Thứ Hai, 22 tháng 4, 2019

Phận hoa bên lề

(Trích) Gần với con người lắm, lẫn giữa con người, vây bọc con người, nhưng lau sậy thì cực kỳ cô đơn. Mùa nối mùa chẳng người nào ngó ngàng tới. Một năm chỉ một lần, lúc thân sậy già, ngã màu vàng, rám nắng, má tôi mới đi lựa đám sậy tốt nhất, chặt về vài bó, dìm dưới ao, đợi sa mưa ôm lên đồng cặm gò sạ lúa. Sậy còn tươi mà đem cắm lên đất thì lúa chưa xanh thân sậy đã mọc nhánh rồi. Cứ sống mãnh liệt vậy, nên những thân sậy người ta dùng dây bện chặt thành những tấm đăng rào nhốt gà, vịt hay ven dưới sông đón bắt tôm, cá… cũng chẳng bao lâu đâm nhánh mới, làm thành những viền xanh uốn lượn giữa dòng.
Tha thiết sống, bất chấp yêu ghét, lau sậy cũng trổ bông. Bông cũng không níu kéo bất cứ cái nhìn nào. Lơ thơ. Nhợt nhạt. Chỉ trẻ con là chờ đợi mùa bông chín, mùa gió chướng thổi sòng, mùa áo mới, mùa Tết. Mảnh mai mình hạc, bông lau vươn cao óng mượt, trắng muốt giữa ngút ngàn bông sậy bạc đầu, chảy thành dòng rập rờn trong gió. Trên cái nền dòng sông bông chín, ông trời mặc sức vẽ gió, vẽ nắng lên.
Bông lau, sậy đẹp nhất là lúc đang tàn, lúc đang phai. Dường như có vài thứ giống vậy, như mùa thu, pháo hoa, giao thừa, tiếng chuông chùa… lúc đẹp là lúc mất. Chẳng hiểu đẹp để mất hay vì biết sẽ mất nên đẹp. Gió chướng thông ngọn thì bông sậy lìa cây, vào khi ngọt ngào và mỹ miều nhất, rút lui, buông bỏ vào lúc vinh quang nhất. Nên tôi, trong vai người đứng ngắm phải ngẩn ngơ nhớ tiếc. Đôi lúc nghĩ, có người nào dám và được rời đi nhẹ nhỏm như cái bông sậy nhỏ nhoi này? (
Nguyễn Ngọc Tư)

Phận hoa bên lề

Chu Văn Sơn

Đó là loài hoa nở vào cuối năm.
Đó là loài hoa mọc nơi cuối đất.
Đó là loài hoa đợi ở cuối đời.


1.
          Khi hầu hết các loài hoa trong năm đã khoe sắc phô hương cả rồi, nó mới nở. Nếu xem mỗi niên hoa như một dãy dằng dặc, xếp hàng đợi đến lượt nở, thì nó đứng ở cuối hàng. Kiên nhẫn, nhún nhường, hay biết phận biết thân? Thật khó nói. Chỉ biết khi năm hầu tàn, mùa hầu cạn, chẳng còn loài hoa nào tranh chòi nữa, nó mới dâng hoa. Nó nở trong gió bấc mưa phùn, dưới màu mây xám bạc của ngày đông tận. Nhưng không ai đợi nó dịp tất niên. Càng không ai chờ nó cho tân niên. Nó là loài hoa không được chào đón.
          Nó là loài hoa không biết đến hội hè. Nó không có chỗ trong các bình hoa bày trang trọng tại những chốn cao sang. Cũng không có chỗ trong những vựa hoa, quầy hoa, sạp hoa bày trên phố xá. Không ai đầu tư, không ai khuyến mại. Nó không bao giờ có mặt trong danh sách những thứ hoa cần mua sắm để trang hoàng khánh tiết cho bất cứ kì cuộc nào. Và nó cũng chẳng dám mơ được nằm trên bàn tay tình nhân trao tặng nhau những dịp lễ lạc. Bàn tay chăm thôi còn chả dám mong, nói gì đến bàn tay tình. Có phải bàn tay duy nhất lau được biết đến trong đời là bàn tay cầm nắm nó khi triệt bỏ nó ?
          Không có chỗ trong vườn nhà. Không bén mảng tới những hoa viên. Nó không có căn cước tại đấy. Có ai cấp thẻ xanh để cho nó quyền cư trú tại đấy đâu. Thảng hoặc có bóng nó vươn hoa ở góc vườn nào, thì nó chỉ được xem như dân lậu, dân liều. Nó thường bị trục xuất trước tiên khỏi những hoa viên, hoa uyển. Họa chăng, chỉ khi vườn đã bỏ hoang, nó mới có hi vọng. Chủ nhân chả còn đoái hoài, các loài khác chả thèm giành giật đất nữa, thì nó mới đến mọc. Nó rón rén mọc trên đất bỏ, đất thí. Dạng nhảy dù. Sống chui. Nó là loài hoa vườn hoang.
          Ta thường thấy nó ở bên đường. Đúng hơn, nó vẫn ở bên đường mà ta thường không thấy. Nó không phải là địa chỉ cho những ánh mắt thưởng ngoạn kiếm tìm. Từng đoàn xe cứ vút qua. Những ánh mắt vãng cảnh cứ rướn xa. Nhưng điểm nhìn của dòng người thường không đặt vào nó. Nó bị lãng quên ngay trong tầm mắt người đời. Dù ngọn hoa có đâm ngang tầm nhìn, xiên vào nhãn giới, thì cũng thế thôi. Cả khi du khách dừng lại để chụp ảnh, ống kính zoom qua đầu nó là để chớp lấy những cảnh hớp hồn phía xa. Về xem lại, thấy nó lỡ có mặt trong khuôn hình ngoài ý muốn, thì bực mình. Khi in ra, người ta cẩn thận dùng photoshop xóa nó đi, cho hết vướng. Nó là loài hoa bên đường.
          Nhưng, vương quốc thực sự của nó là miền hoang, là núi đồi gò bãi. Nó là cư dân của những miền đời quên lãng. Lãng quên, đó mới là không gian cho nó, của nó. Một kiếp hoa chung thân chốn lãng quên. Có phải nỗi hoang vu vón lại thành loài hoa ấy. Có phải nó là đứa con tự túc của nỗi hoang vu. Sinh ra nó để tự khuây khỏa, khoảng trống của hoang vu có bớt đi được phần nào không, mà giữa chốn hoang vắng, có bóng nó chập chờn, lại chỉ thấy lòng thêm hoang dại.
          Nó là hoa lau.


2.
          Nó là loài cỏ. Mà nào có như cỏ mật được giấu vào túi áo, cỏ gà được chọn chơi, cỏ gừng, cỏ nhung được chăm chút trong công viên. Nó là loài cỏ bị bỏ rơi. Người ta vẫn trông mà đâu có thấy... Mặc, lau vẫn sống đời lau. Lầm lụi thanh bần. Lau vẫn mọc, theo cách riêng. Không riêng từng thân, mà thành từng bụi. Khi nở thì nhất loạt, cứ tua tủa vươn lên. Mỗi ngọn như một tia phun mạnh vào không trung. Tất cả như một chùm pháo hoa bừng sáng. Lau tự bắn pháo hoa, tự mình hội hè lễ lạc chăng ?
          Thực ra, lau là chị em của mía. Cùng một xuất thân mà hai thân phận. Mía thành cây vườn, lau thành cỏ hoang. Chị em xa cách từ đó. Nhờ có đường, mía thành loài có ích, được chăm chút, vồ vập. Chỉ có hoa thôi, mà lại là thứ hoa bạc phận, lau cứ như kẻ vô ích, bị bạc đãi, thờ ơ, dù không ít đời lau được trưng thu làm đệm. Nếu vườn mía xuất hiện cỏ lau, chủ vườn sẽ diệt lau lập tức. Người ta gom lau thành đống, đợi khô, rồi đốt, ngay bên những luống mía. Nào ai biết mía của phần xác, lau của phần hồn, kể cả khi đứng nhai mía bên lau.
          Lau cũng nở theo cách riêng. Không bày từng cánh, không đơm từng phiến, mà vươn từng sợi. Từng sợi nương nhau mà thành lọn, tụ lại mà thành bông. Như bông tuyết khô. Như núm bông lẻ. Như lọn mây thất lạc thinh không, rơi rụng khỏi bầu trời, đậu hờ trên ngọn mảnh. Nhưng bao giờ lau cũng vươn cao nhất, cố nghển cổ lên mà nở hoa. Có lẽ trong các loài, đây là loài hoa cổ gầy nhẳng mà vươn dài nhất. Dài đến ngất nghểu chon von. Khi toàn thân đã hết hẳn tầm vươn, nó mới đành trổ hoa. Như để được diện kiến với trời, như để được giao lưu với mây, díu dan với gió. Lau phải lòng mây, gió, phải lòng khoảng không chăng ? Nhiều khi ngắm nó, tôi cứ miên man với những giả tưởng cổ tích. Phải chăng, thuở xưa lau vốn là một cụm mây trắng út ít ? Một lần theo chúng theo bạn xuống nhởn nhơ trần giới, rồi mải quyến luyến cây cỏ, đến lúc ngẩng lên thì ngày đã khép, nắng đã tắt, chẳng còn kịp theo bầy mà về trời. Thế là cụm mây út rớt lại miền hoang. Nó lìa khỏi gió. Đậu vào đầu cỏ. Mà thành hoa lau. Từ đấy, mây út sống kiếp cỏ hoa để một đời luôn nhớ tiếc khoảng không, ngóng vọng bầu trời. Suốt đời thèm về lại kiếp mây trắng. Mà không thể. Phải vì thế mà những bông lau buồn nhất là lúc hoàng hôn ? Khi mặt trời khuất dần sau núi, thu hết nắng đem đi, trên đầu mỗi bông lau chỉ còn le lói vài tia nán lại, dáng lau mới bồn chồn làm sao. Những ánh bạc cứ tím rực lên rồi thẫm lại. Đầu bông cố rướn lên rồi lả xuống. Xốn xang mà u uất. Lau bơ phờ rủ bờm trong hoàng hôn. Rồi những ánh chiếu li ti cũng tắt dần trên từng sợi bạc của hoa lau, bóng tối ngấm sâu vào cây cỏ. Đó là lúc ngày thực sự trút hơi thở tàn cuối cùng để chết lịm vào lòng đêm. Cả chùm lau muôn sợi bạc mềm óng ánh thế, tím rực thế, bỗng tím bầm, tím ngắt, như vẻ mặt thất thần của kẻ chợt nhận ra mình khánh kiệt... Đón được gió mà đành buông gió. Muốn cất mình bay, mà suốt đời chỉ đậu. Cuối cùng, lau chọn một cách bay riêng. Không toàn thể, thì từng phần. Chẳng tưng bừng, thì lặng lẽ. Không có một chuyến chung, thì làm vô vàn chuyến riêng. Lau cứ âm thầm xé mình ra. Đời hoa là đời của ước mơ lớn xé lẻ thành những sợi lau con. Mỗi sợi bạc một ước mơ bay. Cứ từng sợi, từng sợi, gửi vào gió. Mà bay. Nhung tuyết một đời tan thành từng chuyến bay như thế. Bợt bạc rồi xơ xướp. Hết nhung hết tuyết, cũng hết đời hoa.


3.
          Đã có khi tôi nghĩ lau như phận hoa lưu đày. Ấy là lần đi dọc đèo Bông Lau trên đường số Bốn vắt từ Thất Khê sang Đông Khê mạn Cao Bằng. Nhưng rõ nhất là lần trên đất Lào từ Luang Prabang về Viên Chăn. Toàn đường núi là đường núi. Hành khách trên xe ai nấy kẻ gà người gật. Cũng gà gà gật gật nhìn ra, tôi cứ thấy núi đồi hai bên chập chờn trắng, trập trùng trắng. Nhìn quấy nhìn quá, nghĩ là mây bám tuyết phủ đó thôi. Nhưng Lào thì làm gì có tuyết nhỉ ? Ừ, làm gì có. Thế là bừng tỉnh. Thì ra lau. Chao, có đến hàng mấy chục cây số núi đồi bạt ngàn lau trắng. Mênh mang đồi này núi khác những bờm lau trắng trùng phùng như bầy bầy đàn đàn những ngựa trắng là ngựa trắng. Chúng tập kết ở chốn núi đồi này là do bị xua đuổi mà cụm lại ? Hay đang tìm đến nhau, hội quân tại đây để dàn hàng nghênh chiến trong một trận sinh tử nào ? Tôi đã ngất ngây đến hàng giờ với liên tưởng đó. Nhưng, khi kịp nhìn lau trong toàn cảnh núi non rừng rú trải đến vô tận ấy, tôi mới nhận thấy dáng lau kia đâu có kiêu hùng sát khí. Một nỗi buồn trắng xóa phủ khắp núi đồi hoang. Lau trầm cảm thế kia mà. Bấy giờ, tôi mới thấy lau như một bộ lạc bị hất ra rìa lãnh thổ. Lau như kẻ thất thổ, lưu vong, phải khăn gói theo nhau tìm đến những chốn heo hút này để náu mình, để làm nơi trú xứ. Lau như bầy người di tản. Rừng xanh núi đỏ kia là chốn tị nạn của lau. Lau của kiếp người phát vãng. Rừng sâu rú thẳm kia là chốn chôn đời của những kiếp người vô tăm tích. Lau mang phận lưu đày.
          Nhưng lau lại là công dân toàn cầu. Ở đâu mà chẳng gặp lau. Giữa cố đô Luang Prabang của Lào, tôi cũng gặp lau nép mình bên những nếp chùa cổ, cạnh những pho tượng Phật được khắc tạc sơ giản đến sơ sài. Ở Bhutan, vương quốc nhỏ xíu treo mình trên rặng Hymalaya, tôi cũng luôn gặp những dáng lau. Lau bình thản đứng bên lề đường nhìn từng toán người hành hương lên Tigernet, ngôi chùa thiêng mà như gá trên vách núi, dựng cheo leo bên mép vực sâu. Ở Istanbul Thổ Nhĩ Kỳ, cái thủ đô độc đáo nửa phần thuộc Á, nửa phần thuộc Âu, tôi cũng gặp lau. Những bông lau cứ điềm nhiên mà trắng hết phận mình, chẳng cần biết mình là lau Âu hay lau Á. Lạ, vào Đà Lạt, gặp những đồi lau nương mình trong các thung lũng khuất sau hồ Tuyền Lâm, sang Angkor, gặp lau liêu xiêu trắng dưới đôi chân sa thạch của những vũ nữ Apsara, phất phơ bên nụ cười của Bayon bốn mặt, lên Vạn Lý Trường Thành, gặp lau rạp mình dưới chân cái tấm bia khắc câu “Bất đáo trường thành phi hảo hán” của Mao, qua Malaysia gặp lau nấp sau bức tường đổ của pháo đài Malacka, ... tôi không thấy ngạc nhiên lắm. Thì những chốn xưa xưa khuất nẻo thế ấy vốn là nơi trú ngụ của lau mà. Còn cái lần gặp lau ở Mỹ, thì tôi thực sự ngạc nhiên. Đó là hôm đến New York, ra đảo tượng Nữ thần Tự do. Ở cái nơi hiện đại tối tân, nơi được chăm sóc cẩn thận bậc nhất thế giới này, mà phía sau tòa tháp tượng sừng sững ngất trời lại có hoa lau. Lau thầm trắng những bông ẩn nhẫn. Tất nhiên, du khách đều đổ xô vào thần tượng. Đến đây đâu phải để ngắm lau. Nhìn những bông lau bạc lạc lõng, lơ ngơ ấy, tôi bỗng ngộ một điều : phía sau mỗi thần tượng đều có những đời lau....
Và lần vừa rồi, về Lao Cai, đúng cái nơi con sông Hồng nhập mình vào đất Việt, tôi lại thêm một lần ngỡ ngàng về lau. Cả một bãi nổi giữa sông, dài đến hàng dặm, ngập tràn lau trắng. Từng bông trắng xóa, cả bãi bạc xóa, toàn đảo cứ lấp lóa lên như đang phơi tơ bạc ròng dưới cái nắng hiếm hoi của ngày đông. Dòng nước hồng thì vờn quanh đảo trắng. Còn lau trắng cứ bồng bênh soi bóng xuống mặt sông hồng. Chẳng phải kia là Thiên Thai trong cõi thực sao ? Chẳng phải kia là chốn dành cho những mối tình ngư phủ sao ? Tôi bỗng thèm thấy bóng một chiếc thuyền không, chủ nhân của nó bỏ lại bên bến lau. Và ước sao khi ấy, giữa ngàn lau xôn xao kia, họ đang thầm thĩ với nhau những lời chỉ có họ và lau mới biết. Khung cảnh trữ tình đó cứ xui tôi tin rằng : hẳn là thuở xưa, Chử Đồng Tử và Tiên Dung cũng đã gặp nhau rồi bén duyên nhau trong đám lau như thế ! Thì trong lau vẫn ẩn cái nhịp sống đời đời trên mặt đất này thôi.

4.
          Là thứ hoa đạm bạc vào bậc nhất, lau mang trong mình một chút thiền ý.  Thiền ý về cái lẽ sắc không của tồn sinh. Không màu mè, không hình nét. Có sắc mà vô sắc. Là hoa mà như không phải hoa. Có mà như không có. Hoa lau nhắc ta nhiều nhất về sự chập chờn mong manh của phận người. Cũng là nhắc về cái bạc lý bạc nghĩa của sự tồn sinh. Có lẽ vì thế mà thiền nhân bao đời thường thấy nhân gian trong một thoáng hoa lau. Nhiều khi cứ ngắm mãi cái bông trắng hiu hắt bất định ấy, chính tôi cũng từng lâm vào nghi hoặc : nó là hoa hay không phải hoa ? nó là hoa lau hay chỉ là cái bóng nhòe mờ, phôi pha của một loài hoa nào khác ?
          Nhưng nó cũng nhắc ta về ý nghĩa bền bỉ của sinh tồn. Mỗi tồn sinh trên cõi này chỉ là một bóng hiu hắt, một thoáng chập chờn, thế thôi. Có nghĩa gì lắm đâu. Nhưng mà vẫn cố. Vẫn thản nhiên. Vẫn cứ mỉm bông lau. Nên lau đâu có giấu mình. Trái lại, luôn vươn mình. Mọi loài hoa đều sợ gió. Gió làm phai sắc, nhạt hương, rã cánh. Gió thành kẻ thù của hoa. Nhưng riêng lau thì không sợ gió. Lau chung tình cùng gió, nô giỡn, cợt cười cùng gió. Lau chờ gió để được tung bờm. Lau nương gió để cùng khiêu vũ. Đứng rủ bờm trong sương sớm, nhưng một khi nắng lên, gió dậy là nó lại tung những chỏm bờm ánh bạc, rúng động, náo nức như muốn tung mình tề phi cùng gió. Chỉ mình nó nô giỡn với lãng quên, làm cho lãng quên đỡ phần cô tịch… Song, có lẽ phải trong canh khuya mới thấy hoa lau nhẫn nại thế nào. Nó gục đầu vào sương khuya. Nhưng sương khuya đâu phải là điểm tựa. Sương khuya lại từng giọt đậu lên đầu nó, dụi mình vào nó. Nó tìm nơi tựa, rốt cục lại phải làm chỗ tựa cho kẻ khác. Nó chỉ còn biết tựa vào chính mình. Đành tìm sự vững vàng trong thế chon von. Lấy cái chênh chao để làm sự cân bằng. Cứ thế, nó yên phận làm lau để an ủi mặt đất này.


5.
          Có tình cờ không, khi theo nhau suốt bao năm, mà phải đến lần này, khi về đất Hoa Lư tôi mới có thể viết về lau. Có phải đó là ý muốn của lau ? Có phải lau muốn tôi phải viết những trang lau này trên đất cờ lau ? Thực ra, nơi chúng tôi ở và làm công việc soạn đề thi suốt hai tuần, nhìn ra xung quanh đến hàng cây số đồng ruộng, có bóng lau nào đâu. Nhưng, Hoa Lư là hoa lau. Đồn rằng xa xưa chốn này là ngàn lau rậm rạp. Rậm rạp đến mức người ta ngỡ lau đã độc chiếm toàn bộ vùng này làm căn cứ của mình. Lau đồn trú trên mọi triền đồi, vách núi của cái xứ sở lắm núi nhiều non vẫn được xem là vịnh Hạ Long trên cạn này. Cứ vào cữ đông này đây là lau nhất loạt phất cờ trên toàn xứ. Lau rợp đất, lau rợp trời khiến người nay cứ mơ hồ thấy bóng đội quân cờ lau của Đinh Bộ Lĩnh hàng ngàn năm trước vẫn thấp thoáng đâu đó trong lau. Nhớ lần tha thẩn vào Tràng An Bái Đính. Tôi muốn có cuộc hành hương đến ngôi chùa lớn nhất Đông Nam Á, nằm sâu trong non nước Hoa Lư, nơi mà thiên nhiên hoang sơ dường như vẫn còn bảo lưu trong nó màn sương khói thời vua Đinh vua Lê, cùng màn sương Dương Vân Nga, người đàn bà kì lạ, làm hoàng hậu của những hai vị hoàng đế, với hai triều đại khác nhau. Lại cũng muốn kiếm tìm cho mình một ngọn lau mang hồn vía chốn này. Nhưng cuối cùng, cái ấn tượng còn lại không phải về chùa, mà về lau. Chả biết do mải tìm lau hay lau dẫn lối mà tôi đã lạc đến một cồn lau ẩn sau một bến nước hoang hút, âm u. Rêu dày ngập gót, dây dại nghênh ngang chen đá lấn cây. Chốn rậm rạp và rờn rợn ấy mách bảo tôi rằng có lẽ bao nhiêu năm rồi chẳng có ai mò tới đây. Và, bất ngờ tôi gặp một vạt lau già có đến cả ngàn bông trắng muốt. Bông nào cũng như một chòm râu bạc phất phơ bên bến vắng. Cứ như vẫn phất phơ ở đấy tự bao đời. Chà, những bông lau ẩn dật ! Những bông lau tự tại, thích thảng ! Tôi nhớ đã kêu lên thế. Và đã đinh ninh đó là lau xưa, những cây lau vẫn ẩn mình ở đây từ thời Đinh Bộ Lĩnh. Trong giây lát, tôi ngỡ mình đang ở ngàn xưa. Và khi bần thần bước ra khỏi vùng lau ấy, tôi thoáng thấy mình như vừa trở về từ xa xưa vậy. Tôi đã giữ riêng cho mình cái ảo giác hiếm hoi đó suốt bấy nay và thầm biết ơn những bông lau đã tặng cho mình khoảnh khắc thi vị ấy. Và, biết ơn cả cái ông vua Đinh Bộ Lĩnh nữa. Có lẽ ông cũng là vị vua độc đáo nhất trong những đấng quân vương. Bởi ông là người đầu tiên mà cũng có thể là người duy nhất đã nhìn thấy trong lau một lá cờ. Người nhìn thấy trong lau tiềm ẩn ngọn cờ, người ấy là hoàng đế. Càng xứng là hoàng đế khi nghiệp vương của người ấy cũng là sự nghiệp biến cờ lau thành một ngọn quốc kì. Vậy là cái lá cờ Đại Cồ Việt sau này được trương lên khi Đinh Tiên Hoàng Đế đăng quang đã được phất lên lần đầu trong cờ lau Hoa Lư rồi. Nó là những bông lau trắng xốp này đây. Nhưng, sau khi lên làm vua, liệu Đinh Bộ Lĩnh có còn quý lau, nhớ lau nữa không ? Khi hoàng đế là thằng bé con, thì mới nhìn thấy cờ trong lau. Chỉ có con mắt trẻ thơ mới có cái nhìn ấy. Còn khi đã ngự ngai vàng, có lẽ vua chỉ còn thấy cờ trong những tấm vóc đại hồng. Lá cờ lau xưa thì gửi trả lại cái thời chỉ xem là ấu trĩ thôi.
          Vậy là chỉ có con trẻ và giống nghệ sĩ là đoái hoài đến hoa lau. Đám trẻ con thì thấy cờ trong lau. Đám nghệ sĩ thì thấy mình trong lau. Cầm trên tay bông lau lúc ấy, một kí ức lau cũng lộn xộn kéo về. Tôi nhớ cái bến lau của Phan Huy Vịnh đã chuyển một không gian rặt thảo mộc Tàu trong câu Tầm Dương giang đầu dạ tống khách / Phong diệp địch hoa thu sắt sắt thành một không gian rất Việt, trong đó phận tài hoa lận đận bên trời đã lẫn vào lau lách đìu hiu : Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách / Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu. Tôi nhớ đến thứ lau nặng duyên nghiệp Nguyễn Du gửi vào nỗi tương tư của chàng Kim, vào nỗi hoang vắng của nàng Kiều trong cái đêm nàng đành thả phận mình theo gã Mã Giám SinhVi lô heo hắt hơi may/Một trời thu để riêng ai một mình, cũng như bố trí Tiền Đường thả một bè lau cho Vãi Giác Duyên cứu Kiều. Sau này, Thích Nhất Hạnh đã tựa vào chiếc bè ấy mà đọc Kiều bằng cái nhìn thiền quán để chỉ ra ở đó bao nhiêu là Phật lí cùng những công án Thiền. Tôi nhớ góc nhìn lau vượt đầu núi Phú Sĩ của Hokusai. Nhớ ngàn lau hào hoa vẽ tranh trong nhạc của Văn Cao Ngàn lau thấp thoáng bóng kinh kì sầu bao la. Nhớ đến hồn lau đa tình của Quang Dũng Người đi châu Mộc chiều sương ấy / Có thấy hồn lau nẻo bến bờ. Và nhớ phận lau của ý niệm phôi pha đầy se xót về cõi tạm của Trịnh Công Sơn Chập chờn lau trắng trong tay ... Nhưng, nhớ nhiều hơn là lần đến viếng Hoàng Hữu tại nghĩa trang Việt Trì. Chiều muộn hôm ấy, sau khi thắp hương, tôi có hóa ngay bên mộ cho anh bài mình viết về Hai nửa vầng trăng. Lúc hóa xong, ngước lên, bất ngờ tôi thấy bảng lảng sau làn khói một bóng hoa lau trắng. Thứ hoa bạc mệnh từng nhập vào thơ anh, ám vào đời anhNgười xa phơ phất hồn lau gió / Thổi trắng chân trời như khói pha đã theo anh về đây chăng ? Tình cờ hay là vận vào ? Bấy giờ, đọc trên mộ chí, thấy bạn văn đã chọn khắc cho thi sĩ một câu hoành tráng Bến bờ anh tim dội sóng khôn cùng. Tôi nghĩ, ừ, đành rằng đó cũng là một câu hay. Nhưng khoa trương chưa hẳn đã là Hoàng Hữu. Câu thơ xuất thần nhất, Hoàng Hữu nhất phải là cái câu đem hồn mình nương náu vào lau gió kia...


          6.
          Thì ra, người có thể hờ hững với lau, lau đâu hờ hững với người. Chẳng thế mà một trong những nơi quần cư của lau là nghĩa địa. Hầu như nghĩa địa nào cũng ẩn hiện những lau. Có phải ở đó, nó mới sống cái sứ mệnh bí ẩn nhất của loài hoa được gọi là lau : sứ mạng lau xóa hệ lụy nhân gian và an ủi những vong hồn. Nó hảo tâm hiến mình làm giá thể để cho mỗi linh hồn đậu lại. Nó là đội quân thiện nguyện, tìm đến an trú nơi nghĩa địa để an ủi những vong linh. Mỗi bông lau cứ như sự hiển linh của một cô hồn. Trước khi Phật bà vẩy nước cành dương để hóa giải cho mỗi kiếp người, thì lau đã an ủi cho họ bên từng nấm mộ.
          Khi bông hoa cuối cùng của những vòng hoa phủ quanh mộ tàn úa, rã rời, thì lau mọc. Lau lặng lẽ đến và cúi đầu mặc niệm. Bấy giờ nó mới thực sự là lau. Nó lau đi những vết hoen cuối cùng trong dương gian. Nó lau cho hư vô thêm trong suốt. Nó túc trực bên ngưỡng cửa hư không để đón đợi, để an ủi những vong hồn, lau khô những khổ lụy cuối cùng, rồi tiễn đưa từng vong linh vào sâu cõi hư bằng cái vẫy tay phơ phất. Có hoa lau người ta mới biết, thì ra, hư không cũng bám bụi, cũng cần lau xóa thường xuyên. Hoa lau cứ lầm lụi lau đi những lớp bụi vô hình, vô minh. Lau cho cả gió, cả mây, cả trời...
          Và, chỉ khi nào bước vào đến chốn ấy, may chăng, mỗi chúng ta mới thấy giật mình: con đường của phận người là đường tới hoa lau.
 
                                                            Hoa Lư, mùa hoa lau Giáp Ngọ
                                                                                             CVS


HÔM NAY HỌ ĐÃ GẶP NHAU
Trần Hòa Bình với Chu Văn Sơn, hai con người tài hoa ấy hôm nay họ đã gặp nhau. Và Chu Văn Sơn sẽ không hỏi thế nữa với câu hỏi ở cuối bài viết của anh về Trần Hòa Bình. 
Người xứ Đoài, kẻ xứ Thanh, sinh thời họ vốn nghĩa bạn bè, tình huynh đệ. Cùng có những điểm chung thật giống nhau: sớm anh hoa phát tiết từ khi sinh viên khoa Văn, Đại học sư phạm Hà Nội, cùng làm thầy giáo, cùng chữ nghĩa văn chương báo chí, cùng được xem như là ánh hồi quang cuối cùng của thế hệ vàng còn sót lại. Và đến bây giờ, người trước người sau, hai kẻ tài hoa ấy lại giống nhau khi mà bè bạn, người đời thì luyến tiếc, còn cái ông Trương Trào thì lại bảo rằng “không để ở lâu trên cõi thế mà hóa ra nhàm”.
Đây là bài viết của Chu Văn Sơn về Trần Hòa Bình, xin được trích từ email năm 2008 sau lúc Trần Hòa Bình “theo trăng gió đi xa”: “Gửi Vũ Khánh bài hoàn chỉnh mình viết về Trần Hòa Bình (báo Văn Nghệ in không hoàn chỉnh) CVS” 
Trong này, Chu Văn Sơn đã viết: “Nghĩ cho cùng, họ đều là những gã lãng tử phiêu du qua cõi này bằng đôi cánh tài hoa. Họ để lại cho ta bao nhiêu anh hoa cũng là bấy nhiêu tiếc nuối”. Thì điều này, chẳng cũng chính là anh sao?

TRẦN HÒA BÌNH - GÃ LÃNG TỬ XỨ ĐOÀI
Chu Văn Sơn

Sản phẩm của con người đôi khi mang cả những thông tin đầy bí ẩn về kẻ làm ra nó. Nhất là sản phẩm nghệ thuật. Chả thế mà các cụ vẫn bảo văn chương thường vận vào mình. Khi trở về thăm mẹ xứ Đoài, nhìn những chiếc lá bàng lang thang trong ngõ vắng thành Sơn, Bình đã thú thực với mẹ Chúng con như những chiếc lá bàng phiêu du trong gió. Nhưng tôi chắc, anh chưa thể ngờ cái ví von kia sẽ vận vào mình. Và ngay cả khi mải mê với mái tóc thề ảo ảnh miền Kinh Bắc, thú nhận với người tình :
Tóc thề ảo ảnh chân trời vắng
Có lẽ phiêu du đến chót đời !
lúc bấy, anh cũng không thể ngờ mình đang làm bức chân dung tự hoạ. Phải, tiên cảm dù có giàu đến đâu, Bình cũng đã làm sao ngờ nổi đấy là đường chỉ tay tiền định của đời anh ! Nhưng, sự thực là thế. 
Phiêu du đến chót đời - đó chính là Trần Hòa Bình. 
Từ xứ Đoài, Bình đã đến với cuộc đời này trong phong vận một lãng tử đời mới, và đi qua cuộc đời này đúng như một liên khúc phiêu du. Phiêu du qua học đường giảng đường, phiêu du trong tình trường và hôn nhân, phiêu du trong làng báo vườn văn, phiêu du đến tận giây phút chót. Cuộc phiêu du đà khép lại, mà cuộc đời vẫn còn lắm dở dang ! Dầu sao, với ngần ấy năm dám sống, dám là mình, Bình cũng đã lưu lại trong cuộc sống nhiều nhàm tẻ này một nốt thăng hoa mỹ. 
Trong những năm ngay sau chiến tranh, còn nặng nề bao cấp, giữa thế giới học đường mô mô phạm phạm, thì một ông thầy áo phông, quần bò, giày thể thao, túi thổ cẩm, tóc loà xoà chất nghệ có vẻ là một nghịch ảnh. Càng là nghịch ảnh khi chàng lãng tử ấy luôn muốn biến giảng đường trang nghiêm thành tao đàn tươi trẻ, biến mỗi giờ giảng thành một cuộc đàm luận xôm tụ về chữ nghĩa và đời. Nghịch ảnh ấy làm ngứa mắt những ai nệ khuôn phép, nhưng lại vô cùng bắt mắt các em, những lứa sinh viên ưa lối sống hiện đại, khát khao sáng tạo và giải phóng cá tính. Hiện thân của một điệu sống phóng khoáng, trẻ trung, sành điệu, Bình như một câu Thơ mới lạc vào giữa vườn thơ Đường, như một điệu nhạc pop lạc vào giữa một điệu thức cổ điển. Hình như cái duyên riêng của Bình là đấy. Có vẻ như phi hàn lâm, và muốn thoát li học đường, nhưng đời Bình lại không thể thiếu giảng đường. Nếu không có bục giảng, không có sinh viên, nhất là những nam sinh tài tử, nữ sinh lãng mạn, họ vừa là học viên vừa là khán thính giả vừa là fan hâm mộ, thì đời Bình sẽ ra sao ? Bình như một thần tượng gần gũi về chuyện dám sống, dám là mình, dám sáng tạo của họ. 
Là phong vận của Bình, phiêu du cũng là mệnh giá của Bình. Tách hẳn khỏi học đường làm kẻ viết hoàn toàn tự do - cũng không phải, mà bám rễ học đường làm hàn lâm hẳn - cũng không phải. Cả đời đánh đu với báo, nhưng Bình cũng chỉ thích làm nhà báo tài tử. Sớm bước vào vườn thơ và để lại không ít hoa trái, nhưng Bình cũng không phải người làm vườn tận tuỵ. Vẽ cả tranh, viết cả phê bình, nhưng Bình cũng chẳng định chung thân với giá vẽ trang văn. Tình trường với Bình như một dòng sông muôn ngả, nhưng Bình cũng đâu có chịu dừng lâu với một bến nước nào… Người mong cầu sự trọn vẹn không khỏi tiếc xót cho anh. Người dễ chấp nhận các cá tính thì thấy như thế mới là Bình. Đời chỉ là chốn ngao du, còn Bình là một lãng tử đem cái tài hoa của mình làm đôi cánh phiêu du trong đời, mà ở khoảng trời nào, chặng đời nào cũng gắng sống cho sành, cho đẹp. Vậy thôi. Chỉ vậy thôi. Mà khác đời. Mà hiếm. Hèn chi, anh cứ là một hấp lực mạnh. Quanh anh và từ anh luôn có không ít những bản sao.

*
Có lẽ, thơ vẫn là cuộc phiêu du ngoạn mục nhất của Trần Hòa Bình. Sớm nổi tiếng giỏi văn ở xứ Đoài, Bình đã làm thơ từ hồi còn học phổ thông. Nhưng có lẽ chất lãng tử chưa thể là điệu hồn của thi sĩ nhí. Vì thế, thơ thời học trò mới chỉ là tiếng lòng của một bé con ngoan nết thôi. Một hồn thơ như Bình chỉ thực sự dậy thì, khi bàn chân chạm vào lối ngõ của cõi yêu. Cho nên, hồi đầu, tuy cũng có làm thơ theo đề tài, cũng loáng thoáng công trường và chiến trường, nhưng đó không phải tạng Bình. Bình dừng ngay, và may là thế. Chỉ đến với tình yêu, Bình mới thực là Bình. Ở đó chàng tình nhân đã cầm lấy cây bút thi nhân. Tâm hồn tinh tế, tay bút tài hoa mới được dịp khoe mình. Có thể nói, mỗi cuộc tình đem đến cho anh một nguồn thơ. Và có không ít nguồn thơ chỉ đem đến cho anh có… một bài. Nhưng, thơ Bình là nỗi lòng thực của một kẻ yêu, đa tình, đa đoan mà chẳng thể đa mang. Hồi đầu, thơ Bình tươi trong và mát lành lắm, cả thiên nhiên và tình yêu đều râm ran mướt mát : Gặp gỡ mùa mưa lòng trẻ lại / lòng ta tươi tốt một triền đê/ thở mãi không cùng hương đất bãi / mưa như gót trẻ kéo nhau về… Và em? Lẽ nào không thể nói! / tóc ướt như ngày mới chớm yêu / khi mùa mưa đến em ra bãi / ngô mía đôi bờ xanh vút theo… Ai gần Bình, đều dễ dàng nhận thấy, cái tươi trong dịu mát ấy là món quà một đi không trở lại mà tâm hồn anh nhận được từ tình yêu thứ nhất. Cho nên, trước năm 90, dù anh viết về Dòng sông trước nhà, hay Nha Trang Biển, dù Gặp lại miền Trung hay Thêm một… thì thơ anh vẫn mang một hồn trẻ tươi tắn và hào hoa : Thêm một chiếc lá rụng / Thế là thành mùa thu / Thêm một tiếng chim gù / Thành ban mai tinh khiết 
Có người không gần anh cứ nghĩ Bình làm thơ chơi, để thỏa mãn phong tình, để tán đời, tán gái (?) Mà Bình tán cũng dẻo lắm cơ. Câu chữ nào của Bình cũng khôn nét, khôn mặt, cũng muốn rao tình, rao duyên. Nhưng không hẳn thế. Phần sâu nhất của hồn thơ Bình là một nỗi buồn, không dễ chia sẻ. Mà càng ở những bài thơ sau, nỗi buồn ấy càng đậm. Càng vào tuổi tri thiên mệnh Bình càng phải đối mặt với cô đơn. Con người luôn tươi cười, luôn ăn nói hoa mĩ hoạt ngôn ấy, sau những vinh danh hoan tụng của đời, cũng dần thấm thía những khoảng trống không dễ vượt qua của phận người trong nhân duyên, giữa nhân gian. Con người có vẻ nhởn nhơ ấy cũng hết sức băn khoăn với câu hỏi luôn tra vấn từng cá thể người “hạnh phúc là gì? hạnh phúc có thật không ?” khi một mình giữa đêm khuya không rời mắt trước “những cánh sen quay trong gió như thuyền”. Thơ Bình lúc này dù phơi bày trải nghiệm hay đúc kết chiêm nghiệm thì cũng thường xoay quanh những cuộc tình éo le, tan vỡ, thường trở đi trở lại những chiều mưa, những khoảng vắng, những khung cửa âm thầm, những hàng hiên trống lạnh, những chiếc lá rụng, những giọt mưa vỡ… Khi tiễn người yêu về nhà chồng, kẻ phiêu du này cũng lâm vào nỗi phù du đầy ngang trái : Cớ sao mắt em buồn như đêm mưa xứ đồi?/ cớ sao cơn mưa xứ đồi lại đến cùng anh …Mai em về nhà chồng / hết rồi những cơn mưa ướt mái đầu con gái / một đêm nào chúng ta chia tay / bong bóng nước dưới chân dập dờn nghìn hoa trắng.../ Mai em về nhà chồng / mưa theo em ròng ròng thương nhớ / mai em về nhà chồng nước mắt gửi vào mưa âm thầm khung cửa.../ Anh thức qua đêm nhìn mưa / anh thức qua năm tháng nhìn em / anh thức qua cuộc đời nhìn tình yêu / bong bóng nước trôi xuôi vỡ nghìn hoa cánh trắng / đâu rồi dấu chân em / in mòn thời thiếu nữ?... Khi cùng người yêu đến chợ tình Khau Vai, gã lãng tử ấy cũng đâu còn vô tư chỉ để mà tán tụng. Từ cuộc yêu éo le của mình, anh chợt thấm thía phận người, vì cay cực nhận ra rằng trong mỗi cuộc đời ai chẳng có một Khau Vai : Sau này không lấy được nhau em có tìm anh không ?/… trong đời ai chẳng có một Khau Vai / nhọn sắc đá tai mèo/ cứa vào thương nhớ/ hãy nhìn nhau nhìn nhau trước gió / em sẽ thấy một Khau Vai trong số phận chúng mình… Thế đấy, thơ Bình sau này là tình buồn, tình đau. Nhưng, buồn đau cũng phải đúng chất Binh. Nghĩa là: dù có buồn đau thì vẫn cứ phải duyên dáng, vẫn cứ phải ra người phong vận. Nên thơ Bình có cứa lòng người cũng không làm thành vết xước của con tim ai. Nên khi Bình triết lí, có thể không là triết lí sâu, nhưng thường phải là triết lí đẹp. Đẹp, hào hoa, đó mới là Bình, là thơ Bình. Nên nó là cái đau hào hoa, cái buồn hào hoa. Không phải vẻ hào hoa quý phái, không phải vẻ hào hoa phố phường, mà cái vẻ hào hoa xứ đồi, xứ Đoài, ta thấy phảng phất đâu đó ở Quang Dũng, Hoàng Hữu. Hào hoa như chất lau xám phơ phất trong thi tứ, như hoa mưa bong bóng hay ảo ảnh tóc thề trong thi ảnh, như lớp phấn hoa mướt mát trong ngôn từ. Điệu thơ và lời thơ Bình cũng mơ hồ đôi chút Lưu Quang Vũ, Trịnh Công Sơn. Có lẽ, họ cùng tạng, cùng nòi, là đàn anh đàn em của nhau, nên mang hơi hướng nhau chăng ? Nghĩ cho cùng, họ đều là những gã lãng tử phiêu du qua cõi này bằng đôi cánh tài hoa. Họ để lại cho ta bao nhiêu anh hoa cũng là bấy nhiêu tiếc nuối. 
Bình ơi, giờ anh đang phiêu du ở cõi nào ?

Văn Chỉ, vào thu 2008
CVS

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét