Baroque: huy hoàng, lồ lộ, gây xúc động.
Anh Nguyễn biên soạn
Anh Nguyễn biên soạn
Nếu tôi hỏi bạn rằng “Bạn có
phải là fan của âm nhạc Baroque hay không?”, có thể bạn sẽ ngần ngừ trước khi
trả lời. Nhưng nếu tôi hỏi lại, rằng bạn đã bao giờ nghe tổ khúc Bốn mùa của
Vivaldi, hoặc các trích đoạn giao hưởng của Bach và Pachelbel trong vô vàn bộ
phim thương mại, từ Twilight đến Cô nàng ngổ ngáo, trong
các buổi lễ khánh tiết, trong các đám cưới, trong các bài biểu diễn trượt băng,
và bạn gật đầu, thì xin chúc mừng, bạn đã được tiếp cận với âm nhạc Baroque một
cách vô thức rồi đó. Thật tuyệt vời khi nhận ra rằng các trào lưu nghệ thuật của
quá khứ thật ra chưa bao giờ mất đi và bị lãng quên hoàn toàn, mà chỉ đơn giản
được ẩn đi và vẫn lặng lẽ tô điểm cho cuộc sống của chúng ta theo những cách bất
ngờ nhất.
Nếu tìm về ngọn nguồn xuất xứ
của từ Baroque, ta cần thăm nàng tiên ngọc trai. “Baroque”, hay barroco, là từ
chuyên dụng để chỉ những viên ngọc trai có hình dạng méo mó, không cân xứng
hoàn hảo với hàm ý chê bai. Và nghệ thuật Baroque cũng bị chỉ trích vì sự thừa
thãi, quá đà của nó. Nhưng nếu ngọc trai Baroque có giá trị đặc biệt chính nhờ
sự khác thường thì nghệ thuật Baroque cũng như vậy.
Cũng như Mannerism, Baroque, đứa em út, tiếp tục
“được” so sánh với Phục Hưng điềm tĩnh, cân xứng, và sự cầu kì, điệu bộ, xa hoa
của Baroque bị coi là diêm dúa, quê mùa. Song giữa vô vàn những viên ngọc trai
Baroque đã chìm vào lãng quên, ta còn lại các bản giao hưởng của Bach, truyện Don
Quixote, cung điện Versailles, đài phun nước Trevi, và còn nhiều ví dụ khác nữa.
Trong bài hôm nay, hãy cùng thưởng thức một góc cạnh của Baroque: nghệ thuật.
Mặt
dây chuyền trang trí hình thần biển với một viên ngọc trai Baroque làm thân người,
gắn thêm ngà voi, vàng, đá quí, tráng men. Khoảng 1680, Hà Lan.
Martin Luther |
Không khác với Mannerism, một phần quyết định tính chất
của nghệ thuật Baroque là yếu tố chính trị. Khi Martin Luther viết những tác phẩm
đầu tiên chỉ trích giáo hội công giáo vào năm 1517, ông đã bắt đầu một chuỗi sự
kiện có tính chất bước ngoặt trong bộ mặt chính trị thế giới. Nhờ có ngành in mới
phát triển, ảnh hưởng của chúng càng lan rộng. Để phòng thủ-tấn công, giáo hội
Công giáo một mặt vừa cải tổ bên trong, một mặt nhấn mạnh lại những học thuyết,
tìm cách gây dựng lại sự sùng kính của các tín đồ.
Hội đồng Trent |
Nghệ thuật chính là trợ thủ
đắc lực của nhà thờ trong trận chiến đó. Hội đồng Trent, dẫn đầu bởi giáo hoàng
Paul III, thành lập năm 1545, quyết tâm sử dụng nghệ thuật như một công cụ hữu
hiệu trong việc đánh trực tiếp vào cảm xúc của người dân mà số đông vẫn còn mù
chữ. Nghệ thuật ấy cần đẹp, nhưng đẹp không chưa đủ, mà còn phải lộng lẫy, phải
vượt quá trí tưởng tượng tầm thường, phải gây một ấn tượng siêu phàm. Có vậy mới
khiến những kẻ thất học tin hơn vào quyền năng của Chúa, hay chính xác hơn, của
nhà thờ Cơ đốc.
Và hội họa với chủ đề Thiên
chúa giáo có đầy đủ những gạch đầu dòng sau:
- Có một cố gắng rõ rệt tìm
cách lôi kéo người xem vào tác phẩm, biến người xem thành một phần tác phẩm. Để
đạt được điều đó, tranh và tượng Baroque rất thật, cảm xúc mạnh mẽ.
- Không còn sự che giấu, nửa
kín nửa hở, đánh đố của Mannerism. Tất cả các hành động, suy nghĩ, tình cảm đều
trực tiếp, rõ ràng, mạnh bạo, để cho “ai cũng hiểu được.”
- Để tạo được sự kịch tính,
tranh Baroque nhấn mạnh vào sự huy hoàng – huy hoàng của khung cảnh, của cơ bắp,
của tình yêu-tình dục. Ánh sáng tương phản mạnh, màu sắc rực rỡ, các thân hình
xoay chuyển, rung động, lao vào nhau, đè lên nhau. Baroque là một bộ phim hành
động.
- Những chủ đề được ưa chuộng
cần tạo ra sự hồi hộp, xúc động, để “câu khách”: sự hiến thân, cái chết, những ảo
ảnh, những trạng thái xuất thần.
Tác phẩm điêu khắc “cổ động”
tiêu biểu nhất của Baroque, chắc chắn phải là nhóm tượng của Giovanni Bernini.
“Sự
xuất thần của thánh Teresa” (The Ecstasy of St. Teresa),
của Giovanni Lorenzo
Bernini, 1652
Diễn tả cảnh tượng thánh
Teresa thành Avila trong trạng thái xuất thần, Bernini đã dựa trên lời thuật lại
của nữ thánh khi thiên thần xuất hiện và “Tôi nhìn thấy trong tay người một ngọn
giáo bằng vàng, đầu giáo dường như có một ngọn lửa nhỏ. Người đâm tôi rồi lại
rút ra đâm tiếp vào trái tim tôi, và khiến tôi bốc cháy với tình yêu dành cho
Chúa. Nỗi đau đớn lớn đến nỗi nó khiến tôi rên rỉ, vậy nhưng sự ngọt ngào đến từ
nó khiến tôi mong nó kéo dài mãi không dừng…” Nếu khi đọc đến đây, bạn có một sự
liên tưởng gì hơi… lạ thì yên tâm, ngay cả Bernini đã điêu khắc sự hạnh phúc tột
cùng trong đau đớn của thánh Teresa với nỗi hoan lạc trần tục. Hãy nhìn cử chỉ,
tư thế, gương mặt, bàn tay của nữ thánh khi thiên thần ở trên đâm bà với ngọn
giáo vàng – một ẩn dụ không thể chối cãi.
Một tác phẩm khác, cũng theo
dòng chủ đề Baroque thần thánh gặp người trần, là bức tranh diễn tả sự kiện
thánh Paul cải đạo trên đường tới Damascus, của Caravaggio.
“Cải
đạo trên đường tới Damascus” (Conversion on the way to Damascus),
của
Caravaggio, 1601
Được vẽ riêng cho nhà thờ
Santa Maria del Popolo tại La Mã, bức tranh vẽ cảnh thánh Paul, vị giáo hoàng đầu
tiên và nền móng của nhà thờ Cơ đốc, khi ấy vẫn mang tên Saul, ngã ngựa trên đường
tới Damascus và nghe thấy lời truyền của chúa Jesus. Thánh Paul chính là người
nằm ngửa trên mặt đất, hai cánh tay giang ra; bên cạnh chú ngựa là người bạn đồng
hành. Caravaggio là một bậc thầy về ánh sáng, và đây là một trong những ví dụ
hoàn hảo nhất về tài ba của ông. Giữa màn đêm tối tăm, một điểm sáng cực mạnh
chiếu rọi lên thánh Paul, trong khi phần còn lại chìm trong bóng tối –
Caravaggio nhấn mạnh rằng thánh Paul chính là người duy nhất trong bức tranh được
kết nối với Chúa và được ánh sáng kì diệu của thiên Chúa chiếu rọi. Tuy chú ngựa
mới ở chính giữa của bức tranh còn thánh Paul không những bị vẽ rút gọn theo luật
xa gần mà còn quay lưng lại, Paul mới là trung tâm, là nhân vật chính.
Caravaggio vừa phân bổ ánh sáng, vừa đặt Paul ở vị trí gần nhất với người
xem để làm nổi bật vai trò quan trọng của khoảnh khắc này.
Hãy tạm rời những chủ đề quá
mạnh mẽ để chiêm ngưỡng Bốn lục địa của Rubens, một cách tiếp cận tôn
giáo lãng mạn và êm ái hơn.
“Bốn lục địa” (The four
continents), của Peter Paul Rubens, 1615
Rubens, một họa sĩ Hà Lan đến
từ Antwerp không chỉ chịu ảnh hưởng của Michelangelo, Raphael, và Leonardo de
Vinci mà còn của Titian và Tintoretto. Trung thành với nhà thờ Cơ Đốc giáo,
Rubens hưởng ứng phong trào Cải cách một cách nhiệt thành. Những bức tranh của
ông là sự kết hợp của tôn giáo, lịch sử, và thần thoại. Rubens là đại diện của
Baroque lãng mạn và quyến rũ. Những người phụ nữ nẩy nở má hồng là một thương
hiệu riêng của Rubens, và đến giờ từ “Rubenesque” vẫn được sử dụng để chỉ những
cơ thể đầy đặn, phổng phao. Nếu Caravaggio giỏi về ánh sáng thì thế mạnh của
Rubens là cách dùng màu sắc tươi nhưng không rợ. Những motif thiên thần, tình
yêu, thể xác cũng xuất hiện dồi dào trong tranh của Rubens. Trong bức tranh
nay, bốn lục địa được nhân cách hóa thành bốn người phụ nữ quây quần, hòa đồng
trong niềm tin tưởng tuyệt đối và sự thần phục hoàn toàn với Thiên chúa. Tuy
nhiên nếu không có cốt truyện, thật khó thấy bất kì một mối liên hệ nào giữa những
người phụ nữ phốp pháp trong vòng tay các ông râu dài này với sự mộ đạo!
Cuối cùng, để tổng kết lại bài
viết nhập môn về Baroque, hãy tới thăm Rembrandt. Bức tranh vẽ Andromeda bị
trói trên núi đá là lần thử sức đầu tiên của Rembrandt với tranh khỏa thân.
“Andromeda bị trói vào núi
đá” (Andromeda chained to the rocks),
của Rembrandt, 1631
Chủ đề về Andromeda đã bị
khai thác không thương tiếc trong nghệ thuật cổ điển – một cái cớ để vẽ một người
phụ nữ đẹp không mặc quần áo. Câu chuyện của Andromade được thuật lại trong
Metamorphoses của thi hào Ovid, khi sắc đẹp cũng là một lời nguyền (nhất là khi
có một bà mẹ huênh hoang). Trước Rembrandt, Andromeda đã “qua tay” Titian,
Goltzius, và cả Rubens nữa. Nhưng Rembrandt đã đem đến một góc nhìn hoàn toàn
khác về Andromeda. Thay vì đơn thuần phô diễn kĩ thuật vẽ nude, khoe khoang vẻ
đẹp kiêu kì của người con gái đẹp, Rembrandt khắc họa Andromeda đúng như một cô
gái sợ hãi vì sắp bị ăn thịt phải thế: đôi mắt hoảng sợ, gương mặt nhút nhát,
tư thế khom khom. Thân thể trắng lóa của nàng được chiếu sáng không nhằm mục
đích ca tụng mà như đặt nàng vào một vị trí nguy hiểm, một mục tiêu dễ dàng,
như một chú nai sắp bị ô tô cán đến nơi. Nói cách khác, Andromeda của các họa
sĩ trước đây chỉ là người mẫu, nhưng Andromeda của Rembrandt là một nữ diễn
viên thực thụ.
Kéo dài từ 1590 đến 1725, những
thành tựu của Baroque khiến những người đương thời và các thế hệ sau, dù muốn
hay không, cũng không thể không bị nó cuốn hút và chinh phục. Khi Baroque thoái
trào, chuyển sang một giai đoạn nhẹ nhõm, tươi tắn hơn, chúng ta có Rococo, một
chủ đề sẽ được thảo luận trong tương lai rất gần.
Mời các bạn tìm
hiểu các tác phẩm của Vermeer, của nữ họa sĩ Artemisia Gentileschi, và Nicholas
Poussin (Baroque Pháp) và chỉ ra các đặc điểm của Baroque vừa được nêu trong
bài nhé.
(nguồn: soi.today)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét