Thứ Ba, 18 tháng 12, 2018

Giải thích về hệ thống tượng Phật ở trong chùa

Giải thích về hệ thống tượng Phật ở trong chùa


Giải thích về hệ thống tượng Phật ở trong chùa (Chùa Tây Phương)

Ở Việt Nam ta các chùa thường hay thờ Phật, thờ Tổ, thờ Thánh. Nhờ Phật độ nên mỗi năm tôi về một lần, mà lần nào tôi cũng đi từ Nam ra Bắc hầu hết thời gian tôi đều dành cho việc đi tham quan các chùa, do đó tôi thấy: Cách bài trí các tượng chư Phật, chư Bồ Tát, ở trong chùa tuy cũng có công thức và ý nghĩa rõ ràng, nhưng vì xưa nay không có sách vở nào ghi chép cho tinh tường. Do đó, dù người ta mỗi khi bước chân vào chùa không phân biệt được pho tượng nào thờ vị nào. 

Nay ta muốn biết rõ, trước hết phải phân biệt tượng thờ chư Phật, tượng thờ chư Bồ Tát. Dưới đây tôi chỉ trả lời câu hỏi nêu trên, không giải thích về sự thờ Thánh của một số chùa ở Việt Nam.

Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thân là Pháp thân, Báo thân và Ứng thân. Cách bài trí các tượng Phật ở chánh điện theo đúng ý nghĩa ấy cho nên ở lớp trên cùng là thờ Pháp thân Phật, tức là thờ thường trụ Phật ở trong vũ trụ; Ở lớp thứ hai thờ Báo thân Phật, tức là thờ Thụ dụng trí tuệ Phật ở cõi cực lạc; ở lớp thứ ba là thờ Ứng thân Phật, tức là thờ Phật đã hoá hiện ra sác thân ở trần thế. Từ lớp thứ tư trở xuống bày những cảnh quan hệ đến lúc sơ sinh của đức Thích Ca Mầu Ni Phật và những tượng các vị thần khác. 

Vậy cách bài trí các tượng ở chánh điện từ trên xuống dưới theo thứ tự sau đây:

A. Tượng Tam Thế Phật.
Lớp trên cùng tột ở chỗ giáp vách phía trong, có ba pho tượng để ngang một dẫy, hình dáng giống nhău, tức là tượng "Thường trụ tam thế diệu pháp thân", người ta thường gọi tắt là tượng Tam thế Phật, nghĩa là Phật thường trụ, trong thời gian quá khứ, hiện tại và vị lai.

B. Tượng Di Đà tam tôn.
Lớp thứ hai có ba pho tượng lớn, pho tượng ngồi giữa là pho tượng đức A Di Đà Phật, tức là Thụ dụng Trí tuệ thân, Pho tượng đứng bên tả là tượng đức Quan Thế Âm Bồ Tát, pho tượng đứng bên hữu là tượng đức Đại Thế Chí Bồ Tát. Đức Phật và hai Bồ Tát ấy ở Tây phương Cực lạc, chủ việc Cứu độ chúng sinh ở cõi Sa bà qua cõi Cực lạc.

C. Tượng Hoa Nghiêm Tam Thánh.
Lớp thứ ba có ba pho tượng lớn, pho tượng lớn ngồi giữa là tượng Thích Ca Mầu Ni Phật, tức là Ứng thân hay là biến hóa thân, giáng sinh xuống trần thế, tu thành chính quả và thuyết pháp độ chúng, pho tượng ở bên phải, hoặc đứng trên toà sen , hoặc ngồi trên con sư tử xanh là tượng Đức Văn Thù Bồ Tát; pho tượng ở bên hữu, hoặc đứng trên toà sen, hoặc ngồi trên con voi tráng là tượng Đức Phổ Hiền Bồ Tát, theo thuyết nói trong Hoa Nghiêm kinh.

Ở lớp thứ ba ấy có nhiều chùa làm tượng đức Thich Ca Mầu Ni ngồi cầm hoa sen, như khi ngài thuyết pháp ở Linh Thưù Sơn; bên tả là tượng Ca Diếp Tôn Giả, vẻ mặt già. Bên hữu là tượng A Nan Đà tôn giả, vẻ mặt trẻ, là hai đại đệ tử của Đức Thích Ca khi ngài còn ở thế gian. Tượng hai vị tôn giả ấy đều tạc đứng, hình dáng hai người tỳ khưu.

D. Tượng Cửu Long.
Lớp thứ tư có pho tượng Cửu Long để giữa. Tượng này theo điển nói khi đức Thích Ca Mầu Ni mới giáng sinh, có chín con rồng xuống phun nước cho ngài tắm, đoạn ngài đi bẩy bước tay tả chỉ lên trời, tay hữu chỉ xuống đất mà nói rằng: “Thiên thượng, thiên hạ, duy ngã độc tôn”- Trên trời, dưới đất, chi có ta là quí hơn cả. Bởi vậy tượng Cửu long làm chín con rồng vây bọc chung quanh và ở trên những đám mây có chư Phật chư thiên, nhã nhạc, cờ phướn và bát bộ Kim Cương, ở giữa có pho tượng nhỏ, đứng một tay chỉ lên trời và một tay chỉ xuống đất, đó là tượng Bổn Sư Thích Ca Mầu Ni Phật lúc sơ sanh. Bên tả tượng Cửu Long có tượng Đế Thích ngồi ngai, mặc áo đội mũ Hoàng Đế, bên hữu có tượng Đại Phạm Thiên cùng một kiểu như pho tượng Đế Thích, đó là theo điển nói hai vị Đại Thiên Vương này chủ tế ở cõi sa bà thế giới và lúc nào cũng hộ trì Đưc Thích Ca khi ngài chưa thành Phật. Những chùa thường, ở trong điện thờ Phật, chỉ bầy có thế mà thôi. còn những chùa rộng lớn thì bầy thêm hai lớp tượng nữa là: 

E. Tượng Tứ Thiên Vương.
Ở ngoài tượng Cửu Long để bốn pho tượng Tứ Thiên Vương mạc áo Vương phục, bày làm hai dẫy đối nhau, tức là bốn vị hộ thế.


F. Tượng tứ Bồ Tát.
Có chùa bỏ tượng Tư Thiên Vương mà bày tượng bốn vị Bồ Tát, tạc hình Thiên thần gọi là Ái Bồ Tát, tay cầm cái tên; Sách Bồ Tát, tay cầm cái cây; Ngũ Bồ Tát, tay cầm cái lưỡi; Quyền Bồ Tát tay nắm lại và để vào ngực. 

G. Tượng Bát Bộ Kim Cương.
Có nhiều chùa tạc 8 vị Kim Cương, là thần tướng trên trời, thường gọi là Bát bộ Kim Cương gồm có:

1. Thanh Trừ Tài Kim Cương.
2. Tích Độc Thần Kim Cương.
3. Hoàng Tuỳ Cầu Kim Cương.
4. Bạch Tĩnh Thủy Kim Cương.
5. Xích Thanh Hoả Kim Cương.
6. Định Trừ Tai Kim Cương.
7. Tử Hiền Kim Cương.
8. Đại Thần Lực Kim Cương.

Bốn vị Bồ Tát và Tám vị Kim Cương này, theo điển tích ở trong các kinh thi có nhiều thuyết khác nhau, xong đại ý là nói những bậc thần đã phát Bồ Đề Tâm, đem thần lực mà hộ trì Phật Pháp.
Tôi chọn chùa Tây Phương, vì chùa có tương đối đầy đủ bộ tượng, và lại rất đẹp.

Tượng các vị Kim Cương



















Trong sách Phật lục, Trần Trọng Kim cho chúng ta một sơ đồ bài trí tượng ở chùa Tây Phương trước Cách mạng, so với mặt bằng bài trí hiện tại, khu gian giữa với những tượng chính rất ít thay đổi, song với những tượng kết hợp và tượng ở các gian bên thì thay đổi rất nhiều: Bộ tượng Tam toà Thánh mẫu và chư vị các cô trước được thờ ở gian giữa toà chùa trong, nay chuyển sang điện mẫu ở gian bên nhà Tổ phía sau. Bộ tượng Kim Cương 8 pho trước chia đôi 4 pho thờ ở toà ngoài và 4 pho thờ ở toà trong, nay tập trung tất cả ra toà chùa ngoài. Bộ tượng Thập điện Diêm Vương trước chia ra hai hàng xếp dọc 2 tường hồi toà chùa giữa, nay chuyển về gian giữa của toà chùa trong ở quanh hương án. Bộ tượng 14 pho trước gọi là La Hán bày dàn hàng ngang theo tường hậu các gian bên của toà chùa trong, và 2 pho nữa bày ở cuối 2 hồi của toà chùa giữa, thì nay cả 16 pho được xác định là các Tổ kế đăng bày ở tường hồi và tường hậu của toà chùa trong (trừ gian giữa). Tượng hai vị thị nữ trước thờ ở gian giữa toà chùa trong, nay đưa ra toà chùa ngoài đặt cạnh Thiện Tài và Long Nữ ở hai bên pho quan Âm trăm tay. Tượng Kỳ Đà thiên tướng, Thổ Địa và Sơn thần (có lẽ là giám trai hiện nay) trước đều thờ ở toà chùa ngoài, nay chuyển sang bày ở phía ngoài của tường hồi toà chùa giữa. Hai pho tượng hậu trước thờ ở đầu ngoài hai tường hồi toà giữa, nay chuyển về trước ban thờ Tam toà Thánh Mẫu ở nhà Tổ.

Hai pho tượng Quan Âm Nam Hải và Quan Âm Tống Tử trước thờ ở gian giữa toà chùa trong, nay chuyển ra cuối đầu hồi của toà giữa.

Những thay đổi trên xác định Phật điện có sự ổn định ở phật chính, còn phần phụ và phần kết hợp do quan niệm và nhận thức của từng thời có thể điều chỉnh cho thích hợp. Và với tinh thần trên, ngày nay nếu cần vẫn có thể điều chỉnh tiến tới có một Phật Điện hoàn hảo hơn.

Kiến trúc chùa lớn phổ biến là kiểu "nội Công ngoại Quốc" ngoài khu Tam bảo chữ Công còn Hành lang ở hai bên và Hậu đường ở đằng sau, hay ít ra khu Tam bảo chữ Đinh, do đó có tiền đường chủ yếu bày tượng Hộ pháp nên còn gọi là chùa Hộ, có Thiêu hương cơ bản để nhà sư thắp hương ngồi tụng niệm, có Thượng điện bày hệ thống tượng Phật - Bồ Tát và những nhân vật liên quan. Mặt bằng kiến trúc chữ Tam lại đòi hỏi cách bày khác với một hệ thống tượng thích hợp.

1. Chùa Tây Phương không có bộ tượng Hộ pháp khuyến thiện và Trừng Aác như hầu hết các chùa, vị thần tướng bảo vệ Phật pháp ở đây là Thái tử Kỳ Đà con Vua Ba Tư Nặc nước Xá Vệ. Ngài có khu vườn ở vị trí thuận tiện, lại có nhiều cây cối cho hoa quả có mùi hương u nhã, rất thích hợp cho đức Phật giảng kinh. Cư sĩ Cấp Cô Độc đã dùng vàng mua đất, còn Thái tử cúng cây, hai người cùng dâng đức Phật và quy Phật pháp. Cấp Cô Độc được giao cai quản các cảnh chùa, còn Kỳ Đà lại vâng sắc chỉ đức Phật hộ trì Phật pháp trong ba châu, trở thành Tam châu Hộ pháp. Ngài là thiên tướng, tượng được thể hiện đứng nghiêm trên những đám mây đùn cao, mặc áo giáp đội mũ trụ, hai tay chắp trước ngực theo ấn liên hoa, thanh kiếm gác trên cánh tay để ngang trước ngực. Là võ tướng nhưng thân hình phốp pháp, mặt hiền hậu, dáng uy nghi chững chạc. Mang tư cách Hộ pháp, Kỳ Đà đáng ra phải được đặt ở toà chùa ngoài, nhưng nay nhường chỗ cho bát bộ Kim Cương. Tượng Thái tử Kỳ Đà là một pho tượng "lớn như Hộ pháp" đặt ở gian hồi mái lan xuống thâaas gần chạm đầu tượng, cái không gian hạn hẹp càng làm cho tượng bức bối muốn vươn ra nhưng lại biết kiềm chế với thế đứng nghiêm gác kiếm. Ngoại hình và nội tâm của Kỳ Đà khăớng định một phong cách khác Lê và Nguyễn, thuộc một giai đoạn mới của nghệ thuật đầy sức sống là Tây Sơn.

2. Kim Cương là lực sĩ thiên thần cầm chày kim cương hoặc một thứ vũ khí rắn, đem thần lực để hộ trì Phật pháp, tay kia đặt ở thế quyền. Chùa Tây Phương có 8 tượng Kim Cương đều đứng trên mây, trong đó 5 vị mặt đỏ, gân guốc, cương nghị và 3 vị mặt trắng nhân hậu. Bản thân tên Kim Cương đã thể hiện tính chất cứng rắn không thể phá vỡ, là vật báu quý nhất và là thứ vũ khí tốt nhâaas. Bộ tượng ở chùa Tây Phương gồm 8 pho là:
1. Thanh Trừ Tai Kim Cương
2. Tích Độc Thần Kim Cương
3. Hoàng Tuỳ Cầu Kim Cương
4. Bạch Tịnh Thuỷ Kim Cương
5. Xích Thanh Hoả Kim Cương
6. Định Trừ tai Kim Cương
7. Tử Hiền Thần Kim Cương
8. Đại Thần Lực Kim Cương

Tất cả đều là võ tướng, chân tay và khuôn mặt đang phối hợp với nhau trong những thế võ, có cả tính cương và tính nhu, không những ngoại hình phù hợp giải phẫu cơ thể mà còn toát ra nội tâm cương nghị mà đôn hậu. Trong bài các vị La Hán chùa Tây Phương, Huy Cận đã giành khổ thơ thứ 3 để nói về các vị Kim Cương:

Có mắt vị giương, mày nhíu xệch
Trán như nổi sóng biển luân hồi
Môi cong chua chát, tâm hồn héo
Gân vặn bàn tay mạch máu sôi.

Mà đúng ra là gắn với 5 vị Kim Cương mặt đỏ - một dạng của Hộ pháp trừng ác. Còn 3 vị Kim Cương mặt trắng lại là một dạng khác của Hộ pháp khuyến thiện, theo tính chất Kim Cương phải cầm võ khí, song khuôn mặt bầu bĩnh, mảng khối căng nuột, võ khí cũng chỉ cầm hờ, dáng vẻ khuyến khích. Cả 8 vị kim Cương đều cao lớn hơn hăớn người thực, ngoại hình cân đối, nội tâm rất người, áo giáp bó sát thân song ống tay, mép tà và dải lụa lại rất bay và mềm mại rõ chất vải lụa. Phong cách ấy chỉ thấy ở thời Tây Sơn, trước đó chưa có, sang Nguyễn bắt chước nhưng gượng, cứng.

Chùa Hạ, gian giữa bày tượng Quan Âm thiên thủ thiên nhãn. Tuy nhiên tượng này chỉ có ba mươi mấy tay thôi.


Tượng này có điều đặc biệt là đôi tay đưa lên khỏi đầu đỡ tượng A Di Đà (khác với tượng chùa Bút Tháp là đội trên mũ đội đầu). Ngoài ra, do tượng bày ở gian giữa, phía sau lộ rõ, nên còn một đôi tay đặc biệt chắp ngược ra sau lưng nữa cơ.



Các cánh tay của tượng Quan Âm. Những cánh tay nhỏ được cắm thẳng vào cánh tay lớn kết ấn trước bụng.
(năm 1991, đọc báo thấy viết Pho tượng Quan Âm cao gần 2m, nặng hàng trăm cân chỉ trong một đêm đã biến mất. Kẻ gian cậy cửa chùa, mang pho tượng ấy xuống gần 300 bậc đá (khá hẹp) xuống chân núi Câu Lậu, rồi mang lên ô tô đem đi. Đến tận bây giờ tôi vẫn nhớ cảm giác tức giận, sững sờ khi đó, dù chưa được thấy chùa bao giờ, nhưng nghe khá nhiều về tượng chùa Tây Phương, và trong lòng thấy đó là báu vật quốc gia, nay bị đem đi dễ dàng thế.

Đến bây giờ cũng không bao giờ nghe tin gì về pho tượng cũ cả.

Pho tượng mới được làm lại, nhìn chung khá giống nguyên bản (có xem ảnh tượng cũ - chụp đen trắng), còn chi tiết thì cũng không biết và không đủ trình độ để nói. Nhìn hình dáng, phong cách tượng mới để suy ra tượng cũ thôi vậy, thì pho tượng này cũng rất độc đáo trong cách sắp xếp các cánh tay.

Và cũng vì là tượng mới, nên đây là pho tượng duy nhất có màu thếp vàng trong chùa Tây Phương, không phải màu gụ, nâu đen và nhuốm vẻ thời gian như các tượng khác.)

Và một đôi tay chắp ra sau lưng.


-----
Hai bên chùa giữa (chùa Trung) có hai tượng Đức Ông, một trẻ râu ngắn, một già râu dài. 
Tượng râu dài là Long Thần, hay Già lam Chân tể (Người coi sóc thực sự của chùa*), có thể hiểu là trưởng giả Cấp Cô Độc.
Tượng râu ngắn có thể hiểu là Thổ địa, người canh giữ Đất. Hai vị thần giữ đất và giữ chùa, mà trong bài viết Root trích dẫn gọi là Sơn thần và Thổ địa.



Chữ Già lam có là phiên âm của tiếng Phạn, nghĩa là Chùa, Tự viện, có thể gọi tắt là Lam trong cụm "Danh lam thắng cảnh".
Hai bên gian chùa giữa còn hai tượng khác là Thái tử Kì Đà và Quan Âm tống tử.

Thái Tử Kì Đà (hay Vi Đà) là người sở hữu khu vườn Kì Viên tuyệt đẹp, mà trưởng giả Cấp Cô Độc đã mua lại bằng cách rải vàng đầy vườn, rồi mời Phật về thuyết pháp. Thái tử sau cũng theo Phật, và được coi là một vị hộ pháp. Xưa kia chùa cổ Việt Nam chỉ có tượng thái tử để bảo hộ, sau mới thêm các tượng Hộ Pháp lớn.

Thái tử Kì Đà cũng được gọi là Tam Châu thái tử. Tượng chắp hai tay, để ngang thanh gươm ở giữa. Có thể nói đây là hình ảnh cụ thể của "buông đao thành Phật".

Tượng có phần dải lụa quấn quanh thân rất mềm mại, cũng giống các tượng Kim Cương.




Hai bên gian chùa giữa còn hai tượng khác là Thái tử Kì Đà và Quan Âm tống tử.

Thái Tử Kì Đà (hay Vi Đà) là người sở hữu khu vườn Kì Viên tuyệt đẹp, mà trưởng giả Cấp Cô Độc đã mua lại bằng cách rải vàng đầy vườn, rồi mời Phật về thuyết pháp. Thái tử sau cũng theo Phật, và được coi là một vị hộ pháp. Xưa kia chùa cổ Việt Nam chỉ có tượng thái tử để bảo hộ, sau mới thêm các tượng Hộ Pháp lớn.

Thái tử Kì Đà cũng được gọi là Tam Châu thái tử. Tượng chắp hai tay, để ngang thanh gươm ở giữa. Có thể nói đây là hình ảnh cụ thể của "buông đao thành Phật".

Tượng có phần dải lụa quấn quanh thân rất mềm mại, cũng giống các tượng Kim Cương. 
(Lưu ý. Với tượng thờ, thì càng phải yêu cầu cao hơn. Cả miền bắc chỉ có vài làng là làm được tượng thờ. Tất nhiên tượng cũng phải ghép từ nhiều miếng, chứ không thể nguyên khối, nhưng họ làm với một sự thành kính, chân thành thực sự từ niềm tin, từ tâm của người thợ, và cả một sự sáng tạo nhất định.
Chẳng hạn những pho tượng Phật rất lớn bằng gỗ, thì cũng phải ghép từ nhiều phần, chứ làm gì có cây gỗ mít nào đủ to (tượng chùa Bà Đá đường kính đến hơn 1m. cao đến hơn 2m). Thế nên việc ghép các phần là rất bình thường. Có điều nhìn các pho tượng cổ, cái thần của nó vẫn khác. Những pho tượng gần đây làm, chỉ cố bắt chước cổ đã không xong, đừng nói là có sự sáng tạo linh hoạt mà vẫn mang tính tôn nghiêm.
Một phần có lẽ cũng vì kiến thức chuyên môn về lịch sử, văn hóa của người thợ ngày nay. Họ có thể biết rất nhiều về đủ các loại, nhưng lại không đủ về chính từng sản phẩm, nên nhiều lúc lẫn lộn, sai lầm.)

Tượng Quan Âm tống tử (tiễn con) ở một bên chùa giữa. Bên dưới là Thiện Tài đồng tử và Long Nữ. Bên cạnh tượng có con chim vẹt.

Tượng này là tích Quan Âm Thị Kính. Con vẹt là Thiện Sĩ sau khi chết hóa thành.



Ban thờ chính của gian giữa


Điện thờ này gồm các bộ từ trên xuống dưới:

Di Đà tam tôn: Phật A Di Đà đứng giữa Quán Thế Âm và Đại Thế Chí
Thích Ca tam tôn: Tuyết Sơn ngồi giữa A Nan và Ca Diếp
Di Lặc tam tôn: Di Lặc Phật ngồi giữa Pháp Hoa Lâm và Đại Diệu Tường 
Cửu Long: Thích Ca sơ sinh ở giữa Phạm Thiên và Đế Thích.
Pháp Hoa Lâm và Đại Diệu Tường cũng là hình tướng tương lai của Văn Thù và Phổ Hiền.

Nhưng chùa Tây Phương bị đảo vị trí hai tượng. Tượng A Nan (chắp tay thẳng lên trên) đáng ra phải đứng bên kia tượng Tuyết Sơn ở hàng thứ hai từ trên xuống, đối xứng với Ca Diếp (có râu cằm, mày rậm), thì lại đứng dưới tượng Ca Diếp.

Ngược lại, tượng Pháp Hoa Lâm (chắp tay ôm lấy nhau) đáng ra phải ở hàng thứ 3, đối xứng với Đại Diệu Tường (lộ ngực, ôm quyển sách), thì lại bị đổi với A Nan.

Mà 4 vị này đều để đầu trần, đầu trọc, khác với Quán Thế Âm, Đại Thế Chí có tóc dài và đội mũ, nên ít người để ý.
Tuy vậyphải sửa lại thế này mới đúng? :


Vị chắp tay thẳng là Pháp Hoa Lâm, đứng đúng chỗ.
Vị chắp tay ôm lấy nhau là Đại Diệu Tường, sai chỗ.
Vị có râu là Ca Diếp, đúng chỗ
Vị ôm sách là A Nan, sai chỗ.
Phải đổi tượng A Nan ở dưới lên trên, Đại Diệu Tường từ trên xuống dưới. 

Dấu hiệu nhận biết xin sẽ nói sau.




Ba pho Di Đà tam tôn ở vị trí cao nhất.
Tượng A Di Đà ở miền bắc thường là tượng ngồi, rất lớn. Ở chùa Tây Phương là tượng đứng, tay phải buông thõng, tay trái nâng trước ngực. 
Hai Bồ tát đứng hai bên đều đội mũ, trang sức, tay bắt thủ ấn "cát tường ấn". Vì đứng ở vị trí cao nên mắt nhìn xuống trông hiền từ hơn nhiều so với A Di Đà mắt nhìn ngang.



(Lưu ý: Cái điện thờ mà chitto đưa lên rất đặc biệt, vì nó có tượng Phạm Thiên và Đế Thích. Phạm Thiên, hay Đế Thiên chính là Brâhman, còn Đế Thích là Thần Sét. Tự nhiên quên mất tên thần sét chữ Phạn (Sancrit) là gì, khi nào nhớ lại được thì viết thêm vậy.

Hai vị thần này thuộc vào hệ thống Bà la môn giáo của Ấn độ, nhưng theo đạo Phật vào VN.

Tôi không nghĩ là thợ tạc tượng hiện đại có nhiều công cụ hơn ngày xưa, ngoại trừ một số cưa điện, hay máy bào... Còn việc ghép tượng từ nhiều mảnh ráp lại thì có từ xưa rồi. Thường thường tay, thậm chí một phần thân cũng được ghép vào, vì người ta không thể tìm được một cây gỗ lớn như thế. Cũng không có gì đảm bảo là thợ ngày nay sẽ tài hơn ngày xưa, ngoại trừ việc thợ ngày nay làm là copy lại, phục chế lại... tức là đã có mẫu. Tức là không phải sáng tạo, nên công việc đơn giản hơn. Nhưng để cho tượng có thần, linh hoạt, sống động.. thì cực khó. Chỉ cần nét mặt vạc đi một tí, vạt áo lệch một tí .. là tượng biến thành hàng chợ ngay. 

Thường thì người ta hay tạc bằng gỗ mít, vì nó dẻo và độ cứng đều nhau và không bị thớ làm hại. Người ta cũng có thể dùng gỗ thông, vì nó cũng có tính chất tương tự như thế. Khi phết sơn ta, hay sơn mài ra ngoài, thì nó cũng có tác dụng chống mối mọt nữa.

Nơi thờ phật thì gọi là chùa
Nơi thờ thần lớn thì gọi là đền, nhỏ thì gọi là miếu.
Nơi thờ mẫu thì gọi là phủ.
Nơi thờ thần theo đạo lão thì gọi là Quán.
Thần cũng có thể được thờ trong đình làng nếu được coi là Thành hoàng.
Người giữ chùa gọi là Sư, người giữ đền gọi là Từ.

Ông Từ (thành ngữ “Hiền như ông từ ở đền”) là một người được làng cắt ra để trong coi việc tế tự ở đình hoặc ở đền. Người làm ông Từ có gia đình, được ăn hương hoả của đền, và các đồ cúng. Thường trước khi có một dịp lễ lớn, ông từ phải trai giới vài ngày, tuỳ theo mức độ quan trọng của buổi lễ. Trái giới tức là ăn chay và không được làm việc ... ấy với phụ nữ.

Trong thực tế thì căn cứ vào tên cũng khó đoán được hệ thống nào. Ví dụ. Ở Thanh Hoá có đền thờ cô Chín gọi là đền Sòng, nổi tiếng. Gọi là đền thực ra nó là phủ, vì là đạo Mẫu. Chùa Tam Thanh ở Lạng Sơn, gọi là chùa nhưng thực chất là Quán vì đây là tín ngưỡng đạo Lão. Đền Quan Thánh thực ra là Quán vì thờ một vị thần đạo Lão là Huyền Võ trấn quốc (quan võ mầu đen trấn phương Bắc). Có thể khởi đầu đó là Quán Thánh, nhưng rồi từ Quán biến thành Quan nên phải thêm chữ đền.

Trong nhiều chùa cũng thờ kết hợp, kiểu tiền phật, hậu mẫu. Ví dụ chùa Kim Liên, chùa Chân Tiên ở Hà nội hay nhiều chùa khác.)
Đóng góp bởi: Admin
Nguyễn Đức Can
36phophuong.vn biên tập
--------

Xem thêm.





Lễ Vương Thiền Tự .

Một ngôi chùa cổ trong làng được sắp xếp rất trình tự.
1) bộ Tam Thế 
2) bộ Di Đà Tam Tôn 
Đức phật A Di Đà giáo chủ cõi Tây Phương cực lạc
Và hai bên là hai vị bồ tát Quán Âm và bồ tát Đại Thế chí.
3) Chuẩn Đề bồ Tát
4) Di lặc bồ tát
5) toà cửu long
Và hai bên là hai vị nhị chủ ( vua hai cõi trời luôn theo bảo vệ chính pháp của Đức Phật.

Theo FB Nhân Phúc.

---------------------------------

Toà Đại hùng bảo điện -Viên Minh Thiền Tự.

Ngôi chùa được Thiền Sư Nguyên Uẩn dựng thời Thành Thái.
Và nay Đại Lão Hoà Thượng Thích Phổ Tuệ trụ trì nơi đây, đó là một bậc Sa Môn chân tu đạo hạnh trang nghiêm bậc tùng lâm của phật giáo nước Nam.



Trên cùng 
1) bộ Tam thế phật

2) bộ Di Đà tam tôn- Tây Phương Tam Thánh 
Đức Phật di đà, đại từ bi quán thế âm, đại lực đại thế chí

3) tượng Thích ca niêm hoa
Hai bên hai vị bồ tát phải là bồ tát tống tử bên trái là địa tạng bồ tát

4) giữa là Bồ Tát Di Lặc và hai bên là tượng nhị chủ (vua hai cõi trời đao lợi, trời đại phạm) hiệu là Đế thích, phạm vương.

5) bên phải Đức Thánh Tăng 
Bên trái là Đức thổ địa.

Theo FB Nhân Phúc.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét