Không đông nhưng mắn |
Xin nói một điều.
Xưa ấy, loạt bài về "Người Rục định canh định cư", "trồng lúa nước" như người Kinh là "thông tấn". Có bài phóng viên "cò" với chiêu thức: cho người Rục màn chống muỗi thì họ mang đi đơm cá ở suối. Rồi là cắt đuôi bò của chính phủ cho để nhắm rượu, như là người thành phố về nông thôn, nhìn cái gì cũng có thể bình cho cười vui "hiểu biết", chỉ là lá cải.
Vừa qua Ông Dương Minh Long nói, vào bản Rục đang mùa đói, lũ: "... đi nhưng cơ khổ, người Rục chẳng ai biết chèo đò. Họ hú họa trên rừng, vắt vẻo trên hốc đá quen rồi, với họ mái chèo là một dụng cụ gần như trừu tượng, một sản vật văn minh khó học hỏi. Không hiểu vì sao?"
Quay lại hang chụp "sắp đặt": Rời hang đá |
Thiển nghĩ, cụ Đồ Chiểu xưa, không dùng savon của Pháp, lội bộ khắp Nam kỳ lục tỉnh chứ không thèm đi đường bộ, đó là ý chí.
Tôi bây giờ, ngủ vẫn không thể đeo tất chân được, nếp cha mẹ quê vùng "chiêm khê mùa thối", có bao giờ biết đến cái "vớ" ấy đâu. Thường nhật, vẫn thích ăn mắm cáy cùng rau muống với dưa cà, thói quê khó sửa. Đó là tập quán.
Vậy người Rục ra sao, khi mới 50 năm qua họ theo nền văn minh đa số, trong khi đó để chuyển đổi, một hơi thở của xã hội loài người cũng qua hàng thế kỷ.
Làm lúa nước như xã viên "hợp tác" |
Phải chăng ta đã đưa người Rục khỏi môi trường lâu đời của họ chưa đúng cách.
Đường vào làng Rục thăm thẳm xa. Băng qua rừng non và khoảnh đất buồn. |
Em trông em cho mẹ em đi bừa |
...
2. Theo tiếng dân tộc Chứt (bao gồm nhóm người Rục) ở Quảng Bình, Rục có nghĩa là nơi nước lặn xuống đất để chảy ngầm dưới đất hoặc nước từ ngầm nổi lên trên.
Nhóm người Rục được phát hiện muộn nhất (năm 1959) ở xã Thượng Hóa, huyện Minh Hóa và đến năm 2004 có 85 hộ với 428 nhân khẩu và cũng là nhóm nhỏ nhất so với toàn bộ các nhóm dân tộc khác trên đất nước Việt Nam.
Bữa ăn của người già |
leo cây "ăn ong" là nghề tổ vậy |
Quần áo của nhóm người này được tự đan lấy bằng sợi của vỏ cây sui, loài cây có nhựa mủ độc nhưng vỏ có nhiều sợi.
Người Chứt có quan hệ vợ chồng bền vững. Lễ cưới được tổ chức bên nhà gái trước lễ đón dâu. Lễ vật trong đám cưới ngoài lợn, gà, luôn phải có thịt khỉ sấy khô.
Người Chứt có quan hệ vợ chồng bền vững. Lễ cưới được tổ chức bên nhà gái trước lễ đón dâu. Lễ vật trong đám cưới ngoài lợn, gà, luôn phải có thịt khỉ sấy khô.
Người Rục sống rải rác, rất hoang dã trong các thung lũng và núi đá ở núi Ma Ma, họ vẫn muốn từ chối sự giúp đỡ về nhà cửa, trường học, y tế, gia súc của chính quyền.
Việc ma chay của người Chứt đơn giản, chỉ cúng bái, rồi đưa người chết đi chôn. Mộ được đắp thành nấm đất, không có nhà mồ bên trên. Sau 3 ngày, tộc trưởng làm lễ gọi hồn cho người chết về ngụ tại bàn thờ tổ tiên ở nhà tộc trưởng, từ đó người thân không chăm sóc mộ nữa.
Người Chứt có làn điệu dân ca Kà-tưm, Kà-lềnh. Nhạc cụ có khèn bè, đàn ống lồ ô loại cho nam và loại cho nữ, sáo 6 lỗ... Dân tộc Chứt có vốn truyện cổ và văn nghệ dân gian phong phú, gồm nhiều đề tài khác nhau.
Bếp "tái định cư" |
Người Chứt tin có ma rừng, ma suối, ma không trung, ma bếp... họ tin có Thần nông bảo vệ mùa màng và là vị thần tối cao.
"Tam đại đồng"... sàng |
Và các nhà văn hoá học xem đây là một đối tượng cần phải gìn giữ như một di sản phi vật thể của dân tộc.
3. Chuẩn thoát đói của Việt Nam mà Nông lương thế giới nói là chuẩn gạo. Không ai lấy sắn ra làm chuẩn thoát đói. Và Việt Nam là cường quốc xuất khẩu lúa gạo mà người Rục đói gạo là rất lạ.
Bữa ăn của em đây |
Mẹ em cấy lúa "chăng dây" |
"Em ngồi, em mơ , một ngày có cơm ..." |
Em mặc áo hoa ... ... cho anh chụp ảnh. |
Mẹ ới mẹ ơi! trời trưa vừa tròn bóng. |
Em đi vác gỗ ... rừng xa |
Thật tội nghiệp!
Trả lờiXóa... Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn
Trả lờiXóa