì để nói.

Từ ấy, mãi cho đến nay, tôi chỉ đến nhà Tố Hữu một lần. Ấy là lần Phan Tứ ốm nặng.

Phan Tứ ở Đà Nẵng, bị đau quằn quại kéo dài ở bụng suốt hàng mấy năm. Bệnh viện C Đà Nẵng chạy chữa đủ cách, không bớt. Lúc nghi tắc ống dẫn mật, lúc nghi gan, lúc bảo có thể có chuyện gì đó ở thận… Rất may bấy giờ có một hội nghị toàn quốc ngành y họp ở Đà Nẵng. Các anh ở bệnh viện C nhờ bác sĩ Đặng Văn Chung xem hộ. Đó là vị bác sĩ chẩn đoán giỏi số một ở nước ta. Nghe bảo ông không cần dùng đến cả tai nghe, chỉ sờ nắn qua ở bụng, nói ngay :

– Chỉ có thể là ở tuỵ. Ra Hà Nội ngay đi!

Tứ ra bệnh viện Việt Xô Hà Nội. Tôi vào gặp anh Điệng, phó chủ nhiệm khoa ngoại, là người quen cũ. Tôi bảo:

– Tứ là bạn tôi, tôi lại là người có trách nhiệm ở Hội, bệnh tình anh ấy thế nào, anh nói thực với tôi đi.

Điệng hỏi :

- Ông có quen ông nào thật to không?

- Cũng có thể.

- Vậy nhờ ông ấy nói hộ một tiếng với ông Tôn Thất Tùng bên Việt Đức sang xem cho một chút, có ý kiến, bọn mình làm sẽ chắc tay hơn.

Đêm ấy tôi đến nhà Tố Hữu, kể tình hình Phan Tứ, và nhờ ông nói hộ với bác sĩ Tôn Thất Tùng. Tố Hữu rất nhiệt tình.

– Cậu ngồi đây một lát, mình gọi điện thoại cho anh Tùng ngay.

Ông vào phòng trong, gọi điện, trở ra, bảo:

– Được rồi.

Sáng hôm sau, bác sĩ Tôn Thất Tùng bỏ một phiên họp Quốc hội, vào Việt Xô xem cho Phan Tứ. Về sau chính ông mổ và điều trị cho anh.

Chuyện là vậy.

Tôi gắng gượng hết sức làm mọi việc còn có thể làm ở Hội, những việc mà tôi tâm huyết: giúp củng cố và phát triển Trường Nguyễn Du, lo cho những anh em trẻ có triển vọng, lo tờ Văn học nước ngoài, củng cố báo Văn Nghệ (anh Nguyễn Văn Bổng lại trở về thay Giang Nam), làm trại sáng tác ở Huế, ở Vũng Tàu v.v…

Nhưng cái Đảng đoàn cứ rã dần ra. Nó rã từ bên trong. Đến triệu tập họp cũng không được: Chế Lan Viên, Anh Đức không thèm ra.

Cho đến trước Đại hội Nhà văn lần thứ III, lúc này do Hà Xuân Trường trực tiếp chỉ đạo, thì nó thực tế bị giải thể lặng lẽ; không hề có một quyết định nào của Ban bí thư là tổ chức đã quyết định lập ra nó.

Đại hội III họp tháng 9 năm 1983. Lần ấy Nguyễn Duy có đến phỏng vấn cụ Nguyễn Tuân. Cụ bảo:

– Mình đã dự mấy cái Đại hội nhưng chưa thấy Đại hội nào tợn như cái này.

Trong Đại hội tôi vẫn được bầu vào Ban chấp hành, nhưng không trực tiếp làm công tác gì ở Hội nữa. “Được giải phóng đi sáng tác.”

Lại bắt đầu một thời kỳ lêu lổng lang thang rất thú vị. Cái Đề dẫn đã làm khốn đốn tác giả của nó gây xao động một thời, đến nay tôi chẳng giữ được bản lưu nào trong tay (7). Bản cuối cùng, tôi gửi cho ông Lê Đức Thọ theo yêu cầu của ông, sau không thấy gửi trả lại.

Nguyên là đầu 1981, một hôm tôi đang họp Quốc hội thì được điện của văn phòng ông Lê Đức Thọ gọi: 8 giờ sáng mai đến gặp “anh Sáu” tại 6 Nguyễn Cảnh Chân.

Ông Trường Chinh, Chủ tịch Quốc hội, rất nghiêm. Ông tuyên bố:

– Đối với đại biểu Quốc hội thì trong khi Quốc hội đang họp, không có gì quan trọng hơn là họp Quốc hội.

Có bữa ông Lê Hiến Mai, bấy giờ là bộ trưởng thương binh xã hội, đến chỗ thư ký đoàn Quốc hội, nhờ tôi thưa hộ với Cụ một tiếng, xin nghỉ một buổi họp.

Cụ hỏi:

– Việc gì?

Tôi bịa ra một việc gì đó quan trọng lắm.

– Quan trọng hơn cả Quốc hội à?

Nhưng rồi Cụ cho phép.

Tôi xin phép nghỉ một buổi. Đúng 8 giờ sáng có mặt ở 6 Nguyễn Cảnh Chân. Anh Ngọc, thư ký riêng của Cụ ở đấy, bảo:

– Anh Sáu còn ăn sáng. Anh ngồi chờ một lúc.

Tôi ngồi chờ hai mươi phút. Trong hai mươi phút ấy, lần đầu tiên tôi được chứng kiến sự vận hành của cái guồng máy ở cấp tối cao. Tôi ngồi nghe anh Ngọc gọi điện thoại liên tục đến hơn chục nơi khác nhau, các Bộ của Nhà nước, các Ban của Đảng, các cơ quan và thủ trưởng cao nhất, nơi nào cũng nói nguyên một câu: “ Vấn đề các anh thỉnh thị hôm qua, ý kiến anh Sáu như sau…”.

Ra trong một đêm hôm qua, con người tôi sắp được gặp, “anh Sáu”, đã giải quyết và cho chỉ thị về hàng chục công việc hết sức khác nhau, toàn những việc trọng đại, liên quan đến vận mệnh quốc gia. Bộ óc ấy làm việc suốt đêm qua, bây giờ mệnh lệnh được ban ra qua cái điện thoại của người thư ký này.

Ngồi đó hai mươi phút, tôi có cảm giác được nghe tận tai, thấy tận mắt cái bánh xe vận mệnh đất nước đang quay, lịch sử đang đi, rõ ràng…

Ông Lê Đức Thọ hỏi tôi:

– Đầu đuôi thế nào, anh kể xem?

Tôi kể hết đầu đuôi. Nghe xong, ông bảo:

· Tiểu sử của anh, tôi có biết. Anh là người có kinh nghiệm, nhưng chủ yếu là kinh nghiệm chiến tranh, chiến trường. Bây giờ anh về lãnh đạo Hội Nhà văn. Ở đấy là một cái bụi gai, anh chưa kinh nghiệm gì, vấp là phải. Hôm nay tôi chỉ có thể nói với anh, tôi xác nhận ba điều: anh là người trung thực, anh có tâm huyết, và là người làm việc. Ba điều đó, có thể khẳng định. Còn chuyện quan điểm, tôi chưa đọc bản Đề dẫn, anh về gửi cho tôi một bản, tôi sẽ có ý kiến sau. Cũng phải còn trao đổi lại với anh Tố Hữu nữa.

Tôi về gặp Trà Giang, nghệ sĩ điện ảnh, bấy giờ cũng là đại biểu Quốc hội. Cô lo lắng:

– Thế nào anh?

Tôi bảo:

– Cơ bản là được. Nhưng còn một cái cơ bản hơn nữa, quan điểm, Cụ chưa có ý kiến.

Trà Giang cười:

– Đáng kiếp, ai bảo đi làm lãnh đạo.

Nguyễn Trọng Oánh ngày nào cũng đến tôi. Anh rất ít nói, chỉ hay thở dài. Vậy mà quyết liệt đáo để. Anh viết thư xin gặp ông Lê Đức Thọ. Khi được gặp, anh nói thẳng với ông:

– Nguyên Ngọc đúng. Tố Hữu sai.

Anh về bảo tôi:

– Mình nói vậy, mà không thấy ông Sáu phản ứng gì cả. Không biết đằng nào mà lần.

Riêng tôi, tôi biết những cuộc gặp gỡ ấy chẳng đi đến đâu. Tự do, kể cả tự do sáng tác, không phải là thứ có thể đi cầu xin. Cuộc sống còn phải vận động, theo những qui luật nhọc nhằn của nó.

Tôi biết công việc ở Hội lùng nhùng, chẳng ra sao, ngày càng rời rã. Nhưng tôi cũng biết, cũng tin Hội nhà văn không đồng nghĩa với nền văn học. Cái Hội chúng tôi có bệ rạc đến đâu, mặc, đời sống văn học vẫn đi theo con đường của nó, có thể càng thêm vất vả hơn, nhưng chẳng gì ngăn được.

Điều ấy đúng với cả từng nhà văn.


Nguyễn Khải bỏ vào Sài Gòn, anh không cùng tôi chèo chống tiếp những ngày sóng gió. Nhưng anh không trát bùn trên “mặt trận” chính của anh: sáng tác. Cha và con, và…khiến tôi hiểu và vẫn yêu Nguyễn Khải, dầu đôi khi, cô đơn quá, tôi cũng có giận anh ít nhiều.

Nguyễn Minh Châu chẳng nói chẳng rằng. Trong suốt cái cuộc cãi vã vụ Đề dẫn ấy anh hầu như hoàn toàn đứng ngoài. Đôi khi hơi cười mỉa. Nhưng chính trong những ngày ấy, anh vật vã tìm một con đường mới, trước hết cho chính anh, và như sau này ta sẽ thấy, cho cả chúng ta, cho bước chuyển khó nhọc mà quyết liệt của văn học.

Và bao nhiêu anh chị em trẻ, ở khắp nơi. Chưa rõ rệt có một cái gì, song đồng thời lại cũng rõ ràng không thể như trước nữa…

Tôi có một người quen, là một nhà phê bình trẻ rất uy tín ở Liên Xô, Evguéni Sidorov. Anh là giám đốc học viện văn học Gorki. Một nhà phê bình uyên bác, táo bạo và tinh tế, là người đã phát hiện Evtouchenko. Anh sang Hà Nội, hỏi thăm tôi, anh em bảo tôi đã vào Huế. Đến Huế hỏi, anh em bảo tôi vừa đi Sài Gòn. Vào Sài Gòn, anh em lại bảo tôi đi Cần Thơ rồi. Sidorov nhắn xuống Cần Thơ:

– Về ngay, muốn gặp một chút.

Tôi mượn xe của Văn nghệ Hậu Giang, chạy lên. Ôm hôn nhau ba lần, đúng kiểu Nga.

Sidorov ghé tai:

· Nghe nói cậu bị đi đày, phải không?

· Tầm bậy. Làm gì có. Mình đang đi du lịch.

Tối, chúng tôi ngồi uống cognac với nhau trên tầng cao nhất của khách sạn Độc Lập Sài Gòn.

Tôi hỏi:

– Ông thấy văn học chúng tôi thế nào?

Sidorov bỗng nghiêm trang, anh đặt cốc rượu xuống bàn:

· Các anh có một nền văn học, thật đấy. Không nói nịnh đâu. Nhưng nó… ở ngoài Hội nhà văn.

· Uống đi – tôi bảo – Đến đáy nhé… Nhưng mà này, hỏi thêm một câu: như vậy là tốt hay là không tốt ?

· Ông cật vấn tôi nhiều quá, chủ nhà thế là hơi bất lịch sự đấy.

Đêm ấy tôi uống hơi nhiều. Ngủ lại với Sidorov ở khách sạn Độc Lập. Gần sáng tỉnh dậy nhìn ra mặt sông Sài Gòn còn mờ sương, sau lớp cửa kính càng hư vô.

Sidorov hỏi:

- Sao dậy sớm thế?

- Mình đi đây.

- Đi đâu?

- Cần Thơ.

- Có người yêu dưới ấy à?

- Cũng có thể.

- Thằng quỷ, thế thì đi đi. Chào!


Những ngày ấy sao lạ thế. Tôi vừa như một kẻ thất nghiệp, thừa rỗi rãi, lang thang, vừa lại cứ nôn nóng thế nào ấy trong người, không yên. Chờ đợi một cái gì đó sẽ đến, nhất định phải đến chứ. Khó nhọc lắm, nhưng tất yếu, đáng chờ, đáng tin.

Tôi không bao giờ nghĩ bản Đề dẫn luộm thuộm nọ đã mở ra một cái gì cho văn học, cho người viết, gợi ý cho một sự bừng nở mới.

Có lẽ trái lại mới đúng, chính sự trăn trở âm thầm trong hàng trăm người cầm bút ngày ấy đã gợi ý cho nó. May ra thì ưu điểm chủ yếu của nó, nếu có, là nó đã ít nhiều đánh hơi được “ cái gì đó ”. Và lên tiếng báo hiệu.


*


(Đến tháng 5 năm 1987, báo Văn Nghệ của Hội Nhà văn thật sự đã chết. Báo đình bản liền ba số, vì ế quá, không còn tiền mua giấy và trả nhà in. Báo là kiểu “sự nghiệp có thu”, nghĩa là được nhà nước trả lương, nhưng còn mọi thứ khác phải lấy tiền bán báo mà làm. Đào Vũ, quyền Tổng biên tập, chủ trương giữ một cái marge (một cáỉ lề) an toàn tuyệt đối, anh tuyên bố “chỉ đá bóng giữa sân, tuyệt đối không ra biên”. Khi báo hết tiền, anh gửi một cái công văn lên Thường vụ Hội Nhà văn và Ban Văn hóa Văn nghệ Trung ương báo tin là báo phải đóng cửa và bỏ đi Sài Gòn. Văn nghệ dẫu sao cũng là tờ báo lớn trong cả nước, đột nhiên đình bản, dễ khiến dư luận trong ngoài nước thắc mắc nên “trên” rất lo, nhiều lần giục Thường vụ Hội Nhà văn tìm gấp Tổng biên tập mới. Thường vụ lúng túng. Một hôm Nguyễn Minh Châu hồi ấy cũng là ủy viên Ban Chấp hành hội, đến chơi ở 65 Nguyễn Du, nói với Nguyễn Đình Thi và Chính Hữu : “… Hay ta mời anh Ngọc về làm báo. Anh ấy từng làm báo trong cả hai cuộc chiến tranh…”. Gặp anh Trần Độ, Nguyễn Đình Thi và Chính Hữu báo lại ý kiến Nguyễn Minh Châu. Anh Độ bảo vậy các cậu về làm công văn đề nghị chính thức đi. Nhưng rồi hai anh về lại phân vân, chần chừ. Anh Độ cho người xuống giục. Cuối cùng mới có công văn chính thức của Thường vụ Hội. Tôi về làm Tổng biên tập Văn nghệ từ tháng 6-1987. Được đúng 1 năm 6 tháng. Đến cuối năm 1988 thì quan hệ giữa báo và Thường vụ Hội căng thẳng cao độ, bởi Thường vụ cũng chỉ muốn “đá bóng giữa sân”, giữ marge an toàn rộng, còn tôi thì quyết “đưa bóng ra biên”, đối mặt trực tiếp với đời sống phức tạp… Cuối cùng quan hệ đổ vỡ…

Tôi muốn dành một chương dài nói riêng về “vụ báo Văn nghệ”. Xin hẹn…) (8)


*


Đầu tháng 12-1988, lúc quan hệ giữa báo Văn Nghệ và Ban thư ký Hội nhà văn đã rất căng thẳng, những động tác cuối cùng đang được ráo riết tiến hành để cách chức Tổng biên tập báo (được gọi lịch sự là “thuyên chuyển công tác”), trong một cuộc họp giữa Ban biên tập chúng tôi và thường trực Ban thư ký, chị Ngọc Trai bấy giờ là phó tổng biên tập nói:

– Các anh nên chú ý: tờ báo bây giờ đang rất có uy tín, số lượng lên hàng chục vạn, nó có hàng triệu độc giả.

Chính Hữu, phó tổng thư ký trực, trả lời:

– Đừng vin vào số lượng. Một cô gái cởi truồng đứng ở ngã tư đường, cũng khối người xúm lại xem.

Hôm ấy trời rét, tôi đi giày da. Ở chiến trường những phen ác liệt, tôi vẫn được tiếng là người bình tĩnh, trong quan hệ hàng ngày cũng được xem là biết tự kìm chế. Nhưng lần này không nén được mình nữa, tôi đứng dậy, nện gót giầy đùng đùng xuống sàn gỗ của phòng bầu dục gác hai nhà 65 Nguyễn Du, chỉ mặt anh ta, mắng lại.

Nguyễn Đình Thi can:

– Anh Chính Hữu có lỡ lời, thôi anh Ngọc đừng giận quá.

Chính Hữu nói mấy lời xin lỗi gì đó.

Tôi ngồi xuống, cố kìm mình lại. Cuộc bàn bạc lại tiếp tục. Bàn cách sắp đặt cuộc ra đi của tôi như thế nào!

Riêng tôi, giận xong, lại buồn. Buồn nhiều hơn giận. Tôi biết Nguyễn Đinh Thi cũng nghĩ về tờ báo chẳng khác gì Chính Hữu, nhưng nhẹ nhàng khôn khéo hơn, anh can. Gần mười năm trước, vụ đổ vỡ Đảng đoàn Hội nhà văn, anh cũng từng làm vai trò ấy: người can gián, điều hòa. Còn Chính Hữu thật thà hơn, anh nói thẳng ý nghĩ anh ra.

Chính Hữu với tôi cũng có thể gọi là bạn quen đã rất lâu năm. Hồi 1956-57 đến 1962, cùng nhà 4 Lý Nam Đế, Chính Hữu ở phòng Văn nghệ, tôi ở tạp chí Văn nghệ Quân đội. Cái tập thể 4 Lý Nam Đế một thời trẻ trung, ấm áp, sống, làm việc, đùa nghịch vô tư. Chúng tôi từng đồng lõa với nhau làm bao nhiêu vụ yêu đương nghịch ngợm và man dại.

Ở chiến trường khoảng 1967-68 tôi viết thư cho anh Văn Phác bấy giờ cũng đã vào Nam Bộ : “Hết chiến tranh rồi, còn sống, thế nào cũng cùng trở về 4 Lý Nam Đế, anh nhé!” Tôi cũng hay viết thư ra Hà Nội cho Chính Hữu lúc này đã làm trưởng phòng Văn nghệ rồi Cục phó Cục Văn hóa Quân đội, nhắc những kỷ niệm xưa, và nhiều lần giục anh chi viện thêm lực lượng viết trẻ vào cho chúng tôi. Cũng đôi khi bực anh, chỉ yêu cầu có thế mà anh chần chừ quá, mãi 1971 mới gửi cho chúng tôi mỗi Nguyễn Trí Huân.

Sau 1975, trở ra Hà Nội, tôi gặp lại một Chính Hữu đã khác, chậm chạp, bệ vệ và công chức hơn. Đôi lần làm việc đã có vài va chạm nhỏ, tôi muốn nhanh, gọn, dứt khoát, anh do dự, cân nhắc, “nghiên cứu” mãi… Nhưng cũng chưa có gì rạn nứt. Cái quán tính của niềm hăng say trong chiến trường còn mạnh. Ngày tôi cưới vợ, cả nhà 4 Lý Nam Đế xúm lại lo cho. Chính Hữu đứng làm chủ hôn. Đám cưới rất buồn cười, mượn hội trường Ban Thống nhất trung ương ở Thuỵ Khuê, trên tường còn treo nguyên đầy đủ ảnh Mác, Ănghen, Lênin và cụ Hồ, chỉ cất đi mỗi ông Stalin…

Hình như cho đến vụ Đề dẫn thì mọi sự mới rõ rệt. Trên tạp chí Văn nghệ Quân đội lúc bấy giờ chỉ có hai bài phê phán kịch liệt Đề dẫn, cả hai đều do Chính Hữu viết.

Sau Đại hội Nhà văn lần thứ III, Chính Hữu được điều động từ quân đội ra làm Phó tổng thư ký trực của Hội (cùng ra với Hữu Mai) để chấn chỉnh cái Hội đã bị tôi làm hư hỏng.

Đến chuyện báo Văn nghệ thì Chính Hữu trở thành người cứng rắn nhất trong Ban Thường vụ. Tôi cũng là loại bướng, không khí ngày càng căng. Có lần anh gửi cho tôi bài phát biểu của Bondarev, kèm theo mấy chữ bảo báo nên đăng, anh cho đó là một bài thể hiện quan điểm đúng đắn. Tôi trả lời: nếu là chỉ thị của Ban Thường vụ phải đăng thì xin có công văn, chữ ký và đóng dấu rõ ràng. Mấy chữ viết thư tay, tôi sẽ coi như một lời khuyên, đăng hay không là quyền quyết định và trách nhiệm của tổng biên tập.

Các anh bảo tờ báo là tiếng nói của Ban Thường vụ. Tôi chủ trương: nó chịu trách nhiệm trước Ban thư ký, Ban chấp hành và trước pháp luật, nhưng nó là tiếng nói của cả nền văn học. Nó có tính độc lập tương đối của nó. Và chính tổng biên tập chịu trách nhiệm về cái phần tính độc lập tương đối đó. Báo Văn nghệ không phải là công báo của Hội nhà văn. Nếu không, cần có tổng biên tập làm gì?

Chính cuộc va chạm đó dẫn đến việc thường trực Ban thư ký gửi một “tờ trình” gay gắt lên Ban bí thư Trung ương Đảng tố cáo báo Văn nghệ đã thoát khỏi sự kiểm soát của Ban thư ký Hội nhà văn, đã lọt vào bàn tay điều khiển của Ban văn hóa văn nghệ, của anh Trần Độ. Ban thư ký tuyên bố không chịu trách nhiệm về tờ báo nữa. Dưới cái tờ trình nổi tiếng ấy, có chữ ký của ba người: Nguyễn Đình Thi, Chính Hữu, Nguyễn Khải.

Về việc này, có mấy chuyện buồn cười.

Anh Hoài Vũ là người làm việc rất lâu năm ở báo Văn nghệ, qua đến bốn, năm đời tổng biên tập, bảo:

– Thì xưa nay có bao giờ Ban thư ký “chỉ đạo” tờ báo đâu. Chẳng hề nói đến bao giờ. Sao bây giờ lại đòi chỉ đạo ráo riết thế!

Trong hội nghị Ban chấp hành tháng 9-1988, Nguyễn Đình Thi yêu cầu Ban chấp hành biểu quyết Ban chấp hành nhất trí tán thành nội dung Tờ trình đã gửi lên Ban bí thư từ tháng 6-1988.

Anh Nguyễn Văn Bổng không chịu. Anh bảo:

– Tôi có đồng ý cái tờ trình ấy đâu mà biểu quyết nhất trí!

Bàn cãi lung tung một lúc, Nguyễn Đình Thi lại nảy ra sáng kiến:

– Vậy đề nghị hội nghị biểu quyết tán thành rằng Ban thư ký có quyền gửi một tờ trình lên Ban bí thư Trung ương.

Ơ, tôi ngạc nhiên. Gửi một tờ trình thì ai mà chẳng có quyền. Tôi cũng giơ tay nè. Quay lại, thấy Nguyễn Khoa Điềm vẫn ngồi im, nhất định không chịu giơ tay. Điềm nói:

– Tôi cũng là uỷ viên Ban thư ký. Nếu là tờ trình của Ban thư ký thì chỉ cần Tổng thư ký hoặc một phó thay mặt Tổng thư ký ký. Đằng này có ba người ký. Vậy là thế nào? Vậy đấy không phải là một tờ trình của Ban thư ký. Đấy là một hành động có tính chất bè phái của ba người ấy.

Tôi phục lăn Nguyễn Khoa Điềm. Anh là người làm chính trị thật. Giỏi thế. Tôi vẫn chỉ là cái anh nghệ sĩ tùy tiện, lang thang.

Nguyễn Minh Châu, lúc này đã ốm nặng lắm, bảo tôi:

– Có cái tờ trình đó là để đi đến diệt tờ báo đấy. Cậu chuẩn bị tinh thần đi là vừa. Nhưng cứ phải giữ vững cho đến cùng, cho đến phút chót. Số cậu khổ đấy.

Châu nói đến cái số khổ của tôi. Anh không hề nói đến cái số của anh. Những ngày ấy, căn bệnh hiểm nghèo đã phá vỡ gần hết hồng huyết cầu của anh.

Cũng về chuyện cái tờ trình đó, đâu vào khoảng tháng 10-1988, một hôm ngồi với Nguyễn Khải ở 43 Đồng Khởi Sài Gòn, nói chuyện gần suốt buổi, Khải bảo tôi:

– Nhiều suy nghĩ của Ngọc, mình tán thành cả, Ngọc cũng biết rồi. Nhưng việc ông để cho tờ báo đi theo con đường ấy thì mình rất lo. Mình lo có những người, những lực lượng muốn dùng tờ báo, dùng cả cái Hội của ta, cho những mục đích chính trị riêng của họ. Rất nguy hiểm.

Tôi nói:

– Thôi được, những suy nghĩ, những mối lo của từng người trong chúng ta có thể khác nhau. Nhưng trong quan hệ bạn bè và quan hệ cùng làm việc với nhau, có một cái ranh giới không thể vượt qua được, nếu đã cùng tin nhau, cùng làm việc với nhau vì một ý hướng chung. Ông ký tên dưới cái tờ trình nọ là ông đã vượt qua cái ranh giới ấy rồi đấy. Như vậy là không được.

Khải không nói gì nữa.

Gần hai tháng sau, khi ở Hà Nội người ta đưa tôi đi khỏi báo Văn nghệ, đột ngột Nguyễn Khải từ Sài Gòn gửi ra một bức điện : “Tôi không đồng ý thay tổng biên tập báo Văn nghệ”.

Tất nhiên cái bức điện của vị phó Tổng thư ký Hội ấy có làm cho một số người ở Hà Nội khó chịu, nhưng nó chẳng có tác dụng gì. Có lẽ nó chỉ có một chút tác dụng nào đó đối với chính Khải thôi.

Tôi hiểu Khải, người bạn rất lâu năm của tôi, từ ngày “Ơ, cái thằng này nó biết đọc tiếng Tây chúng mày ơi!” (9). Tôi hiểu bi kịch của Khải. Có lẽ trong cái cuộc vừa qua, anh là người buồn và cô đơn nhất. Anh biết tất cả nhưng vừa biết vừa thường làm ngược lại cái biết rất sắc sảo của anh. Anh cô đơn với chung quanh nhưng chắc còn gay go hơn, buồn hơn, cô đơn với chính mình.

Có thời gian Nguyễn Khải hiểu lầm anh Trần Độ, nghi rằng anh Độ muốn loại Khải ra trong phương án dự kiến của anh. Nhưng tôi thì tôi biết rõ. Chính vào lúc quan hệ giữa Khải và tôi đang căng, lại thêm sự xúc xiểm của một số kẻ trung gian, anh Trần Độ nói với tôi: “Đừng nghĩ sai về Khải. Hãy đọc những cái Khải viết. Cậu ấy có thể nói, làm thế này thế khác, nhưng trong cái viết, Khải vẫn rất rõ ràng, mạnh mẽ. Đó mới là cái chính…”.

Gần đây, một hôm ở Sài Gòn, Khải hỏi tôi:

– Nghe nói sức khoẻ anh Độ yếu đi nhiều phải không?

Tôi nghe trong giọng anh một mối lo chân thành, một tình cảm quý trọng thật sự.

Con người như vậy đó. Chẳng đơn giản chút nào.

Chính Hữu chắc chắn khác hẳn Nguyễn Khải. Khải chưa bao giờ, không bao giờ là công chức. Anh vừa sống trong một guồng máy chính quyền, quân đội, nhẫn nhục chịu sự chi phối của guồng máy nặng nề ấy, trông anh lúc nào cũng buồn buồn, có chút gì đó như chán nản, lại vừa sống ngoài rìa bộ máy, thông minh và sắc sảo nhìn cái bộ máy ấy bằng đôi mắt mỉa mai, một sự mỉa mai pha lẫn bất lực. Anh chưa bao giờ là một nhà văn-chiến sĩ. không làm được và cũng không muốn nhận cái chức hiệu hùng hồn ấy; nhưng lại cũng không đủ sức làm một người tự do thật sự. Có lẽ chẳng phải ngẫu nhiên mà một quyển tiểu thuyết gần đây của anh mang cái tên vừa to tát vừa buồn: Một cõi nhân gian bé tí.

Nguyễn Minh Châu cũng có một quyển tiểu thuyết chưa kịp viết, định lấy tên là Cõi người. Châu muốn đắm mình, như một sinh linh bé nhỏ, trong cái đắm chìm khổ đau kiếp người. Khải cũng nhìn thấy và muốn nói về cái cõi ấy, nhưng anh không đủ sức, không dám thả hết mình vào đó như Châu. Anh vừa mỉa mai coi khinh cái guồng máy, vừa vẫn cứ bám vào nó mà sống, đôi lúc còn tham gia sự vận hành của nó nữa.

Khối mâu thuẫn ở Khải dường như cũng là khối mâu thuẫn của không ít trí thức ở ta bây giờ.

Chính Hữu thì không được đến vậy. Anh bị công chức hóa sâu hơn, liên tục hơn, dài hơn và đậm hơn nhiều. Tư thế công chức tận tụy và nghiêm túc giết đi gần hết cái phần nhà thơ từng có thể tài hoa, con người vốn từng lãng mạn trong anh. Anh cưỡng lại ngày một yếu ớt, và cuối cùng tự mình trở thành một bộ phận của cái thế lực bắt con người phải quy phục mà chính anh từng là nạn nhân của nó.

Đấy cũng là một thứ bi kịch, càng đáng buồn hơn.

Ở Chính Hữu tôi thường thấy cùng một lúc hai thái độ sống chừng như đối nghịch: anh không thích nhiễu sự, có phần an phận nữa là khác, nhưng lắm khi lại cũng rất dữ dằn, quyết liệt gây sự. Tôi tin rằng trong con người ấy cũng từng có sự giằng xé, nhưng sự giằng xé ngày càng yếu đi, mòn mỏi, đến gần như chẳng còn gì.

Những con người như vậy sẽ xa dần đời sống sinh động thực – không phải chỉ đời sống xã hội hỗn độn bên ngoài. Họ xa dần, mất liên lạc dần và đến mất hẳn, tắt hẳn mọi liên lạc với đời sống phức tạp và hạnh phúc, khát vọng và quằn quại bên trong con người.

Lời nói độc địa và hỗn xược của Chính Hữu coi công chúng thời ấy của báo Văn nghệ chỉ là đám người u mê xúm quanh “cô gái cởi truồng đứng giữa ngã tư đường” còn tờ báo thì chính là cô gái ô uế nọ, tôi tin rằng anh hoàn toàn nghĩ thật, nói thật. Anh không hề lỡ lời đâu. Tôi dận gót giầy đùng đùng xuống mặt sàn gỗ căn phòng gác hai 65 Nguyễn Du và hung hăng mắng lại anh, là một hành động nóng giận tức thời của tôi lúc ấy. Nhưng rồi sau đó tôi buồn nhiều hơn giận.

Không, anh không hiểu nổi cuộc chiến đấu của chúng tôi, của tôi. Nói thế này thì nghe kiêu căng quá, nhưng thật vậy: nó ở ngoài tầm với của anh. Biết làm sao?

Trong hội nghị Ban chấp hành Hội Nhà văn tháng 9-1988 họp nhờ ở hội trường nhà khách Trung ương Đoàn 15 Hồ Xuân Hương, tuyệt đại đa số Ban chấp hành kết tội kịch liệt báo Văn nghệ, thông qua một cái nghị quyết chấn chỉnh tờ báo “về mặt tổ chức”, tức là sẽ cách chức người phụ trách báo, anh Nông Quốc Chấn là người lên án báo dữ dội nhất. Đến giờ giải lao, ra hành lang, anh hỏi tôi:

– Tôi nói thế, anh có giận không?

Tôi cười:

– Chẳng chuyện gì mà giận. Chỉ có điều anh lạc hậu quá, theo tôi anh chậm mất khoảng mười năm đấy.

Về sau tôi kể lại với Nguyễn Khoa Điềm. Điềm bảo:

– Anh nói thế là còn ít quá đấy!

Quả thực cuộc đi tới gian nan và kịch liệt của xã hội, mà văn học như một mũi thăm dò tiên phong, đã chia rẽ chúng tôi quá xa. Có người bảo là bè phái. Tôi không thấy như vậy. Tôi thấy đấy là một sự chia rẽ sâu sắc. Cần gọi cho đúng cái tên của nó.


*


Trước Đại hội Nhà văn lần thứ III vài tháng, anh Đào Duy Tùng, là ủy viên Bộ Chính trị, đứng đầu phụ trách công tác tư tưởng, có mời tôi đến chơi. Chắc không phải “đến chơi”, bởi đến chơi thì mời về nhà riêng. Anh mời tôi đến chỗ làm việc của Ban bí thư Trung ương Đảng, đường Nguyễn Cảnh Chân. Vậy tức là “làm việc”.

Tôi biết sắp Đại hội Nhà văn rồi, các anh có lo lắng về tôi. Việc tôi đi khỏi báo Văn nghệ vậy mà ầm ĩ khá rộng và lâu, đến gần Đại hội lại càng rộ lên, căng hơn. Chắc chắn trong Đại hội – mà lần này là đại hội toàn thể – nhiều người sẽ đặt lại vấn đề tờ báo. Thậm chí có nguy cơ một số không ít anh chị em sẽ li khai khỏi Hội, nếu việc báo Văn nghệ không được giải quyết thỏa đáng. Và việc báo Văn nghệ thì trực tiếp liên quan đến tôi. Tôi bỗng nhiên trở thành một thứ điểm trung tâm chú ý của hai phía. Nhiều anh chị em muốn dựng tôi thành một thứ “ngọn cờ đấu tranh” (!). Cấp trên thì lo không biết thái độ của tôi trong Đại hội sẽ như thế nào?

Anh Đào Duy Tùng mời tôi đến hẳn là vì chuyện này thôi.

Kỳ thực sau vụ báo Văn nghệ tôi muốn đứng ra ngoài cuộc. Có buồn, bực bội ít lâu, nhưng rồi tâm trạng tôi lại thanh thản. Bởi vì tôi tin rằng tôi đã làm xong một công việc cần thiết và đúng lúc, do tình thế giao vào tay tôi một năm rưỡi ấy. Công việc đã làm ở báo có hay có dở, có đúng có sai, vụng về và lầm lẫn cũng có, nhưng tôi cho rằng về cơ bản tờ báo Văn nghệ đã làm tròn vai trò tất yếu của nó trong một bước đi tất yếu của xã hội và của văn học. Bước ấy đã xong, văn học sẽ tự nó đi tiếp bước khác, có thể còn phức tạp, gian nan, mệt mề hơn, nhưng không gì cản lại được nữa. Tôi tin. Hồi ấy, trên một tờ báo, tôi có nói: “Tôi là người lạc quan”.

Phần riêng tôi, tôi chỉ còn một lo lắng và đau khổ, lớn hơn nhiều: tôi vẫn chưa trở lại viết được!

Anh Lê Ngọc Trả từ Sài Gòn viết thư ra cho tôi:

“Ở trong này anh em vẫn nhắc đến anh và biết tin vui buồn về anh. Anh em thương anh nhiều. Riêng tôi, tôi nghĩ đợt này nếu anh có thì giờ tập trung viết một cái gì đó, chắc sẽ rất hay. Văn học là nỗi đau mà. Người đang đau như anh có nhiều điều để nói hay lắm. Huống chi ở anh vốn sẵn có chất trữ tình rất đậm và sâu của người vùng Trung Bộ. Chất trữ tình ấy không nên thơ bay bổng bằng như chất thơ xứ Bắc, nhưng nó hấp dẫn và cuốn hút lắm …”

Tôi gặp Lê Ngọc Trà lần đầu tiên là ở Maskova, sau khi đã đăng bài Văn học và chính trị của anh ít lâu. Lê Ngọc Trà đang bảo vệ luận án tiến sĩ. Đêm Maskova rét không thể tưởng, đâu đến âm 30 hay 35 độ. Chúng tôi dìu nhau đi lang thang trên các hè phố vắng ngắt và băng đóng trơn như mỡ. Chúng tôi nói với nhau về những triển vọng và khát khảo của văn học ta. Tôi đề nghị Lê Ngọc Trà sau bài Văn học và chính trị rồi, bây giờ chuyển viết tiếp cho chúng tôi vấn đề Văn học và hiện thực. Trà bảo:

– Anh suy nghĩ vậy là đúng rồi. Tôi cũng đang nghĩ vấn đề ấy. Phải lần lượt cố gắng giải quyết một số vấn đề cơ bản anh ạ.

Trà hỏi:

– Tình hình ở nhà, sau nghị quyết 05 của Bộ chính trị, như thế nào?

Tôi nói:

– Cái nghị quyết ấy thật hay, nhưng có phần hơi sớm hơn tình hình chung. Cơ sở xã hội cho một nghị quyết như vậy ở ta chưa có đủ. Cho nên tôi chắc sắp tới nó (cái nghị quyết ấy) sẽ rất vất vả, thậm chí có thể bị đẩy lùi. Nhưng dầu sao cũng đã cắm được một cái mốc mới. Quan trọng lắm…

Hơn tháng sau, trở về Hà Nội, tôi nhận được bài Văn học và hiện thực của Lê Ngọc Trà. Đó là một trong những bài lý luận văn học cơ bản nhất trên mặt báo, suốt thời gian tôi làm Văn nghệ.

… Lê Ngọc Trà bảo là tôi “đang đau”. Tôi rất hiểu anh: anh hoàn toàn không muốn nói là tôi đau vì tôi mất chức, cũng không phải là nỗi đau của một phen trả giá. Cứ cho là nỗi đau đi thì đấy là do tôi hiểu đời và hiểu người hơn, hay chính xác hơn, tôi hiểu chính tôi hơn. Cuộc vật lộn vừa qua rốt cuộc, lạ thế, lại đưa tôi đến chỗ đối diện với chính mình. Với cả cuộc đời mình.

Tôi hiểu ra rằng đất nước, dân tộc này đang đối diện với chính mình. Văn học đang đối diện với chính mình. Từng người cũng vậy. Tôi cũng vậy.

Đối diện, và cố tự tìm hiểu chính mình, cuộc đời mình, toàn bộ hành trình và hành trang của chính mình. Một sự cố gắng vào loại khó khăn nhất, ráo riết và đau đớn nhất. Đòi hỏi dũng cảm lớn nhất.

Tôi lại muốn đi lang thang. Hình như trong khi đi lang thang, dễ suy nghĩ hơn…

Cho nên, thật tình tôi cho rằng sự lo lắng của các anh, của anh Tùng về cái “thái độ” của tôi ở Đại hội nhà văn sắp tới là lạc lõng và nhỏ nhặt quá. Tôi chẳng quan tâm gì lắm đến chuyện ấy. Có quan trọng gì lắm đâu cái Đại hội, cả cái Hội ấy nữa, mà các anh lo đến sốt vó thế!…

Quả nhiên anh Tùng hỏi tôi dự kiến Đại hội sẽ thế nào? Theo tôi nên thế nào?

Tôi nói thẳng với anh:

– Tôi chẳng có ý kiến gì. Bởi vì, theo tôi, Đại hội lẫn cả cái Hội nữa chẳng quyết định gì đối với văn học đâu. Có một cái Hội nhà văn tốt hay không tốt thì về cơ bản cũng chẳng làm sao đối với văn học cả. Các anh quá lo, là lầm. Khó nhất đối với nhà văn là việc anh ta ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với cái “pháp trường trắng” của anh, như Nguyễn Tuân nói. Đối mặt với nó, chỉ độc có mỗi mình anh. Chẳng ai, chẳng thế lực, chẳng hội hè nào giúp được anh chút gì trong cuộc đối mặt cô đơn và khủng khiếp đó. Bởi đó là cuộc đối mặt của anh với chính anh. Bản chất của công việc sáng tác là vậy. Chỉ mong đừng có ai làm phiền nhiễu thêm họ khi họ ngồi trước trang giấy, trước chính họ, trong cuộc đối chất đau đớn, khắc nghiệt đó. Hội hè tuyệt nhiên chẳng hỗ trợ gì cho họ lúc ấy đâu. Hỗ trợ cho họ lúc ấy, anh ạ – tôi nói – xin anh đừng ngạc nhiên, có khi chẳng hạn lại là sự có mặt của một người đàn bà mà họ yêu say đắm, vô lý và tuyệt vọng… Tôi xin lỗi anh, không biết anh có hiểu không?

Thế đấy, vậy việc gì các anh phải quá lo lắng thế. Tôi e các anh nhầm. Vấn đề là ở chỗ khác kia.

· Ở chỗ nào? – Anh Tùng hỏi.

· Ở chính người sáng tác.

· …?

– Anh đã mời tôi đến, anh đã hỏi, thôi hôm nay tôi sẽ xin nói. Tôi sẽ nói về một vấn đề có thể anh cho là lạc đề nhưng tôi lại nghĩ là quan trọng hơn nhiều.

Tôi sẽ nói về giới trí thức, giới “sĩ phu” ở nước ta, mà cũng chỉ xin nói riêng trong văn nghệ. Tôi muốn đề nghị Đảng nhìn lại tận gốc vấn đề này, bởi đây mới là vấn đề gốc.

Hãy lấy ví dụ như nước Nga, mà ta từng rất gần. Trước Cách mạng tháng 10, nước Nga, dầu là nước Nga phong kiến, đã là một quốc gia độc lập lâu đời. Họ có một giới sĩ phu đàng hoàng, cao lớn, độc lập. Những nhân cách đại thụ, đại biểu cho cả dân tộc, cho cả nền văn minh không chỉ của nước Nga. Những Tolstoi và Dostoievski, những Nekrassov và Tourgueniev, những Ghersen và Dobrolioubov, những Leskov và Garchin. Chính vì có truyền thống lớn đó, mà sau Cách mạng, cả trong những năm đen tối nhất dưới chế độ Stalin, họ vẫn còn những tài năng và nhân cách sừng sững, có thể bị giết chết chứ không thể bị bẻ gục: những Bounin và Pilniak, những Mandelstam và Tvardovski, những Soljenitsyn và Pasternak, những Tsetaieva và Akhmatova, những Boulgakov và Eisenstein… Họ vẫn còn một nền văn học và nghệ thuật lớn…

Giới trí thức văn học nghệ thuật ở ta trước Cách mạng tháng Tám có một chỗ mạnh và rất quan trọng: lòng yêu nước nồng nàn. Và cuộc cách mạng của chúng ta suốt mấy chục năm qua chủ yếu là cuộc cách mạng cứu nước, giải phóng dân tộc. Hãy nhớ lại xem: hầu hết lớp văn nghệ sĩ ta thường gọi là tiền chiến, những người tên tuổi và tài năng nhất đều đi theo cách mạng và kháng chiến. Chúng ta chỉ mất đôi ba người. Chẳng hạn trong hội hoạ, người tài năng nhất, Nguyễn Gia Trí, không đi với kháng chiến. Nhưng ông cũng không theo giặc. Ông vào Sài Gòn, cặm cụi vẽ, rồi sang Paris, vẫn cặm cụi vẽ. Trong âm nhạc, có lẽ chúng ta mất một tài năng đáng tiếc: Phạm Duy… Nhưng cũng chỉ đôi ba người, đếm được trên đầu ngón tay, vậy thôi. Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng, Xuân Diệu, Tô Hoài, Chế Lan Viên, Nam Cao, Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn, Bùi Xuân Phái, Văn Cao… đều đi với Cách mạng, cho đến tận ngày nay. Thật quí, không dễ gì được thế.

Nhưng đồng thời, tôi mạnh dạn nghĩ và hôm nay nói rõ với anh, về cơ bản lớp trí thức văn nghệ tiền chiến ở ta cũng chỉ là lớp trí thức nhỏ bé của một nước thuộc địa nhỏ bé. Một trong những nét tính cách bẩm sinh ở họ là sự ươn hèn. Một lớp sĩ phu ươn hèn. Những Phan Bội Châu, những Phan Châu Trinh đã hết.

Trong giới chúng tôi có một người cầm bút lão thành vẫn được tiếng là người cương trực nhất. Tôi kính trọng ông. Đám tang ông, tôi đã làm rất to trên tờ báo của tôi. Nhưng tôi cũng biết cái cương trực của ông, nói cho cùng, cũng chỉ là cương trực… vặt. Người ta dại dột đi sơn cái Tháp Rùa, ông chửi vung lên. Xây nhà cao tầng nhiều quanh Hồ Gươm, ông cũng lại chửi om lên, bảo là biến cái hồ đẹp thế thành cái giếng mất… Vậy đó thôi. Chứ những chuyện đại sự quốc gia, đã bao giờ thấy ông dám có tiếng nói lớn, độc lập. Boulgakov có thể ngửa tay xin Stalin một chân kéo màn rạp hát để kiếm sống, nhưng nhà văn cổ điển của thời đại văn học xô-viết ấy, trong quan điểm và sáng tác của mình, đến chết không hề chịu lùi một li. Pasternak khi bị cả Hội nhà văn Liên Xô la ó đuổi ra khỏi Hội vì cái giải Nobel trao cho ông, đã viết mấy chữ gửi Hội nhà văn : “Tôi hiểu hoàn cảnh buộc các bạn phải làm việc này, tôi tha thứ cho tất cả các bạn”.

Còn ông già tài hoa và cương trực của chúng tôi, ông biết ông vừa bị chế độ nghi ngờ, khinh rẻ, lại vừa được chế độ vì nể, ông bèn “làm nũng” với chế độ, thỉnh thoảng lại làm mình làm mẩy đôi chút. Thế thôi. Ít lâu trước khi mất, ông tâm sự buồn rầu và chua chát: “Mình còn sống được đến ngay nay là vì mình biết… sợ”.

Trong mỗi vị “sĩ phu” ấy của chúng ta đều có một viên công chức nhỏ bé của Tchekhov…

Cái chất viên chức nhỏ bé Tchekhov bẩm sinh đó, từ sau Cách mạng lại bị một loạt cuộc vùi dập thô bạo liên tục: cải cách ruộng đất, chỉnh huấn, cải tạo này rồi đến cải tạo khác, tư tưởng văn nghệ Diên An, các vụ án văn nghệ liên tiếp… càng làm cho nhỏ bé thêm đi, co lại, gập xuống…

Chúng ta không có một lớp trí thức tiền chiến lớn – đó là điều cần nhìn thẳng và suy nghĩ.

Đến thế hệ chúng tôi, dầu muốn dầu không, chúng tôi cũng kế thừa họ. Cả chất ươn hèn lẫn sự khôn ngoan vặt của họ. Chúng tôi vừa coi thường họ vì chúng tôi biết nhân cách của họ cũng chỉ lằng nhằng thế thôi, lại vừa học bài học đau đời của họ: phải biết sợ để mà sống.

Sự kế thừa ấy còn kéo dài đến cả thế hệ sau chúng tôi, trong tình thế bây giờ lại còn pha thêm những tạp chất cơ hội và lưu manh; tất nhiên không phải ở tất cả, nhưng đại thể là như vậy.

Các anh thường hỏi: tại sao chúng ta chưa có tác phẩm lớn ? Tôi xin trả lời: vì chúng ta chưa có những nhân cách lớn.

Đổi mới trong xã hội và trong văn nghệ mấy năm qua đã đem lại những gì? Có tác phẩm khá hơn, có đời sống văn học nghệ thuật phong phú sinh động hơn. Nhưng nói thật cũng chưa có gì ghê gớm đặc sắc lắm đâu. Và cũng không phải là cái quan trọng nhất.

Thành quả quan trọng nhất vừa qua, theo tôi, là sự bắt đầu nhận ra, bắt đầu ý thức và khôi phục cái vị thế, cái tư cách đàng hoàng, độc lập, tự do, trách nhiệm của người cầm bút, ở trong chính người cầm bút, trước đất nước, nhân dân và Đảng của mình.

Đó là sự giải phóng bên trong của người nghệ sĩ, tự do bên trong thật sự của người cầm bút. Theo tôi, cái ấy đã bắt đầu, đã bắt đầu có. Và sự thức tỉnh đó là quyết định, tức là không thể đảo ngược được, dầu còn rất nhiều đau đớn và trả giá.

Nếu phải nói một điều gì đó về Đại hội nhà văn sắp tới thì tôi xin nói: tôi tin Đại hội sẽ diễn ra theo hướng đó. Và như vậy là đáng mừng, cho Đảng, cho đất nước, cho văn học.

Nhưng hình như các anh lại lo lắng về chính cái điều tôi cho là đáng mừng đó, các anh vội tìm cách ngăn lại. 

Có lẽ cũng ít chế độ nào nâng niu chăm sóc bao cấp cho văn nghệ sĩ bằng chế độ ta. Nhưng đó là kiểu nuôi nấng o bế một đám con hát, một đám cung văn. Chúng tôi không cần cái ấy, chúng tôi chiến đấu cho một tư thế độc lập, tự do đàng hoàng và đầy trách nhiệm của nhà văn trước đất nước …

Anh Tùng lắng nghe, không cắt lời tôi. Cuối cùng anh bảo:

– Vấn đề anh nêu ra là đáng suy nghĩ, có chỗ tôi đồng ý, cũng có chỗ chưa đồng ý. Lần khác ta sẽ trao đổi tiếp.

Trước khi ra về, tôi nói:

– Tôi không còn làm báo Văn nghệ nữa. Nếu còn làm thì dự định của tôi là sau mảng đề tài nông thôn, tôi sẽ triển khai tiếp vấn đề quan trọng hơn là vấn đề trí thức …

Không thấy anh nói gì.

Cũng không thấy anh mời tôi đến chơi nữa.


*


Những điều tôi nói với anh Đào Duy Tùng hôm đó thật sự là những điều tâm huyết của tôi suốt thời gian tôi “nắm” tờ báo Văn nghệ. Khi không ở báo nữa, đó vẫn là tâm huyết của tôi trong mọi việc tôi còn có thể làm chút gì đó cho văn học. Và cũng là, trước hết, tự làm cho chính tôi. Tự giải phóng mình.

Trong mỗi chúng ta, đều có một kẻ nô lệ. Lạ thay cái chế độ của chúng ta, cái chế độ khát khao hơn bất cứ thời đại nào trước giải phóng cho đất nước, cho con người… cuối cùng lại đi đến vùi dập, bóp nghẹt con người. Lại làm đậm thêm cái chất nô lệ trong con người.

Tôi biết, tôn tin rằng những người cầm bút, đặc biệt những cây bút trẻ, đã ý thức ngày càng rõ điều ấy, và quyết phá vỡ ra. Mỗi người một cách, ở những mức độ khác nhau.

Nguyễn Khải rụt rè nói về “cái thời lãng mạn ấy”. Tính anh vốn thế, chẳng quyết liệt bao giờ. Nhưng tôi nhận ra, đằng sau cái rụt rè còn mong manh ấy một cái cười chua chát tự chế riễu mình. Được chừng ấy cũng đã là quý lắm rồi.

Nguyễn Minh Châu lầm lì nhưng liều lĩnh, tuyên bố Ai điếu cho một thời văn nghệ minh hoạ. Bài đưa ra tòa soạn, nhiều anh em rất ngại, nhưng tôi cứ quyết định đăng. Bởi tôi biết Nguyễn Minh Châu cố một trận quyết rứt mình ra để đi tới, chuyển sang một trận khác. Tôi cảm phục anh và biết tiếng nói của anh sẽ giúp thêm nghị lực cho bao nhiêu người còn chần chừ.

Dương Thu Hương vừa đằm thắm – ít ai viết được về người mẹ quê Việt chúng ta đậm sâu như chị trong Những thiên đường mù– lại vừa đáo để, đến cả hỗn xược – cũng trong chính Những thiên đường mù.

Phạm Thị Hoài táo tợn muốn tháo bỏ tất cả mọi ràng buộc, cho đến cả những khu vực có tính bản năng của con người. Cây bút nữ ấy chẳng chút xấu hổ muốn lột trần trụi con người ra trước chính nó. Tôi biết nhiều lúc chị hơi quá thông minh và điệu đà. Nhưng tôi ủng hộ chị. Cũng là một cửa mở cho sự giải phóng.

Nguyễn Huy Thiệp thì đã hoàn toàn khác. Mọi giá trị từng được thờ cúng với anh đều trở thành trần tục hết. Anh không ngại đến cả thô lỗ và tục tĩu khi lạnh lùng phanh phui sự thật. Con dao mổ ấy quá sắc, quá lạnh, nhiều khi đến chối. Nhưng để bắt đầu lại, làm lại một thế giới người cho ra người khác, tránh sao được những cuộc phá vỡ có khi tàn bạo?

Tôi đăng Thiệp không phân vân.

Những sáng tác trên báo Văn nghệ thời ấy không phải cái nào cũng là văn chương, – tôi biết. Nhiều người trách: tờ báo hạ thấp văn chương. Nguyễn Đình Thi làm tạp chí Tác phẩm mới chủ trương văn chương phải sang trọng.

Tôi thì lúc này tôi nghĩ khác: cuộc cày xới thì ngổn ngang. Tôi chấp nhận cái ngổn ngang ấy. Nó xới lên hơi đất hôi hổi của cuộc sống thực.

Rồi đến một lúc mới có thể Bước qua lời nguyền và Nỗi buồn chiến tranh.

Không ai sang trọng được khi đang cầy vỡ ruộng.

Lại cũng có người trách: tôi tâng bốc quá đáng lớp trẻ, làm mất lòng bao nhiêu người già.

Có lẽ quả có thế thật. Tâng bốc thì không đúng. Nhưng đặt nhiều lòng tin vào họ thì có. Tôi biết cuộc phá vỡ này quá quyết liệt, để lớp người đã nặng nợ nhiều với quá khứ khó có thể đủ sức làm nổi.

Về sau tờ báo bị kết tội gây bè phái chia rẽ làm rối tung nội bộ Hội nhà văn. Tôi thì tôi muốn nói chính xác hơn: nó làm phân hóa rõ rệt lực lượng trong cuộc đi tới quằn quại dữ dội này của văn học. Cái tội đó, nó xin chịu.


*


Tháng 12-1988, sự nứt vỡ đã không còn cứu vãn được nữa. Những thế lực chống lại sự đi tới đã căm tức đến cực độ. Sự phân hóa đã quá lớn.

Còn tôi thì quá nhiều sơ hở vụng về để cho trận địa của mình bị tiến đánh từ mọi phía. Một trong những vụng về nguy hiểm là tôi đã để cho tờ báo nhô lên quá nhọn. Trong đội hình đi tới chung của báo chí, và có thể của cả xã hội lúc này đang có phần bị đẩy chững lại. Trong chiến đấu, cái khối lồi lù lù như thế tất sẽ bị gạt đi cho kỳ được.

Tôi ra đi là phải.

Biện pháp đã được dùng để đẩy tôi đi có thể là vụng về, thô bạo. Nhưng chẳng quan trọng gì cái chuyện ấy. Có thể khéo hơn, lịch sự nhẹ nhàng hơn một chút. Nhưng rồi tất cũng thế thôi.

Nhiều anh chị em ấm ức bảo tôi cố kéo dài thêm. Trưa ngày hôm ấy, 2-12-1988, tôi nói:

– Thôi, đủ rồi!

Trước cuộc họp toàn thể tòa soạn, Chính Hữu đọc quyết định “thuyên chuyển công tác” tôi.

Tôi bảo:

– Tôi chẳng chuyển đi đâu cả. Tôi chỉ thôi công việc ở đây.

Và hỏi:

– Tôi phải bàn giao công việc từ lúc nào?

Chính Hữu trả lời:

– Ngay bây giờ. Không phải bàn giao.

Tôi có căng thẳng trong tâm trạng không? Có.

Nhưng không phải vì công việc tờ báo đã qua. Việc ấy đã xong. Và đẹp. Tôi thanh thản.

Căng thẳng là việc sắp đến của tôi, còn quyết liệt khó khăn vất vả đau đớn hơn nhiều: Viết.


NGUYÊN NGỌC


Chú thích:


(6) Về một đặc điểm của văn học và nghệ thuật ở ta trong giai đoạn vừa qua (Văn nghệ, số 23, ngày 09/6/1979).


(7) Cho đến nay, bàn này chưa hề được công bố trên báo chí Nhà nước (tạp chí Lang Biang của Hội nhà văn Lâm Đồng đăng được nửa đầu thì bị ngừng). Nhà văn Lại Nguyên Ân đã tìm được một bản in rô-nê-ô, tác giả đã sửa những lỗi in, và toàn văn bản Đề dẫn này đã được công bố trên mạng Talawas : Đề cương đề dẫn thảo luận ở Hội nghị Đảng viên bàn về sáng tác văn học 1979
(chú thích của Diễn Đàn)

(8) Khi đọc lại bản đánh máy của Diễn Đàn (tháng 6.2019) để sửa những lỗi ty-pô, nhà văn Nguyên Ngọc chỉ viết thêm đoạn này để bạn đọc dễ «chuyển tiếp» từ phần trên với phần dưới (chú thích của Ban biên tập).

(9) (Cuối năm 1955, tôi đang ở sư đoàn 324 tập kết ra Bắc, đóng ở Nghệ An, bỗng được lệnh Tổng cục chính trị gọi về Hà Nội để tham gia trại sáng tác về các anh hùng quân đội. Gặp các bạn Nguyễn Khải, Hồ Phương, Phùng Quán, Mạc Phi, Hà Mậu Nhai, Xuân Vũ, Lý Đăng Cao… cũng vừa từ các sư đoàn được gọi về. Ở Tổng cục bấy giờ có cái thư viện nhiều sách tiếng Pháp. Từ chiến trường xa mới về, bao năm thèm sách, tôi lao vào đọc say mê. Nguyễn Khải đi ngang qua nhìn thấy, reo lên : “Ơ, cái thằng này đọc tiếng Tây chúng mày ơi !…”. Chúng tôi đánh bạn cùng nhau từ đó.

Hội nhà văn Việt Nam


Đề cương đề dẫn thảo luận ở Hội nghị Đảng viên bàn về sáng tác văn học 1979

1 2

Tháng 6.1979, Đảng đoàn Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức một hội nghị nội bộ, dành cho các nhà văn là đảng viên, để chuẩn bị cho Đại hội Nhà văn lần thứ III mà 4 năm sau, năm 1983, mới diễn ra. Để gợi ý cho hội nghị thảo luận, Ðảng đoàn thảo ra một bản Ðề cương Đề Dẫn (thường gọi tắt là Ðề Dẫn), do nhà văn Nguyên Ngọc, bí thư Ðảng đoàn chấp bút và trình bày trước hội nghị. Không khí hưng phấn trước một thời kì mới của văn học Việt Nam trong hai ngày đầu tại hội nghị ngưng hẳn sau sự phê phán gay gắt của nhà thơ Tố Hữu, ủy viên Bộ Chính trị, đối với bản Đề Dẫn. Phải gần một thập kỉ sau, văn học Việt Nam mới chứng kiến bước chuyển đã được chuẩn bị từ bản Đề Dẫn này. (Xin xem thêm “Làng văn một thời, và…” của Bùi Minh Quốc, talawas 23-24.6.2004). Cùng với việc giới thiệu những tư liệu khác, như các bài viết của Hải Triều, Trường Chinh, Tố Hữu, Mao Trạch Đông…, chúng tôi đăng văn bản chưa bao giờ được chính thức công bố này, mong cung cấp những tư liệu cần lưu ý cho những người quan tâm tới tiến trình phát triển của văn học nghệ thuật Việt Nam. 

talawas

Bản đề dẫn này nhằm mục đích nêu ra một số vấn đề chủ yếu dự định đề nghị thảo luận ở Hội nghị đảng viên bàn về sáng tác văn học, và về những vấn đề ấy, nêu ra một số ý kiến trung tâm có tính chất khêu gợi để các đại biểu dễ thảo luận. Những vấn đề sẽ thảo luận trong hội nghị không nhất thiết chỉ đóng khung trong những vấn đề nêu ra ở đây, và những ý kiến phát biểu trong bản đề dẫn này, tất nhiên, cũng không có ý định muốn được coi là những ý kiến khẳng định, kết luận.

Bản đề dẫn này gồm 2 phần chính: 

Nhìn lại một thời kỳ văn học vừa qua 

Những phương hướng nhiệm vụ của văn học trong tình hình mới

I. Nhìn lại một thời kỳ văn học vừa qua 

Từ Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ 2 (1.1963) đến nay, 16 năm đã trôi qua. 

Đó là một thời gian lịch sử vô cùng trọng đại. Trong thời gian ấy, Tổ quốc đã liên tiếp giành được những thắng lợi hết sức vẻ vang. Đó là thắng lợi vĩ đại của cuộc chống Mỹ cứu nước, đánh bại hoàn toàn cuộc chiến tranh xâm lược tàn bạo chưa từng có của đế quốc Mỹ, tên đế quốc đầu sỏ, tên sen đầm quốc tế, kẻ thù hung ác nhất của loài người, kết thúc vẻ vang quá trình 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc bắt đầu từ Cách mạng tháng 8, chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị hơn 1 thế kỷ của chủ nghĩa đế quốc trên đất nước ta, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, bảo vệ và phát triển những thành quả của cách mạng xã hội chủ nghĩa trên miền Bắc, đưa nước nhà đến thống nhất toàn vẹn, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi đó là một trong những trang chói lọi nhất của lịch sử dân tộc, một biểu tượng sáng ngời về chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đã đi vào lịch sử như một chiến công vĩ đại của thế kỷ 20, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc. 

Sau thắng lợi của cuộc chống Mỹ cứu nước, kể từ ngày 30/4/1975, nhân dân ta trong cả nước dưới sự lãnh đạo của Đảng vừa ra sức hàn gắn những vết thương của hơn 30 năm chiến tranh ác liệt, vừa nỗ lực to lớn trong công cuộc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước, lại vừa tiến hành thắng lợi 2 cuộc chiến tranh mới bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đó là thắng lợi oanh liệt đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược kia dài hơn 3 năm do bọn phản động Cămpuchia và bọn cầm quyền phản động Trung Quốc gây ra, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền đất nước trên biên giới phía Tây nam; đồng thời tạo điều kiện và giúp đỡ nhân dân Cămpuchia anh em, dưới sự lãnh đạo của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Cămpuchia, anh dũng vùng lên đập tan chế độ diệt chủng do bọn Pônpốt -Iêng Xari và bọn phản động Trung Quốc áp đặt, giải phóng hoàn toàn đất nước, thành lập nước Cộng hoà nhân dân Cămpuchia. Và tiếp liền sau đó, trong cùng một mùa xuân, là thắng lợi oanh liệt đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của bọn phản động Trung Quốc trên biên giới phía bắc nước ta. 

Trong lịch sử và trên thế giới, có lẽ ít có dân tộc nào, trong một thời gian ngắn, đã phải trải qua những thử thách hy sinh to lớn, dồn dập như dân tộc Việt Nam. Chỉ trong hơn 30 năm, nhân dân ta đã phải đương đầu với 4 cuộc chiến tranh, lần lượt đánh thắng các thế lực đế quốc và phản động lớn nhất của thời đại. 

Chúng ta, những thế hệ nhà văn Việt Nam đang cầm bút hôm nay, chúng ta có vinh dự và hạnh phúc lớn là những người đương thời của một thời gian lịch sử thật kỳ lạ, thật hiếm có trong lịch sử dân tộc, cũng thật hiếm có trong lịch sử của các dân tộc. 

Nhìn lại một thời kỳ văn học vừa qua, trước hết là nhìn lại, đánh giá sự phát triển của nền văn học chúng ta trong thời gian lịch sử hết sức đặc biệt đó, xem xét nó - với tư cách là một hình thái ý thức xã hội có tính đặc thù và là một vũ khí sắc bén của cuộc đấu tranh xã hội - nó đã chịu sự chi phối của nội dung lịch sử này như thế nào và đến lượt nó, trong phạm vi chức năng của nó, nó đã tác dụng trở lại nội dung đó ra sao? 

Quy mô và tầm cỡ của mỗi một giai đoạn cách mạng là do ở chỗ giai đoạn ấy giải quyết những mục tiêu nhất định nào trên con đường tiến lên lâu dài của cách mạng và trên đoạn đường đó nó đã khắc phục, đánh ngã những kẻ thù nào, bằng những phương pháp cách mạng nào. Như chúng ta đều biết, cuộc giáp mặt quyết liệt giữa nhân dân ta với bọn đế quốc Mỹ xâm lược là một cuộc đụng đầu lịch sử, một tất yếu thời đại. Không phải ngẫu nhiên mà đế quốc Mỹ đã chọn chính chúng ta làm đối thủ của chúng và đã lấy Việt Nam làm hướng xuất quân chiến lược của chúng kể từ sau đại chiến thế giới lần thứ 2. Ấy trước hết là vì bản thân nội dung và tính chất cuộc cách mạng của chúng ta. Ấy là vì, như báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội IV đã chỉ rõ: "... từ một thuộc địa vùng lên giành độc lập, anh dũng đánh thắng một đế quốc to là Pháp, đưa nửa nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời kiên quyết đấu tranh để hoàn thành độc lập dân tộc trong nước, cách mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, là ngọn cờ tiêu biểu cho sự kết hợp các trào lưu cách mạng của thời đại, cho xu thế phát triển tất yếu của phong trào giải phóng dân tộc lên chủ nghĩa xã hội". Chính điều đó một mặt quy định tính quyết liệt, sống mái, mất còn của cuộc đụng độ, mặt khác cũng quy định ý nghĩa, tầm cao cuộc đấu tranh của chúng ta. Để đánh thắng kẻ thù cực kỳ tàn bạo, hùng mạnh, nguy hiểm như dân tộc ta chưa từng bao giờ gặp phải, chúng ta nhất thiết phải tự trang bị cho mình một sức mạnh lớn nhất, phải huy động dậy, thu hút về mình, tạo ra cho mình một sức mạnh tổng hợp lớn nhất cả trong không gian và thời gian. Sức mạnh của truyền thống và sức mạnh của lý tưởng, sức mạnh của chính ta và sức mạnh của thời đại, sức mạnh tinh thần và sức mạnh trí tuệ, sức mạnh của toàn dân tộc và sức mạnh trong chiều sâu của mỗi một con người,... tất cả tổng hợp lại, tạo nên cái điều ngày nay vẫn thường được gọi là "sức mạnh Việt Nam". Dân tộc ta nhất thiết phải vươn mình lớn vượt hẳn lên và trong thực tế đã vươn mình lớn vượt hẳn lên để ngang tầm với nhiệm vụ lịch sử lớn lao chưa từng có của mình. Đó chính là thực tiễn lớn nhất, đẹp đẽ, xâu xa và xúc động nhất đã diễn ra trên đất nước ta trong suốt thời gian mười mấy năm không thể nào quên của cuộc chống Mỹ cứu nước. Cả một dân tộc vươn mình lớn dậy, khẩn trương, dữ dội, ráo riết, mỗi một địa phương, một xóm làng, một tập thể, một gia đình, một lứa đôi, mỗi một con người ráo riết vươn mình lớn dậy, tự tìm lấy trong chiều sâu mọi mặt của chính mình và ra sức thu hút về mình mọi tiềm lực, năng lực có thể có được, đặng cuối cùng tồn tại và chiến thắng... 

Hôm nay chúng ta nhắc lại những điều đó ở đây, là để một lần nữa khẳng định rằng chính thực tiễn lớn lao ấy, cuộc chuyển động mạnh mẽ và sâu xa của cả đất nước và mỗi con người Việt Nam những năm chống Mỹ, là cơ sở, là nền tảng, là ngọn nguồn của một thời kỳ phát triển văn học rất đặc biệt của chúng ta, thời kỳ văn học chống Mỹ cứu nước. 

Bước vào cuộc chống Mỹ cứu nước, văn học chúng ta có thể nói có cái may mắn là đã có được sự chuẩn bị tương đối lâu dài và khá vững chắc, trên nhiều mặt. Kể gần, ít ra cũng từ cách mạng tháng Tám. 

Chúng ta đã đi qua giai đoạn "tìm đường" một chừng mực nào đó khá vất vả những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, và từ khoảng nửa cuối cuộc kháng chiến này đã bước đầu tạo nên được cơ sở của một nền văn học mới khá nhuần nhị. Những lực lượng trong những năm đầu còn phải trăn trở tìm đường, thì đến đây đã dứt khoát nhận rõ và khẳng định con đường đi đúng đắn của mình. Đồng thời có một lực lượng mới, hình thành từ trong lòng cuộc kháng chiến ấy, đến đây đã dần dần chín muồi, bắt đầu xuất hiện và định hình, khá sung sức. 

Chúng ta cũng đã có được thời kỳ văn học sau năm 1954, trong đó đấu tranh thắng lợi chống ảnh hưởng của những quan điểm văn học nghệ thuật tư sản phản động, khẳng định những quan điểm văn học nghệ thuật đúng đắn của Đảng, chúng ta đã thu được những vụ mùa nở rộ vào khoảng nửa cuối những năm 50... 

Có thể nói đó là những điều kiện chủ quan thuận lợi của văn học ta khi bước vào cuộc thử thách mới to lớn của dân tộc, cuộc chống Mỹ cứu nước. 

Song, nhìn lại thời điểm lịch sử này, có lẽ có một điều còn quan trọng, quyết định hơn, và điều này cũng là tiếp tục và phát huy kinh nghiệm của thời kỳ trước đó, ấy là: khi dân tộc ta bước vào cuộc thử thách mới nghiêm trọng hơn, cao hơn bất kỳ thời kỳ nào trước đây trong lịch sử của mình, thì văn học ta vốn đã được chuẩn bị đến một mức nhất định như vừa nói ở trên - đã sớm chủ động tự đặt mình vào trung tâm cơn lốc của cuộc chuyển động cách mạng lớn lao, sâu sắc chưa từng có đó, sớm tự giác và dứt khoát nhận lấy vị trí và trách nhiệm của mình trong cuộc vận động lịch sử ấy, như một người lính nhận lấy vị trí chiến đấu của mình trong đội ngũ lớn của dân tộc, một binh chủng nhận lấy trách nhiệm của mình trong thế trận hợp đồng chiến đấu chung. Ở đây, so với những thời kỳ trước, có chỗ khác nhau quan trọng. Lần này, khác trước, không còn phải có sự dằn vặt tìm đường, tìm chỗ đứng nào nữa, không còn phải mò mẫm băn khoăn, phân vân. Trái lại, lần này văn học bước vào cuộc chiến đấu với một lòng tự tin giản dị và vững chắc, tự tin rằng mình là một sức mạnh thực sự, một sức mạnh cần thiết, có ích và không thể thiếu trong hệ thống sức mạnh tổng hợp của trận đánh lớn này. Một sự "nhập cuộc" hết mình. Một nền văn học "nhập cuộc" có thể nói trọn vẹn, nhập mình trọn vẹn trong cuộc chiến đấu của dân tộc. 

Nhập cuộc trọn vẹn vào cuộc đấu tranh lớn điều này thập đẹp đẽ và thú vị - văn học lập tức lại được thừa hưởng những thành quả, thành tựu của cuộc đấu tranh ấy, trong đó cốt lõi và tập trung nhất là thành tựu về sự phát triển của con người, tức là ở chính cái lĩnh vực nó đặt toàn bộ sự quan tâm của mình. Con người Việt Nam mới của thời kỳ chống Mỹ cứu nước, như đã nói ở trên, đang vươn mình lớn dậy vượt bực trong sức mạnh kỳ lạ của lòng yêu nước để ngang tầm với nhiệm vụ lịch sử có ý nghĩa thời đại.

Điều này đúng với cả nền văn học, cũng đúng với từng nhà văn đã chiến đấu ở vị trí của mình trong thời kỳ đó. Hãy xin lấy một ví dụ như ở nhà văn Nguyễn Ngọc Tấn -Nguyễn Thi. Ai cũng dễ nhận thấy từ Nguyễn Ngọc Tấn đến Nguyễn Thi có sự liên tục, kế tục, ở giai đoạn trước đã có sự chuẩn bị, đã chứa đựng những tiềm lực sẽ bộc lộ trong giai đoạn sau. Nhưng đồng thời cũng không thể phủ nhận rằng từ Nguyễn Ngọc Tấn đến Nguyễn Thi rõ ràng có một sự bột phát, cái gì như là một sự nhảy vọt. Trong sáng tác của nhà văn ấy, ở giai đoạn sau là một cao trào. Vì sao? Có thể tìm thấy câu trả lời trước hết trong chính cách sống, lao động và chiến đấu của anh. Nguyễn Thi là một trong những nhà văn đã đi vào cuộc chống Mỹ cứu nước ngay từ đầu với tất cả ý thức tự giác rất cao và tinh thần trách nhiệm rất nghiêm túc. Anh đã đi đúng vào trung tâm cơn lốc của cách mạng, và ở đây, với một tinh thần làm chủ thật sự, anh đã chiến đấu quên mình như một chiến sĩ và một nhà văn, một nhà văn - chiến sĩ, cầm súng và cầm bút, sử dụng cây bút của mình như một cây súng. Ở đây có lẽ có một điều còn sâu sắc hơn nữa: Nguyễn Thi đã coi cuộc chiến đấu chung mà anh là một chiến sĩ xung kích, như là cuộc chiến đấu cho chính mình, vì chính mình, cuộc chiến đấu để tự giải phóng mình. Kẻ nào thực sự quên mình trong cuộc sống thì lại được cuộc sống trả lại cho tất cả. Và khi văn học đã đạt được đến sự nhập cuộc thật cao, khi văn học đã tự quên được mình đi là văn học, thì cũng chính lúc đó nói lại càng đúng thực sự là văn học hơn cả, càng có sức mạnh lớn hơn cả. Thật sự chiến đấu quên mình ở trung tâm cơn lốc của cách mạng, Nguyễn Thi lại thừa hưởng được tất cả thành quả, thành tựu tốt đẹp nhất của cuộc vận động lịch sử ấy. Và bởi vì cuộc chống Mỹ cứu nước - như đã nói ở trên - là một cuộc huy động tổng lực tất cả sức mạnh và tài năng, tinh thần và trí tuệ cuả dân tộc, cho nên Nguyễn Thi, như là đứa con của chính cuộc chuyển động cách mạng ấy, đã có thể huy động dậy và phát triển lên một đỉnh mới tất cả tài năng tiềm tàng, tất cả cá tính sáng tạo nghệ thuật độc đáo và sâu sắc của anh. Ở Nguyễn Ngọc Tấn - Nguyễn Thi chúng ta được chứng kiến một hiện thực thật đẹp và "lạ": Chỉ trong một thời gian ngắn, vậy mà anh vừa vẫn là chính anh ấy, không lẫn lộn được, lại vừa như là một tài năng hoàn toàn mới mẻ, độc đáo, sâu sắc, nhiều mặt, đến khiến ta kinh ngạc. Có thể nói như là một hiện tượng bùng nổ của tài năng.

Nguyễn Thi là một trường hợp tiêu biểu, nhưng không phải là một trường hợp cá biệt. Điều đã diễn ra ở Nguyễn Thi, trong những chừng mực nhất định, cũng đã diễn ra trong toàn bộ nền văn học chúng ta. Trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước, nhất là trong khoảng thời gian những năm 60, nền văn học chúng ta thực sự đã có một bước phát triển mới về chất, cao hơn hẳn so với tất cả các thời kỳ trước đó, có thể coi là một thời kỳ cao trào của nền văn học yêu nước Việt Nam, một nền văn học yêu nước chống đế quốc xứng đáng cho chúng ta có thể tự hào. 

Chính trong thời gian này chúng ta được chứng kiến sự chín muồi của một loạt những cây bút hoặc đã được chuẩn bị tiềm tàng từ những năm trước, đặc biệt là sự chín muồi của đội ngũ những nhà văn hình thành từ kháng chiến chống Pháp. Đồng thời chúng ta cũng được chứng kiến sự xuất hiện của một loạt những tài năng mới, đầy sinh lực và nhiều vẻ độc đáo, hình thành nhanh, viết khoẻ và xông xáo, giữ lấy cả một mảng lớn của nền văn học ta. Chưa bao giờ đội ngũ chúng ta đông và khoẻ bằng lúc này. Cũng chưa bao giờ đội ngũ đông đảo gồm nhiều thế hệ ấy được bố trí đẹp như vậy, khá đều trên hều khắp mọi lĩnh vực và địa bàn của cuộc sống. Ở miền Nam và ở miền Bắc, ở miền Núi và đồng bằng, trong quân đội và trên nhiều mặt trận đấu tranh khác... Điều đáng quí hơn nữa là một số không ít trong những lực lượng ấy đã có sự bắt rễ khá sâu, chắc trên các địa bàn và lĩnh vực của mình. Thế bố trí khá rộng đó khiến cho diện mạo chung của nền văn học trở nên phong phú hơn trước nhiều. 

Đây cũng là một thời kỳ phát triển mạnh và khá toàn diện của nhiều thể loại văn học, vừa hợp đồng vừa bổ sung cho nhau, thúc đẩy nhau, tạo nên một thứ "sức mạnh tổng hợp" của nền văn học chiến đấu, nếu có thể nói như vậy. Truyện ngắn và ký có bước phát triển đặc biệt. Truyện ngắn, đã có những thành tựu đáng kể từ thời gian những năm 50, nay càng chín hơn, phong phú hơn về nội dung và phong cách, có nhiều truyện ngắn được viết ra trong thời kỳ này, ngay giữa chiến tranh ác liệt, đã đạt được sức súc tích khá cao, có thể sẽ còn được đánh giá thuộc số những truyện ngắn xuất sắc của nền văn học ta. Riêng ký đã nổi bật lên như một thể loại xung kích, có tác dụng ứng chiến mạnh mẽ, xông xáo, sắc bén. Nhiều tác phẩm ký xuất sắc được viết ra trong thời kỳ này đã chứng minh khả năng nghệ thuật không hề nhỏ bé của thể loại văn học này và chắc hẳn sẽ có thể tồn tại lâu dài như những giá trị văn học có ý nghĩa đánh dấu. Còn một thể loại văn học khác tuy không hoàn toàn mới mẻ nhưng lần này đã xuất hiện thành một hiện tượng khá độc đáo, đặc sắc và giữ một vị trí không thể thay thế được trong nền văn học. Đó là thể loại "văn học tư liệu", gần với báo chí, nhiều khi không phải do các nhà văn viết ra, mà sức truyền cảm nghệ thuật từng có lúc thật lớn, và nếu ta biết chú trọng phát triển và sử dụng tốt hơn, sẽ là những cơ sở quí báu để về sau tiếp tục xây dựng những tác phẩm lớn về thời kỳ lịch sử này. 

Một hiện tượng độc đáo khác là sự xuất hiện khá sớm và đã có một số thành tựu đáng kể của tiểu thuyết ngay trong những năm tháng chiến tranh hết sức ác liệt, cả ở hậu phương và ở tiền tuyến, ở miền Bắc và ở miền Nam, và đề tài chiến tranh cách mạng cũng như về đề tài xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tiểu thuyết có sớm ngay giữa chiến tranh, vừa là do chính yêu cầu của cuộc chiến đấu tiến lên ngày càng phong phú, phức tạp, vừa chứng tỏ sự cố gắng lớn của các nhà văn chúng ta ra sức đáp ứng kịp những yêu cầu đó. 

Thơ cũng có bước biến chuyển mới mạnh mẽ, sâu sắc hơn về nội dung, phong phú hơn về hình thức, thể loại... 

Mối quan hệ giữa các thể loại cũng là một điều rất đáng lưu ý. Có hiện tượng một nhà văn cùng một lúc sử dụng nhiều thể loại, và ở một số người, đều giỏi trong các thể loại ấy. Các thể loại cùng phát triển gần như song song, vừa phát huy sức mạnh riêng của từng vũ khí lại vừa quan hệ chằng chịt với nhau, khêu gợi, kích thích, chuẩn bị, tạo điều kiện cho nhau. Rất đáng chú ý và có lẽ sẽ rất thích thú nếu ta nghiên cứu sâu hơn chẳng hạn mối quan hệ giữa thể loại văn học tư liệu, thể ký và tiểu thuyết trong toàn bộ văn học và trong từng nhà văn ở thời kỳ này. 

Công tác nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học, chủ yếu bằng việc khẳng định những giá trị mới xuất hiện và từng bước sơ kết những kinh nghiệm mới của hoạt động văn học, hoặc làm sống lại những giá trị truyền thống của văn học dân tộc, đã cố gắng góp phần trực tiếp của mình vào thế trận chung. 

Công tác giới thiệu văn học nước ngoài, ngay trong điều kiện chiến tranh, cũng đã có những cố gắng nhất định. 

Tất cả những kết quả trên đây, cuối cùng dẫn đến một thành tựu tập trung nhất: đó là sự sáng tạo ra những hình tượng nghệ thuật mới mẻ, những giá trị tinh thần và phẩm cách mới mà văn học, trong chức năng thiêng liêng của nó phải đem đến cho con người đang đấu tranh, như một khêu gợi, một nhắc nhủ ân cần, chân tình, như một sức mạnh mới góp phần vào sức mạnh sống và chiến đấu của họ, như một ánh sáng dù là nhỏ nhoi khiêm tốn ở phía trước giúp họ vươn tới. 

Tất nhiên, chúng ta hiểu rõ, những giá trị tinh thần, phẩm cách, đạo đức mới được phát triển lạ lùng, chủ nghĩa anh hùng cách mạng đạt đến đỉnh cao mới trong chống Mỹ cứu nước, là thành quả tập trung của chính cuộc đấu tranh vươn tới quyết liệt sâu sắc của nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đó là sự sáng tạo tinh thần tuyệt vời của nhân dân ta, Đảng ta. Nhưng nhiệm vụ của văn học nghệ thuật chính là ở chỗ sớm nhận ra nó, phát hiện, khám phá ra nó, khái quát, cô đúc, tái tạo lại nó trong những hình tượng nghệ thuật đẹp đẽ, nhuần nhị. "Hiểu biết, khám phá, sáng tạo", như thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói. Và tác dụng to lớn của văn học nghệ thuật là ở chỗ khi những thành tựu tinh thần cao đẹp ấy được phát hiện và cô đúc tái tạo lại thành những hình tượng nghệ thuật nhuần nhuyễn, có sức thuyết phục nghệ thuật sâu sắc, thì dường như nó bỗng có sự thay đổi mới về chất, nó được khẳng định, cố định lại, trở thành tài sản lâu dài bền vững của nhân dân, thành sức mạnh mới được nhân lên thêm nhiều lần của nhân dân. Trong hình tượng nghệ thuật được người nghệ sĩ sáng tạo, hiện thực anh hùng của nhân dân hiện lên dưới cái vẻ vừa như là một trường hợp giản đơn, cá biệt, vừa lại có tính khái quát cao; nó hiện lên một lần nữa và đi trở vào đời sống, cao hơn chính nó khi nó còn là nguyên mẫu, mặc dầu chính hiện thực ấy là cơ sở, là ngọn nguồn của sự sáng tạo kia. Cũng chính vì vậy mà hình tượng nghệ thuật cao đẹp, sâu sắc thì có tính dắt dẫn đối với đời sống. Con người vốn từng là nguyên mẫu của nó, bây giờ lại khát khao vươn tới nó như vươn tới những mơ ước tốt đẹp của mình. Đó là tính biện chứng phong phú và đẹp đẽ của mối quan hệ giữa hiện thực và nghệ thuật, cuộc sống và nghệ thuật. 

Nhìn từ góc độ đó, chúng tôi nghĩ chúng ta có thể nói rằng: nếu văn học chúng ta trong chống Mỹ cứu nước, dựa chắc trên nền tảng cuộc chiến đấu quyết liệt của dân tộc, tìm lấy nguồn cảm hứng và những nguyên mẫu của mình từ những con người anh hùng đánh Mỹ tuyệt vời có tên hay không có tên, lại đã sáng tạo ra không ít những hình tượng nghệ thuật có sức rung động chính những con người anh hùng ấy (vừa là đối tượng thể hiện vừa là đối tượng phục vụ của văn học ta), được chính những con người anh hùng ấy tiếp nhận như là khát vọng tiếp tục vươn lên tốt hơn, đẹp hơn, xứng đáng hơn. Không ít đâu những người chiến sĩ lên đường ra chiến trường, đi đến những trận đánh và những chiến công của mình mà cũng là đi tới những hình tượng nghệ thuật được họ coi như là những khát vọng của họ, do các nhà văn nhà thơ chúng ta sáng tạo ra. Cũng không phải hoàn toàn không có những bài thơ, những tùy bút, những bài ký hay những trang tiểu thuyết từng được bao nhiêu người đọc anh hùng của chúng ta coi như một thứ tuyên ngôn tinh thần của chính họ, trong những ngày đánh Mỹ gian nan nhất. Trong hành trang tinh thần của những thế hệ đánh Mỹ, có thể khẳng định, có một phần tài sản do nền văn học chống Mỹ của chúng ta góp vào. Đứng trước dân tộc, đứng trước nhân dân mình đang phải tự huy động đến toàn lực tất cả sức mạnh khả dĩ huy động được để nhất thiết phải thắng trong cuộc đấu tranh mất còn, văn học chúng ta đã là một nền văn học có ích. Và điều ấy, chúng tôi nghĩ, là lớn lắm. 

Tự giác đặt mình với đầy đủ tinh thần trách nhiệm vào chính giữa cơn lốc cuộc đấu tranh quyết liệt của dân tộc, tiếng nói văn học chống Mỹ cứu nước của chúng ta là tiếng nói chân chất, tiếng nói thật của cuộc đời chiến đấu. Và điều đó là quý lắm. Có thể chúng ta nói chưa được nhiều, chưa thật sâu sắc, chưa thật uyển chuyển, nhưng lời nói văn học chống Mỹ cứu nước của chúng ta rất xa lạ với những kiểu tiếng phù phiếm, hoa hoè, và về điểm này, chúng ta có thể hoàn toàn tự tin, so với bất cứ nền văn học nào khác. 

Nhìn lại một thời kỳ văn học vừa qua, vâng, chúng ta có quyền tự hào. Chúng ta có quyền vui mừng với sự đánh giá rất cao của Đảng: "Với những thành tựu đã đạt được chủ yếu trong việc phản ánh hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, văn học nghệ thuật nước ta xứng đáng đứng vào hàng ngũ tiên phong của những nền văn học chống đế quốc trong thời đại ngày nay". 

Tự hào về những thành tựu quan trọng đó, phấn khởi trước sự đánh giá cao của Đảng, chúng ta lại càng muốn nghiêm túc nhận rõ những hạn chế, những chỗ còn thiếu sót, non yếu của văn học ta trong thời kỳ lịch sử lớn này; đặc biệt chúng ta muốn nhận rõ thực chất của tình hình văn học ta hiện nay. Nhìn chung, dễ thấy ngay một sự hạn chế rõ rệt: Những thành tự văn học của ta còn chưa tương xứng với tầm cỡ cuộc chiến đấu vĩ đại của dân tộc mấy chục năm qua. Sự nghiệp của Đảng, của nhân dân thì to lớn, hùng vĩ, sâu sắc, mà sự nghiệp văn học ta đã đạt được thì quá nhỏ bé, mờ nhạt, nông cạn. Khoảng cách giữa đời sống văn học còn khá xa. 

Như chúng ta đều biết, thực tiến cách mạng đã diễn ra trên đất nước ta mấy chục năm qua là một thực tiễn hết sức phong phú, phức tạp. Trên phạm vi cả nước, "một đảng thống nhất lãnh đạo một nước tạm thời bị chia cắt làm đôi tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược khác nhau, đó là đặc điểm lớn nhất và cũng là nét độc đáo của cách mạng nước ta từ tháng 8 năm 1954 đến tháng 5 năm 1975" (báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội 4). Riêng miền Nam, do những điều kiện lịch sử nhất định, trong suốt thời kỳ này cuộc đấu tranh của nhân dân ta đã diễn ra dưới hình thức rất phức tạp vừa là một cuộc chiến tranh vừa là một cuộc cách mạng, cuộc chiến tranh vừa mang tính chất chiến tranh giải phóng dân tộc chống đế quốc vừa mang tính chất nội chiến cách mạng gay gắt. Do đó, trải qua cuộc đấu tranh vừa lâu dài vừa khẩn trương này, đã diễn ra những sự biến động rất sâu sắc, dữ dội trong toàn bộ xã hội, trong lực lượng các giai cấp, trong từng xóm làng, từng gia đình, từng con người. 

Nhìn lại những tác phẩm văn học được viết ra trong thời kỳ này, chúng ta thấy mặt đấu tranh xã hội - tức là mặt chuyển động trong chiều sâu của hiện thực - được phản ánh còn mờ nhạt. Dường như lịch sử được tái tạo trong văn học mới còn chủ yếu ở những đường nét lớn chung nhất, trên các sơ đồ chung nhất của nó; còn ở những tần số rung động sâu xa, tinh vi của nó thì chưa rõ rệt. Trong văn học, lồ lộ khá rõ là số phận chung của cả dân tộc, cả đất nước, nhưng còn số phận riêng của từng người, từng thành viên trong đội ngũ lớn đó thì còn khá sơ lược, giản đơn. Mặt yêu nước nổi bật lên - và đây là một chỗ mạnh của văn học ta thời kỳ này như đã nói ở trên - những mặt đấu tranh xã hội thì không rõ bằng. Tính thơ lý tưởng của cuộc chiến đấu được biểu hiện khá mạnh, nhưng còn tính phức tạp của đời sống thì yếu hơn. Cho nên tính hiện thực của văn học có bị hạn chế. 

Điều này cũng biểu hiện cả trong sự mạnh yếu khác nhau của các thể loại. Thơ, ký, truyện ngắn, những thể hiện chiến đấu trực tiếp, khá mạnh. Tiểu thuyết - vốn là thể loại phản ánh gần và sâu hơn cuộc đấu tranh xã hội, có sức mô tả tính biện chứng tinh vi uyển chuyển hơn trong sự vận động của tâm hồn, trong số phận con người, thì ít đạt bằng. Một số tiểu thuyết có thể nói chủ yếu gần như là những bài thơ hay tùy bút dài, nói chung còn quá trơn tru, dễ dãi. 

Nếu tính theo khu vực đề tài thì phần viết về chiến tranh cách mạng khá hơn phần viết về xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong phần viết về chủ nghĩa xã hội, cũng chỉ mới còn chủ yếu là phản ánh một bước cải tạo quan hệ sản xuất. 

Nếu tính theo thời gian thì sự phát triển trong khoảng những năm 60 tốt hơn, thuận hơn trong khoảng những năm 70. 

Ít lâu nay trong người đọc, và trong cả chính người viết, có một số suy nghĩ hoặc một số dư luận khá phổ biến cho rằng từ một số năm gần đây, 5 năm, 7 năm hay khoảng mười năm trở lại đây, văn học ta đã có sự dừng lại. Mỗi người diễn đạt sự suy nghĩ, lo lắng đó một cách khác nhau: có người nói là văn học đang tụt lùi, có người gọi là "có tình trạng trì trệ". Cũng có người cho rằng ta đang ở trong một tình hình khá nguy hiểm, ấy là tình hình "nhàng nhàng" không dở không hay, không sai nhưng cũng không thật đúng. Có người cho là đang có khủng hoảng. Cũng có người bảo: một số năm gần đây ta vẫn "có nhiều sách nhưng không có tác phẩm", "vẫn có nhiều trận đánh nhưng là những trận tiêu hao, không có trận đánh tiêu diệt"... 

Rõ ràng trong hội nghị này chúng ta có một công việc nghiêm túc: đánh giá thật đúng thực chất tình hình và cố gắng tìm ra nguyên nhân của nó. 

Trước hết chúng tôi nghĩ rằng tình hình được phản ánh trong những suy nghĩ lo lắng vừa kể trên, tình hình đó là có thật. Quả văn học "đang có vấn đề".

Vấn đề gì? Và ở đâu? 

Dường như nó bắt đầu vào khoảng đầu những năm 70. Thật ra kể từ khoảng thời gian đó, và cho đến những năm gần đây, một vài năm nay, số tác phẩm được viết ra không hề ít hơn trước, nếu không phải là nhiều hơn. Trong số đó, có những tác phẩm không hề thua kém những năm trước, nếu không nói là khá hơn. Đội ngũ sáng tác vẫn phát triển, về số lượng và chất lượng. Cả về đội ngũ lẫn tác phẩm, tình hình vẫn tiến đều, nhìn trên những con số thống kê không thấy có hiện tượng giảm sút... Vậy mà sao cái cảm giác lo lắng kia vẫn ngày càng rõ, càng đậm hơn, trong người đọc, người viết? Đứng trước cái quầy sách bây giờ, nhìn những đầu sách mới in ra, nhiều, dày, hình như ta thấy lo nhiều hơn vui. Vì sao? 

Có một điều dễ nhận thấy ngay: Sách vẫn được viết, được in ra đều, chất lượng ít ra cũng bằng hoặc khá hơn trước, nhưng trong một số năm gần đây rất hiếm hoặc không có những tác phẩm gây nên được những "sự kiện văn học" mới. Sách viết ra, in ra, người ta đọc, rồi nó phào đi, không để lại được những dấu vết sâu sắc, đậm nét trong đời sống tinh thần của xã hội. Cảm giác "có nhiều sách mà không có tác phẩm" là như thế. Người đọc thờ ơ với chính những quyển sách mình vừa đọc, tuy cũng chẳng có gì để chê bai nó. Có một không khí mệt mỏi, lạnh nhạt giữa người viết và người đọc.

Như vậy, chúng tôi nghĩ, phải chăng là tác phẩm vẫn như trước kia hoặc khá hơn một ít, còn trong khi đó thì đời sống lại đã thay đổi rất nhiều rồi. Tác phẩm thì vẫn như trước, vẫn "hay" như trước kia nó đã "hay", song hiện thực đã biến đổi khác trước. Phải chăng có những vấn đề mới đã nảy sinh, những câu hỏi mới đã phát sinh trong hiện thực, trong khi đó văn học vẫn lặp lại những vấn đề cũ, trả lời những câu hỏi cũ, có thể trả lời khá hay nhưng vẫn là trả lời những câu hỏi mà hiện thực đã vượt qua rồi. 

Trong hiện thực xã hội chúng ta, trong cuộc chiến đấu quyết liệt liên tục của đất nước ta, quả thực vào khoảng thời gian từ đầu những năm 70, tình hình đã có những biến đổi mới sâu sắc. Ở miền Nam, như chúng ta đều biết, đây là thời kỳ "Việt Nam hoá chiến tranh", đỉnh cao của chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ. Cuộc chiến tranh trở nên đặc biệt ác liệt, phức tạp, toàn diện hơn bất kỳ thời kỳ nào trước đó. Chưa bao giờ trên chiến trường miền Nam số quân địch, cả Mỹ nguỵ và chư hầu đông bằng lúc này, chưa bao giờ số lượng bom đạn, vũ khí giết người của chúng cao đến thế, chưa bao giờ những thủ đoạn đánh phá của kẻ thù tàn bạo nham hiểm toàn diện bằng, và tất cả đều tập trung đánh thẳng vào người dân, vào cơ sở, vào từng chi bộ, từng thôn xã, từng gia đình, thậm chí từng con người, tức là vào từng tế bào nhỏ nhất của xã hội, làm rung chuyển toàn bộ đời sống xã hội... Đứng về phía ta, thời gian đó chính là đêm trước của một cao trào cách mạng mới, cao trào sẽ bùng nổ trong mùa xuân 1975. Nhưng cũng như thường thấy trong mọi đêm trước của những cao trào, tình hình dường như bỗng trở nên cực kỳ đen tối, có lúc như bế tắc. Đó là bước chuyển mình dữ dội của đêm tối để chuyển sang bừng sáng... 

Ở miền Bắc, đó cũng là một thời gian đặc biệt phức tạp. Địch buộc phải ngừng ném bom, rồi lại ném bom dữ dội hơn; chiến tranh kéo dài; hậu phương lớn phải dốc toàn lực ra cho tiền tuyến lớn chuẩn bị cuộc quyết chiến sau cùng. Mặt khác, trong nền sản xuất, cơ sở của xã hội cũng đã nảy sinh những vấn đề, những mâu thuẫn mới. Quan hệ sản xuất đã được thay đổi, nông thôn đã hợp tác hoá, nhưng việc dừng lại quá lâu trong tình trạng sản xuất nhỏ, mặc dầu đã hợp tác hoá, đã làm phát sinh những ảnh hưởng tiêu cực, có khi có tính cách tàn phá của nó. Trong xã hội, do chiến tranh và do có vấn đề trong nền kinh tế, đời sống khó khăn, những hiện tượng tiêu cực xuất hiện có lúc khá nghiêm trọng. 

Sau năm 1975, tình hình lại có những sự phức tạp khác, trên một mặt nào đó mà nói, còn rộng lớn hơn: những vấn đề dồn lại của một đất nước vừa bước ra khỏi cuộc chiến tranh tàn khốc hơn 30 năm, những vấn đề của một công cuộc cải tạo và xây dựng mới rộng lớn chưa từng có và lập tức bóng đen của một kẻ thù sinh tử mới đã lù lù hiện ra... 

Tất nhiên không phải cứ khi hiện thực trở nên đặc biệt khó khăn phức tạp thì văn học dừng lại, tụt lùi. Trái lại mới phải. Chính những lúc đó càng cần đến tiếng nói sáng suốt, tỉnh táo và tin tưởng của văn học. Cũng chính những cảnh huống xã hội đó cho phép văn học trở nên sâu sắc hơn, mạnh mẽ hơn. Nhưng vấn đề là ở chỗ chính trong những thời điểm bước ngoặt đó, về phía chủ quan của mình, văn học ta đã bộc lộ một số nhược điểm quan trọng, đồng thời chúng ta cũng đã phạm phải một số thiếu sót trong sự chỉ đạo văn học. 

Chính trong thời điểm này, các lực lượng văn học của ta trước nay đã hình thành được một thế bám sâu khá đẹp trên các địa bàn, ở các mũi nhọn của cuộc sống, nay hầu hết đều bị bật ra khỏi các vị trí của mình. Mất liên hệ với đời sống, chúng ta bỗng bối rối mất phương hướng. Hiện nay có thể nói về cơ bản chúng ta không còn, hoặc có rất ít những lực lượng sáng tác, nhất là những cây bút chủ lực, bám sâu trên các địa bàn xung yếu nữa. Có những mảng rất lớn và hết sức quan trọng của đời sống, chẳng hạn như mảng đồng bằng sông Cửu Long nơi đang diễn ra cuộc đấu tranh cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội hết sức sâu sắc, gay go, độc đáo; hoặc như ở Tây Nguyên, một địa bàn chiến lược về kinh tế và quân sự, hoặc như ở phía Tây nam và trong nhiệm vụ quốc tế cao đẹp của chúng ta ủng hộ và giúp đỡ nhân dân Cămpuchia anh em; hoặc cả trên tiền tuyến phía Bắc... hiện nay gần như hoàn toàn vắng bóng các nhà văn chúng ta, những nhà văn từng có truyền thống xông xáo, bám sâu, lăn lộn tích cực trong đời sống chiến đấu và sản xuất của nhân dân. Trong các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp... hiện nay tình hình cũng không khá hơn mấy... Nói gì thì nói, đó là một tình hình không lành mạnh, không thể bào chữa được, một tình hình đáng báo động. Sự lãnh đạo của chúng ta đã không sớm phát hiện ra tình hình này và kiên quyết, kiên trì sửa đổi nó. 

Mặt khác chính đến lúc này đã bộc lộ một chỗ yếu có nguyên nhân lâu dài trong tình hình đội ngũ của chúng ta, đã khá lâu chúng ta không chú trọng đầy đủ việc xây dựng đội ngũ, nhất là lớp nhà văn trẻ. Việc rèn luyện bản lĩnh chính trị, bản lĩnh xã hội của nhà văn bị buông lỏng. Việc học tập nâng cao trình độ mọi mặt của người cầm bút làm không thường xuyên, không có hệ thống, nói chung còn du kích, chắp vá. Một phần do tình hình chiến tranh, một phần do thiếu sót chủ quan của ta, nói chung trong nhiều năm chúng ta không đạt và thực hiện tốt việc xây dựng cơ bản... Cho nên, trước những phức tạp mới của hiện thực, có hình tượng những người cầm bút chúng ta không đủ sức làm chủ tình hình, không đủ sức phân tích đúng đắn, sáng suốt. Nói gì đến cung cấp cho nó một câu trả lời sáng sủa. 

Cả hai mặt đó cộng lại đã sinh ra bối rối trong tâm trạng, trong tình cảm, trong sự suy nghĩ của người viết. Cũng có thể nói, có sự giao động. Khi một người cầm bút giao động, ấy là khi anh ta giao động về nhân vật trung tâm của mình, về con người lý tưởng của mình. Khi anh ta bắt đầu nghi ngờ con người ấy trong hiện thực, hoặc ít ra là anh ta bối rối về họ, từ đó mà giảm lòng tin yêu đối với họ. Cái lòng tin yêu vốn phải cháy bỏng, niềm khao khát đến cháy bỏng vì con người, có cái ấy thì mới bắt đầu có cảm hứng sáng tạo nghệ thuật chân chính, mạnh mẽ. Dĩ nhiên người nghệ sĩ không phải cứ chờ cho đến khi con người trong hiện thực đã thật hoàn hảo, suôi sẻ, khi ở họ cái tốt, cái đẹp đẽ hiện ra thật lồ lộ, minh bạch... thì mới tin và yêu họ. Nếu như vậy thì nói cho cùng cần gì đến nghệ thuật và người nghệ sĩ nữa. Chúng tôi nghĩ nhiệm vụ của nghệ thuật không chỉ là ở chỗ biểu hiện hiện thực như nó đã có, một hiện thực tĩnh tại, mà chính là ở chỗ mô tả hiện thực như là một cái gì có thể thay đổi được và bồi dưỡng lòng tin, sự khát khao mãnh liệt muốn thúc đẩy sự thay đổi ấy. Phải chăng lúc này có tfinh trạng không ít phổ biến là người viết vẫn cứ viết mà không thật tin ở chính điều mình viết ra. "Người là muối mà chính người lại không mặn thì biết lấy gì để muối người". Văn học, nói theo một cách đấy, là lòng tin. Không có lòng tin lớn thì không bao giờ có thể có văn học lớn. 

Nhân đây chúng ta cũng muốn nói rõ: quả là trong thời gian này trong nhiều người viết chúng ta đã có bối rối, giao động, điều ấy đã hạn chế sức chiến đấu của văn học ta nhiều lắm. Hôm nay chúng ta nghiêm khắc nhận rõ thiếu sót đó. Song cũng cần khẳng định rằng: trong văn học ta, ngay ở thời gian này, không có cái gì có thể gọi là "một luồng tà khí", "phản động", "chống Đảng"... như có lúc một số người đã ngộ nhận, càng gây thêm rắc rối. Chúng tôi nghĩ trong hội nghị này chúng ta có thể chính thức báo cáo với Đảng kính yêu của mình như vậy. 

Một mặt khác nữa đã góp phần không ít vào tình hình trì trệ này là sự chậm trễ, sự thô thiển kéo dài trong công tác lý luận và phê bình văn học. Sự thô thiển trước hết ở một điểm rất cơ bản: ở quan niệm về chức năng của văn học. 

Trái với những quan điểm đúng đắn của Đảng, quan niệm này, hoặc có khi được phát biểu chính thức hoặc bàng bạc trong không khí phê bình, lý luận, đánh giá, đã dung tục hoá mối quan hệ giữa hiện thực và văn học. Nó tuyệt đối hoá hiện thực, và kết quả là buộc văn học phải khiếp nhược trước hiện thực, người nghệ sĩ phải khiếp nhược trước đời sống. Như vậy thực chất là nó phủ nhận khả năng cải tạo trở lại hiện thực của con người, của văn học. Nó hạ thấp văn học xuống thành một sự sao chép hiện thực, coi giá trị văn học cao nhất là làm sao cố sao chép cho đúng nguyên hiện thực, có thế thôi. Bởi vì, theo nó, "hiện thực đã tốt, đẹp đến mức không còn gì để có thể tốt, đẹp hơn...". Quan niệm không mác -xít đó đã từng biểu hiện chẳng hạn ở chủ trương tuyệt đối hoá thể "người thật việc thật" trong văn học, muốn lấy đó làm dòng chủ đạo, thậm chí dòng duy nhất của văn học ta. 

Chúng tôi nghĩ viết người thật việc thật là một chủ trương đúng và tốt. Nó giúp chỉ ra cho văn học một hướng lớn của đời sống, giúp văn học hướng sự chú ý tập trung của mình đến nơi tiền tiến nhất của cuộc chiến đấu. Nhưng tuyệt đối hoá nó thì lại rất sai. Và ngay trong việc viết người thật việc thật cũng cần phải hiểu đúng hơn. 

Văn học bắt nguồn từ cuộc sống, thu hút không những nguyên liệu mà cả linh hồn các tác phẩm của mình từ đấy, nhưng đến lượt nó, nếu như nó muốn có ích, muốn phục vụ trở lại cuộc sống, thì nó lại phải sáng tạo ra một cái gì đó khác, mới mẻ, chưa từng có, cao hơn về chất so với cái nguyên liệu cuộc sống đã cung cấp cho nó. Ăn dâu nó phải nhả ra tơ. Nếu nó lại nhả ra những cái lá dâu thì bản thân sự có mặt của nó thành vô nghĩa. Ngay cả những tác phẩm viết về người thật việc thật cũng không thể thoát khỏi cái luật biện chứng của sự sáng tạo đó. Người thật việc thật dẫu đã cao đến mấy, khi đi vào tác phẩm văn học vẫn phải được sáng tạo lại, trở nên cao hơn. Lý do rất đơn giản: chính những con người tốt đẹp của chúng ta vẫn luôn luôn khát khao mong ước tự hoàn thiện mình không ngừng. Vả chăng, điều mà nhà văn muốn phản ánh sinh động trong tác phẩm của mình, nói cho thật đúng ra, không phải là những hình tượng của hiện thực, mà là những qui luật sâu xa của hiện thực. Người nghệ sĩ luôn luôn có khát vọng muốn nhận ra, chỉ ra bằng những qui luật bí ẩn và đẹp đẽ nào mà cuộc sống lại sáng tạo ra được những điều kỳ diệu đến thế. 

Quan niệm thô thiển về mối quan hệ giữa hiện thực và văn học dẫn đến tai hại: Khi trong hiện thực có những sự phức tạp, những mặt đấu tranh phức tạp, thì nhà văn dễ đâm ra hoang mang, mất hết lòng tự tin ở chính nghề nghiệp của mình, chức năng xã hội của mình, và anh ta sẽ đành lòng làm ra một thứ văn chương "phải đạo" nhuốn đầy màu sắc chủ quan. 

Quan niệm thô thiển về chức năng của văn học cũng dung tục hoá mối quan hệ giữa văn học và chính trị. Nó tuyệt đối hoá chính trị, tuyệt đối hoá sự chi phối tất yếu của chính trị đối với văn học, mà quên rằng với tư cách là những hình thái ý thức xã hội, chính trị và văn học, qua những sự khúc xạ gần xa khác nhau đều là phản ánh hiện thực đấu tranh xã hội. Chúng tôi nghĩ Đảng không bao giờ đòi hỏi văn học nghệ thuật minh hoạ chính trị, trái lại Đảng yêu cầu, còn cao hơn nhiều, văn học nghệ thuật với sức mạnh riêng của nó, làm phong phú thêm cho chính trị bằng những khám phá và sáng tạo của riêng mình, không thay thế được... 

Có lẽ điều đáng lo hơn cả trong tình hình công tác lý luận, phê bình văn học thô thiểu kéo dài, là ở chỗ nó đã tạo nên có thể nói là những định kiến xã hội đơn giản; dung tục đối với văn học, xói mòn năng lực thẩm mỹ của người đọc, mặt khác thấm cả vào chính người cầm bút, xói mòn ý chí sáng tạo, dũng khí sáng tạo nghệ thuật và ý thức trách nhiệm xã hội đúng đắn của nhà văn, tạo nên sự cản trở vừa ở ngoài họ, quanh họ, vừa ở trong chính họ. Phải chăng chính đây là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến những lối làm ăn tệ hại, hết sức đáng trách, thiếu phẩm chất trong một số người cầm bút mà chúng ta đang hết sức lo lắng. 

Một nguyên nhân khác nữa đã hạn chế những thành tựu của văn học ta vừa qua là ở sự chỉ đạo cụ thể đối với sáng tác. Nói chung vừa qua, trong chỉ đạo sáng tác, chúng ta còn dừng lại ở chỉ đạo đề tài, chưa đi sâu vào chỉ đạo chủ đề, hoặc có thì cũng còn khá chung chung. Chỉ đạo đề tài là rất quan trọng. Buông lỏng chỉ đạo đề tài thì sẽ dễ dẫn đến phủ nhận chức năng xã hội của văn học. Đánh đồng tất cả các đề tài tức là phủ nhận sự cần thiết văn học phải luôn luôn hướng vào những mũi nhọn nhất của đời sống và như vậy cũng không thể nhận ra đúng đắn, sâu sắc những chủ đề lớn, những nội dung lớn của đời sống. Song, nhất là khi trong hiện thực diễn ra những biến động sâu, mạnh, phức tạp, thì việc chỉ đạo chủ đề càng có ý nghĩa quyết định. Chỉ đạo chủ đề tức là giúp cho người nghệ sĩ sớm nhận ra cái cốt lõi bên trong của sự vận động của hiện thực, mò ra qui luật của nó, từ đó, dưới cái vỏ biểu hiện bên ngoài là đề tài, có thể mô tả nó không hời hợt, không hình thức, không bối rối... 

Hôm nay, trong hội nghị này, chúng ta muốn nghiêm khắc nhìn lại những thiếu sót trên đây của văn học ta vừa qua, là để, với tư cách là những người cầm bút của Đảng, tức là những người vừa là những người chiến sĩ của Đảng trên mặt trận văn học, vừa là bộ phận tham mưu của Đảng trên mặt trận này, chúng ta nhận rõ hơn trách nhiệm của mình, cố gắng cùng nhau khắc phục những thiếu sót đó, đưa văn học ta tiến lên ngày càng ngang tầm nhiệm vụ của nó. 


II. Về phương hướng nhiệm vụ của văn học trong tình hình mới 

Từ sau Đại thắng mùa xuân 1975, đất nước ta đã bước sang một giai đoạn lịch sử mới. Kết thúc vẻ vang quá trình lâu dài đấu tranh giải phóng dân tộc, chúng ta chuyển sang thời kỳ lịch sử xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cả nước. Đặc điểm lớn nhất của giai đoạn cách mạng này là: "... nước ta đang ở trong quá trình từ một xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa". Đặc điểm lớn nhất ấy "nói lên ra thực chất của quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta và qui định nội dung chủ yếu của quá trình đó" (Nghị quyết Đại hội IV). 

Từ mùa xuân 1975 đến nay, thêm 4 năm đã trôi qua. Trong 4 năm ấy, lại đã có những biến động mới to lớn trong tình hình chung, trong đó quan trọng hơn cả là sự xuất hiện, trong thời kỳ được gọi là "thời kỳ sau Việt Nam", một kẻ thù mới của cách mạng thế giới, kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm của nhân dân ta. Nó là chủ nghĩa bành trướng đại dân tộc Trung Quốc. Trong 4 năm, chúng ta tiến hành hai cuộc chiến tranh xâm lược nước ta ở biên giới phía Tây nam và ở biên giới phía Bắc. Mặc dù bị thất bại nhục nhã, song âm mưu cơ bản của chúng là thôn tính nước ta, khuất phục nhân dân ta vẫn chưa hề thay đổi. Chừng nào ở Trung Quốc vẫn còn ban lãnh đạo theo chính sách bá quyền, bành trướng thì nguy cơ chiến tranh trực tiếp đối với nước ta vẫn còn nguyên vẹn. Cuộc chiến đấu của nhân dân ta còn lâu dài, gian khổ, phức tạp... Đó là một đặc điểm lớn nữa của tình hình nước ta hiện nay. 

Hai đặc điểm lớn trên đây đang chi phối toàn bộ quá trình vận động xã hội Việt Nam chúng ta trong cả thời kỳ lịch sử này. Đứng ở trung tâm của cuộc vận động xã hội mới, lại cũng rất quyết liệt, khẩn trương, phức tạp này, là con người Việt Nam của thời kỳ mới. 

Nói về phương hướng nội dung của văn học trong thời kỳ mới hiện nay, chúng ta muốn trước hết tập trung sự suy nghĩ phân tích của chúng ta vào con người ấy, nhân vật trung tâm của nền văn học mới, đối tượng thể hiện và đối tượng phục vụ của văn học ta hiện nay. Chúng ta muốn cố gắng từng bước nhận ra diện mạo tinh thần mới của họ, ước đoán ra khuôn mặt mới của họ, và hơn thế nữa chúng ta muốn hình dung cuộc đấu tranh vận động tiến lên mới chắc hẳn là rất khó khăn mà rất đẹp đẽ của họ, bởi vì khát vọng tha thiết của chúng ta, người cầm bút chính là được tham gia vào cuộc đấu tranh đó, góp thêm một tiếng nói trợ lực, một sức mạnh dù là nhỏ giúp họ đi tới, giúp họ sớm tự hình thành, tự định hình, tự khẳng định. Con người mới ấy, như Đảng đã chỉ rõ, sẽ là kết quả tổng hợp cả 3 cuộc cách mạng: cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá. Đảng cũng đã sớm chỉ ra cho chúng ta hình dạng tinh thần tổng quát của con người mới ấy, đó là con người lao động Việt Nam là chủ tập thể xã hội chủ nghĩa. 

Như chúng ta đều biết, làm chủ, đó là vấn đề lâu dài, là cuộc đấu tranh vật lộn lâu dài của con người. Quả vậy, trong những buổi ban đầu hoang sơ, vừa bước ra khỏi tình trạng thú vật, con người sống trong những bầy đàn. Đó là một cái số đông vô danh, trong ấy chưa phân rõ những cá thể riêng biệt. Song chính ngay từ buổi hoang muội đó, con người đã bắt đầu có cái yêu cầu tự nhận ra mình, tự phân biệt mình với thế giới chung quanh, tự phản ánh mình, tìm ra, hiểu ra hình ảnh của chính mình, nhận ra những năng lực, những khả năng, sức mạnh của chính mình, khẳng định mình trên những vật mà con người tác động đến, bằng lao động của mình. Cái yêu cầu tự phân biệt, tự khẳng định mình đó là một yêu cầu bức thiết, có tính người, ngay từ buổi đầu và sẽ diễn ra trong suốt quá trình lịch sử lâu dài của con người... Mà khi con người bắt đầu xuất hiện thì lập tức nghệ thuật cũng xuất hiện. Bởi vì nghệ thuật chính là một hành động của con người tự nhận ra chính mình. Cái yêu cầu tự khẳng định, tự giải phóng mãi mãi những năng lực vô tận của chính mình, làm chủ số phận của mình ngày càng cao hơn, chính cái yêu cầu vĩnh viễn đó, đã thúc đẩy con người mãi mãi tiến lên. 

Song cũng từ đây đã bắt đầu tấn "bi kịch" kéo dài hàng nghìn, hàng vạn năm của lịch sử con người. Do những hạn chế lịch sử nhất định, cứ mỗi bước con người tiến lên tự khẳng định mình thêm một nấc, mạnh hơn, rõ hơn, sâu hơn thì đồng thời cũng là thêm một bước nó đối lập trở lại gay gắt hơn với cái bầy đàn ngày xưa của nó, với đồng loại của nó. Mỗi một bước cá thể được giải phóng ra là thêm một bước nó đối lập lại với tập thể, với số đông, với xã hội sâu sắc hơn. Có lẽ chính là trong ý nghĩa đó mà Engels đã có câu nói sâu sắc: "Lịch sử loài người từ khi có giai cấp là lịch sử mà mỗi bước tiến là một bước lùi tương đối”. Tiến lên một bước trên con đường trở nên người hơn thì đồng thời nó cũng bị tha hoá đi thêm một phần, mất tính người bớt đi một phần. Lịch sử con người từ hàng nghìn, hàng vạn năm nay, theo một cách nào đó, cũng có thể nói là lịch sử một cuộc đấu tranh lâu dài ngày càng gay gắt, quyết liệt với chính đồng loại của nó, cuộc đấu tranh lâu dài của cá thể với số đông, của mỗi con người với toàn xã hội... Cho đến cuộc cách mạng tư sản thì sự khẳng định cá nhân con người trở nên quyết liệt nhất, sự "giải phóng", "làm chủ" của cá nhân trở rực rỡ nhất, nhưng dần dần cũng trở nên cực đoan nhất, sự đối lập của cá nhân với xã hội cũng trở nên triệt để nhất, mỗi một cá nhân đối lập quyết liệt, triệt để với toàn thể xã hội. Và tấn bi kịch kéo dài suốt lịch sử đến đây trở nên thảm khốc hơn bao giờ hết. Chưa bao giờ con người tự thấy năng lực của nó to lớn đến thế, chưa bao giờ nó làm chủ được những lực lượng vật chất khổng lồ đến thế, thì đồng thời cũng chưa bao giờ nó cũng trở nên bơ vơ, cô đơn đến thế. Sự tha hoá của con người đạt đến mức cùng cực. Cuối cùng nó rơi vào trong cái vực thẳm của chính nó. Chúng ta đã từng thấy tình trạng bi đát cùng cực này được phản ánh như thế nào trong nền văn học tư sản, dưới mọi màu sắc. Đó là tình trạng của con người trong cái đêm trước của buổi bình minh chủ nghĩa xã hội. 

Bài toán đó, tất nhiên, cũng đặt ra đối với chúng ta khi chúng ta bước vào chủ nghĩa xã hội với những đặc điểm riêng của đất nước ta. Từ sản xuất nhỏ đi thẳng lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, chúng ta đang giải đáp bài toán này như thế nào? 

Bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, chúng ta "bỏ qua", chúng ta tránh cho con người chúng ta phải rơi vào tấn thảm kịch mà xã hội tư sản đã lâm vào. Song, cái công việc khẳng định toàn diện của cá nhân, phát triển đến cao nhất mọi năng lực của mỗi con người, giải phóng mọi sức mạnh và cá tính sáng tạo phong phú, độc đáo của từng con người, thì từ con người của nền sản xuất nhỏ đi lên phải chăng chúng ta nhất thiết phải làm, hơn nữa phải làm rất mạnh, rất nhiều, rất toàn diện. 

Bước lên vũ đài lịch sử, một trong nhiệm vụ to lớn và đẹp đẽ nhất của chủ nghĩa xã hội, về mặt con người, là nó phải - và chỉ có nó mới làm được công việc này - chấm dứt cuộc xung đột lâu dài giữa con người và xã hội đó, trả con người trở lại với toàn xã hội, với tập thể, đưa con người thống nhất trở lại với tập thể. Nhưng đây là một sự thống nhất có chất lượng hoàn toàn mới mẻ, một sự thống nhất không xoá nhoà cá nhân, một sự thống nhất trong đó mỗi cá nhân không phải là một đơn vị vô danh, mù mờ, không màu sắc; trái lại mỗi cá nhân đều long lanh những sắc màu riêng độc đáo nhất, được tự do phát triển và do đó năng lực sáng tạo to lớn của mỗi cá nhân đều đạt đến chỗ cao nhất. Chủ nghĩa xã hội chỉ có thể thật sự là chủ nghĩa xã hội chân chính nếu nó đảm bảo sự phát triển tự do và toàn diện của mỗi cá nhân. Và mỗi một con người chỉ thật sự là con người xã hội chủ nghĩa khi được phát triển đến cao nhất bản sắc của riêng nó, nó lại hoà hợp với toàn xã hội ở mức độ rất cao. Có thể nói đây là lần đầu tiên, sau hàng nghìn, hàng vạn năm, con người lại trở lại với cái gốc của nó, và trong cuộc tái ngộ kỳ diệu này, cả hai, xã hội và con người, đều đã lớn vượt hẳn lên, mạnh mẽ và đẹp đẽ biết bao nhiêu. Cũng chính vì thế toàn xã hội đều phát triển đến mức cao nhất, ở đó không còn sự đối lập lâu đời giữa cá nhân và xã hội, ở đó sự làm chủ của từng con người là một bộ phận, một điều kiện, một thành phần tất yếu của sự làm chủ của toàn xã hội. Ở đó lịch sử con người tiến lên mà không còn có bước lùi tương đối nào nữa. Xã hội, có thể nói, lần đầu tiên thực sự là xã hội loài người. Đó là một bài toán cực kỳ khó khăn, cũng cực kỳ lý thú, đẹp đẽ mà chủ nghĩa xã hội phải trả lời. 

Nhìn từ góc độ ấy chúng ta dễ nhận rõ cuộc đấu tranh xây dựng con người trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa về cơ bản là cuộc đấu tranh xây dựng mối quan hệ mới về chất giữa cá nhân và xã hội, giữa từng con người và tập thể. 

Đi vào cách mạng xã hội chủ nghĩa, tất nhiên xã hội ta cũng phải giải quyết mối quan hệ rất cơ bản đó. Nhưng bài toán ở đây cũng có chỗ khác hơn. Chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội trong tình hình có một đặc điểm lớn nhất là: từ một nền sản xuất nhỏ - nền sản xuất của nước vừa thoát ra khỏi chế độ phong kiến và nửa thuộc địa, vừa thoát ra khỏi một cuộc chiến tranh hết sức ác liệt, lâu dài - chúng ta tiến thẳng lên sản xuất lớn chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Tận dụng những điều kiện của thời dại, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chúng ta bỏ qua cả một giai đoạn lịch sử, cả một chế độ xã hội. Đó là một hạnh phúc lớn của dân tộc. Song cũng chính vì vậy mà có thể nói, ngày nay chúng ta phải làm, trong một cuộc cách mạng, nội dung của cả hai cuộc cách mạng gộp lại. Cụ thể là chúng ta phải xây dựng cho kỳ được một nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. 

Về phương diện con người, sự "bỏ qua" này là như thế nào? Chúng tôi nghĩ phải chăng đó là bài toán lớn mà chúng ta phải giải đáp. Phải chăng vấn đề chủ yếu là ở chỗ: từ những con người của một nền sản xuất nhỏ, tức là những con người mà năng lực làm chủ còn hết sức hạn chế, phương thức làm chủ và do đó ý thức làm chủ, trách nhiệm làm chủ còn rất nhỏ hẹp, phân tán, rời rạc, con người vốn chỉ quen sống và lao động trong những tập thể nhỏ bé, yếu ớt, mới chỉ quen ý thức được vị trí của nó trong những phạm vi rất hạn chế, rời rạc, cô lập lẫn nhau đó..., chúng ta phải vượt lên xây dựng con người làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, tức là những con người của một nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, chiếm lĩnh được những năng lực làm chủ to lớn mạnh mẽ, có ý thức về vị trí của mình trong cả một nền sản xuất xã hội hoá cao.

Như chúng ta đều biết, xu hướng tự phát của nền sản xuất nhỏ là phát triển lên chủ nghĩa tư bản. Chính cái xu hướng tự phát đó đã từng kích thích ghê gớm niềm háo hức của con người phát triển dữ dội những năng lực của riêng mình, đặng chiếm lĩnh về mình tất cả thế giới chung quanh, đã từng kích thích niềm say mê đến tàn bạo của con người chiếm đoạt tất cả, tất cả cho riêng mình, cho cái cá nhân ích kỷ đến tuyệt đối của mình. Nó đã từng kích thích ghê gớm cái "tinh thần trách nhiệm" cá nhân muốn lao lên làm chủ tất cả vì cá nhân... Và, cũng éo le thay, khi cái mục đích của sự chiếm đoạt, sự làm chủ ấy - tức là làm chủ cho riêng cá nhân mình - không còn, không đạt được, thì tất cả bỗng đổ sụp, cả niềm say mê và trách nhiệm. Tất cả chỉ còn là sự uể oải nặng nề, một sự thờ ơ lạnh nhạt... 

Vấn đề của chúng ta ngày nay phải chăng là ở chỗ thay đổi về chất niềm say mê ấy bằng việc thay đổi về cơ bản mục tiêu của nó, chứ tuyệt đối không phải là xoá bỏ nó đi. Vấn đề của chúng ta ngày nay là kích thích niềm khao khát của con người tự phát triển năng lực sáng tạo cá nhân của mình đến cao nhất để chiếm đoạt toàn bộ thế giới chung quanh, làm chủ nó, cho tất cả, cho xã hội, cho mọi người. Chứ không phải là xoá bỏ niềm khát khao tự phát triển năng lực sáng tạo của mỗi cá nhân đi, tạo nên một thứ tập thể vô danh, nặng nề, đồng loạt và do đó, yếu đuối. Tập thể mà sinh động, tập thể mà tinh nhuệ. 

Như chúng ta đã có thể thấy trong thực tiễn, đó là một công việc cực kỳ khó khăn, bởi vì chúng ta phải xây dựng nên những con người thật là mới, vừa là kế tục cuộc đấu tranh vất vả tiến lên lâu dài của con người, vừa cũng là chưa từng có, con người thật sự được giải phóng, thật sự hạnh phúc. Đó cũng chính là thực chất chủ nghĩa nhân văn cộng sản chủ nghĩa của chúng ta. 

Sự vận động của lịch sử cũng thật kỳ lạ. Nó đã đưa chúng ta, trong cuộc đấu tranh đầy tính nhân đạo cộng sản này, đến giáp mặt với một kẻ thù mới như là kẻ đối lập tuyệt đối của lý tưởng chúng ta: ấy là bọn phản động bành trướng đại dân tộc Trung Quốc. Không phải ngẫu nhiên mà, một lần nữa, chúng ta lại gọi cuộc giáp mặt này là một cuộc đụng đầu lịch sử. Những gì đã diễn ra ở Cămpuchia trong 3 năm dưới sự thống trị của bọn Pônpốt-Iêngxari, tay sai của bọn cầm quyền Bắc Kinh đã làm bộc lộ khá rõ thực chất của chủ nghĩa Mao, cái lý tưởng xã hội kỳ quặc và khủng khiếp của nó. Cái xã hội mà chúng lập nên ở Cămpuchia là một hình ảnh điển hình, một mô hình khá toàn diện và đầy đủ của chủ nghĩa Mao. Cốt lõi của cái kiểu "xã hội" ấy là sự thủ tiêu chính xã hội, thủ tiêu con người với tư cách sơ đẳng nhất là con người, thủ tiêu triệt để mọi quan hệ xã hội của con người cho đến những quan hệ sơ đẳng nhất, phá vỡ tận gốc mọi quan hệ xã hội mà con người đã xây dựng được trong suốt lịch sử tiến lên hàng vạn năm của mình, đẩy lùi con người trở lại tình trạng bầy đàn tăm tối nhất. Trong cái gọi là chủ nghĩa tập thể ấy thực chất không còn có tập thể của những con người, chỉ còn có số đông vô danh, vô thức, vô tri. Ở đây con người hoàn toàn bị mất đi, thậm chí đến một cái dấu hiệu, một tín hiệu nhỏ nhoi nhất về con người cũng không còn. Cứ theo cái đà ấy có lẽ không lâu lắm nữa đâu, ngôn ngữ của con người cũng sẽ biến mất đi nốt. Điều rất đáng suy nghĩ ở Cămpuchia là, ngay giữa thế giới hiện đại này, giữa thế kỷ 20 này, mà chỉ trong 3 năm thôi, chủ nghĩa Mao đã có thể gây ra một tai hoạ khủng khiếp đến thế trên một đất nước có truyền thống văn minh lâu đời và huy hoàng đến thế, một thảm hoạ chưa từng có trong lịch sử. Rõ ràng có một mối hoạ lớn và thực tế đang đe doạ loài người, chính ngay trên ngưỡng cửa của giai đoạn giải phóng cao nhất của nó, giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa. 

Điều đặc biệt có ý nghĩa đối với chúng ta là chính tấm gương phản diện khủng khiếp chủ nghĩa Mao, lại càng làm sáng tỏ con đường cách mạng sáng ngời của chúng ta, và riêng trên lĩnh vực con người, càng làm sáng tỏ quan điểm và con đường đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta về xây dựng xã hội mới, con người mới. Con người làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của chúng ta đối lập triệt để với cái lối con người tăm tối vô danh man dại kiểu Mao. 

Cho nên, nếu suốt trong các quá trình cách mạng liên tục của chúng tnữa, nhiệm vụ xây dựng con người bao giờ cũng mang ý nghĩa chiến đấu, qua chiến đấu mà xây dựng con người và xây dựng con người để ngang tầm với nhiệm vụ chiến đấu từng lúc, thì lần này ý nghĩa ấy càng hết sức rõ rệt, sâu sắc. Bởi vì lần này cuộc đấu tranh quyết liệt lâu dài chống bọn ngoại xâm phương Bắc lại cũng chính là cuộc đấu tranh để bảo vệ lấy con đường cách mạng đúng đắn của chúng ta, bảo vệ chính cái cốt lõi thiêng liêng của chủ nghĩa xã hội, bảo vệ và khẳng định cách sống Việt Nam, con người mới Việt Nam. 

Trên đây chúng ta đã cố gắng phân tích một số nét chủ yếu trong nội dung cuộc đấu tranh mới, cuộc vận động cách mạng mới đang diễn ra trên đất nước ta ngày nay. Đó cũng chính là phương hướng nội dung của văn học ta trong thời kỳ mới, hoặc cũng có thể nói những mục tiêu chiến đấu quan trọng của văn học ta ngày nay. Rõ ràng so với trước, nội dung văn học đang đòi có một sự phát triển mới, văn học đứng trước những nhiệm vụ mới, sâu hơn, cao hơn, cũng có thể nói, bản chất hơn.

Chúng tôi nghĩ điều này sẽ chi phối toàn bộ các mặt chủ trương và công tác khác của văn học ta hiện nay. 

*

Ngoài việc nhận thức về phương hướng nội dung của văn học trong thời kỳ mới như trên, chúng tôi nghĩ, để làm tốt hơn nhiệm vụ của mình, có lẽ cũng còn có một số điểm chúng ta cần bàn bạc, làm sáng tỏ ra thêm về chức năng của văn học trong đời sống, trong cuộc chiến đấu chung. Trước đây đã nhiều lần chúng ta thảo luận về vấn đề này và đã cùng nhau xác định một số chức năng chủ yếu của văn học, như chức năng nhận thức, chức năng giáo dục, chức năng thẩm mỹ v.v. Bây giờ chúng ta muốn cố gắng tìm hiểu sâu thêm một ít nữa về vấn đề này. 

Thực tế đời sống đã cho thấy rằng nhu cầu văn học nghệ thuật quả thực là một nhu cầu không thể thiếu được của con người, thậm chí có thể coi đó như một trong những điều kiện tồn tại của con người. Con người càng phát triển cao thì nhu cầu về điều kiện tồn tại này càng lớn, càng bức thiết. Vì sao vậy? 

Như chúng ta đều biết: văn học phản ánh đời sống. Song vấn đề ở đây là nó phản ánh cái gì vậy trong đời sống, mà đến nỗi sự có mặt của nó lại cần thiết, bức thiết đến thế đối với con người? Chúng tôi nghĩ văn học phản ánh đời sống, song cái mà nó sao chép lại, cái mà nó "bắt chước" (nếu có thể nói như vậy) không phải là chính đời sống ấy. Cái mà nó bắt chước là sự sáng tạo ra đời sống. Nó luôn luôn luôn cố gắng tìm học lấy bằng những cách thức nào, bằng những qui luật kỳ diệu nào mà đời sống đã được sáng tạo ra đẹp đẽ lạ lùng như vậy. Cái mà văn học cố gắng phản ánh chính là sự sáng tạo ra đời sống, chứ không phải chính đời sống, như thường đã bị hiểu nhầm. Học lấy những cách thức, những qui luật huyền diệu do đó mà đời sống đã được sáng tạo nên, hướng theo những qui luật ấy, trong những tác phẩm của mình, con người lại sáng tạo ra một thế giới khác tương đương với thế giới có thực bên ngoài.

Cho nên, có thể nói, chức năng tập trung nhất của văn học, tác dụng cuối cùng và độc đáo của nó là, như một tấm gương sáng về sự sáng tạo, nó kích thích ở con người sự sáng tạo, niềm khát khao sáng tạo, ý chí sáng tạo. Nó giúp cho con người tự giải phóng những năng lực sáng tạo vô tận của mình. 

Nếu chúng ta nhất trí rằng cái cốt lõi của chủ nghĩa làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa là giải phóng đến cao nhất mọi năng lực sáng tạo độc đáo của từng con người gắn liền với toàn xã hội, thì phải chăng chính đến lúc này đây văn học, bao giờ hết, vừa có điều kiện vừa phải đi sâu hơn cả, đi đúng hơn cả vào chức năng của nó. Tự bản thân nó phải thật sự làm chủ, thật sự sáng tạo, mỗi nhà văn, mỗi tác phẩm đều phải thật sự có sự tìm tòi công phu, sâu sắc, đều phải độc đáo sáng tạo. 

Nhận thức này rất cao đối với văn học ta ngày nay, liền đặt ra một loạt những yêu cầu nhiều mặt mà văn học phải phấn đấu đáp ứng. Trong đó có lẽ rất quan trọng là yêu cầu đối với người nghệ sĩ - nhà văn. Rõ ràng nhà văn phải là người làm chủ, người sáng tạo. Phải từ bỏ trước hết mọi thái độ thụ động, bị động trước cuộc sống. Phải phấn đấu rất cao, không ngừng để tự mình chiếm lĩnh những năng lực làm chủ ngày càng lớn. Phải gắn mình với toàn bộ cuộc đấu tranh xã hội. Phải xác định vững chắc trách nhiệm làm chủ mạnh mẽ của mình. 

*

Trên đây chúng ta đã phân tích một số điểm chủ yếu về phương hướng, nội dung, nhiệm vụ của văn học ta hiện nay. 

Để thực hiện tốt những phương hướng ấy, vấn đề rất quan trọng phải giải quyết là vấn đề lực lượng, vấn đề đội ngũ của chúng ta. 

Bước vào cuộc chiến đấu mới ngày nay, chúng ta đã có một đội ngũ văn học khá đông đảo, khá từng trải, được rèn luyện, nhiều kinh nghiệm, gồm nhiều thế hệ nối tiếp.

Chúng ta có một lực lượng rất quí những nhà văn đã cầm bút từ trước cách mạng tháng Tám, đã đi suốt cùng cuộc chiến đấu quyết liệt gian khổ của Đảng, của nhân dân mấy mươi năm qua, vừa rèn luyện mình trong cuộc chiến đấu ấy vừa tích cực tham gia cuộc chiến đấu đó bằng hoạt động văn học và hoạt động xã hội của mình, đã góp phần quan trọng dìu dắt, đào tạo những thế hệ tiếp sau. Một số trong những nhà văn ấy đến nay vẫn còn sung sức sáng tạo. 

Chúng ta có lực lượng những nhà văn được hình thành từ cuộc kháng chiến chống Pháp, đã là đội ngũ chủ lực của thời kỳ văn học chống Mỹ cứu nước, có đóng góp quan trọng. 

Chúng ta có lực lượng đông đảo những nhà văn trẻ bắt đầu cầm bút từ giữa những năm đánh Mỹ ác liệt, đang là lực lượng hoạt động nhất của văn học ta hiện nay.

Gánh vác những nhiệm vụ mới ngày nay của nền văn học, chúng ta có cả 3 thế hệ đó, mỗi thế hệ đều có những chỗ mạnh riêng của mình, đều có vị trí độc đáo của mình.

Vấn đề chúng ta muốn đề cập ở đây hôm nay là, đứng trước nhiệm vụ mới, trong đội ngũ đông đảo của chúng ta, chúng ta muốn cùng nhau xác định lực lượng nào sẽ phải là lực lượng trung tâm chịu trách nhiệm lớn nhất, đồng thời cũng có nhiều điều kiện, nhiều khả năng hơn cả giải quyết những nội dung mới của cuộc chiến đấu trên mặt trận văn học mà chúng ta đã phân tích trên kia.

Mỗi một giai đoạn cách mạng, bao giờ cũng vậy, lại làm xuất hiện những lực lượng mới giữ vai trò trung tâm giải quyết những nhiệm vụ mới của giai đoạn ấy. Mỗi một giai đoạn văn học cũng vậy. Trong giai đoạn mới này của văn học ta, chúng tôi nghĩ, lực lượng trung tâm đó phải là lực lượng mà ta thường gọi là lực lượng các nhà văn trẻ, lực lượng các nhà văn hình thành chủ yếu từ cuộc chống Mỹ cứu nước. Lực lượng ấy phải tiến lên trở thành đội ngũ chủ lực của giai đoạn văn học mới này. Tất nhiên như vậy, tuyệt nhiên không hề có nghĩa là chúng ta phủ nhận, loại bỏ vị trí của tất cả những người cầm bút khác. Rất có thể nhiều nhà văn thuộc các lớp trước sẽ sáng tạo nên những tác phẩm xuất sắc nhất của mình trong chính những năm tháng hiện nay và sắp tới. Song những vấn đề của hôm nay, cũng tất nhiên, dẫu sao chính những người đang sống ở trung tâm của cuộc sống hôm nay mới có đầy đủ nhất những điều kiện để giải quyết tốt nhất.

Cho nên chúng ta muốn cố gắng phân tích kỹ hơn chính những điều kiện đó.


Có lẽ một trong những đặc điểm cũng là một chỗ mạnh quan trọng của lực lượng này là, khác các thế hệ trước, nói chung họ sinh ra hoặc bước vào đời sau Cách mạng tháng 8, cuộc đời của họ nói chung hoàn toàn thuộc về chế độ mới, chính họ là thành quả của cách mạng, những vấn đề của cuộc đời họ là những vấn đề của chính thực tế cách mạng vài chục năm nay, như có người nói rất đúng "họ là con đẻ của Đảng, do Đảng đứt ruột đẻ ra". Tuổi trẻ của họ, hay là sự chuẩn bị của họ chính là trường học lớn và dữ dội của cuộc chống Mỹ cứu nước. Và điều quan trọng hơn nữa, ngày nay họ đang là người đương thời trực tiếp của cuộc chiến đấu mới hôm nay. Họ đang ở trung tâm của cuộc chiến đấu đó. Những vấn đề đang đặt ra ở trung tâm cuộc chiến đấu hôm nay đang đặt ra cho chính họ, ở đúng cái tuổi trưởng thành và sung sức nhất của họ. Hơn ai hết họ có điều kiện nghe rõ hơn, tập trung hơn những câu hỏi bức thiết của cuộc sống bây giờ, bởi vì, cũng giản đơn thôi, những câu hỏi ấy trước hết là hỏi họ. Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ư? Chính họ phải cầm súng. Đổ máu ư? Chính là máu của họ. Xây dựng ư? Chính bàn tay họ phải làm, mồ hôi họ phải đổ. Xây dựng con người mới làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa ư? Chính họ phải trước hết trở nên những con người như vậy... 

Nói những điều trên đây, chúng tôi nghĩ, trước hết chúng ta muốn nói lực lượng các nhà văn trẻ chúng ta hiện nay phải có ý thức đầy đủ về vị trí và nhiệm vụ lịch sử ấy của mình, từ đó mà có trách nhiệm đầy đủ đủ với vị trí và nhiệm vụ đó. Họ phải làm chủ. Và từ đó họ phải đối chiếu mình với nhiệm vụ, phấn đấu rất cao tự xây dựng mình cho ngang tầm với nhiệm vụ ấy. 

Rõ ràng hiện nay so với tầm cỡ nhiệm vụ mới đó, lực lượng sẽ là lực lượng chủ lực của chúng ta có rất nhiều chỗ còn bất cập. Từ sau mùa Xuân 1975, cũng như các lực lượng khác, nói chung họ cũng bật ra khỏi các mũi nhọn của đời sống. Họ cũng đã rời các địa bàn xung yếu của cuộc chiến đấu. Cho nên là những lực lượng mới nhưng chưa chắc họ đã nghe được dúng được thấu những câu hỏi mới của cuộc sống. Trở lại ngay các mũi nhọn đời sống quả là một việc cấp bách. 

Mặt khác do khuyết điểm kéo dài nhiều năm của chúng ta trong việc chăm lo đào tạo bồi dưỡng thế hệ nhà văn trẻ, nên ngày nay khoảng cách giữa trình độ các mặt của anh chị em, trình độ chính trị, văn hoá, kiến thức chung, nghề nghiệp... so với nội dung của nhiệm vụ mới còn khá xa. Khoảng cách này có thể nói có lúc đã đến mức báo động, và đòi hỏi một nỗ lực rất lớn, kiên quyết, kiên trì mới giải quyết được.

Còn một vấn đề khác nữa: vấn đề tư cách xã hội, ý thức trách nhiệm xã hội của người cầm bút trong một số không ít anh chị em. Do chưa nhận rõ ra nội dung mới của cuộc đấu tranh, nhiệm vụ mới mà thế hệ mình phải đảm nhiệm, nên việc tu dưỡng rèn luyện phẩm chất của người nghệ sĩ cách mạng có bị xao lãng, hoặc không có phương hướng đúng đắn, rõ rệt... 

Phải chịu trách nhiệm về những hạn chế không nhỏ trên đây, chúng tôi nghĩ, vừa có phần là của chính từng anh chị em trong đội ngũ trẻ, vừa có phần quan trọng là ở những người lãnh đạo chúng ta. 

Chúng ta nhất thiết phải phấn đấu khắc phục và nhất định sẽ khắc phục được, tạo nên một sinh khí mới trong nền văn học chúng ta. 

1979

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét