Thiết nghĩ. Chúng sinh không có bản ngã nên vui buồn sướng khổ đều là do duyên mà thành. Nếu được những điều vinh dự cũng là do tích nhân từ trước tạo ra nên hôm nay mới được như thế. Đến khi duyên hết rồi thì trở lại là không, có gì mà vui đâu? Được hay mất cũng đều là do duyên chứ cái tâm không hề tăng hay giảm.
Chàng Hư Trúc này là ví dụ điển hình và rõ nét nhất của chữ "Duyên"
Trong tiểu thuyết Thiên long Bát bộ của Kim Dung, chàng Hư Trúc khi ở trong hầm băng cùng Thiên Sơn Đồng lão, bị bà ép ăn thịt, uống rượu rồi ngủ cùng Mộng cô, câu niệm cửa miệng của nhà sư trẻ này là "sắc bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc; thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị" (sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc; sắc tức là không, không tức là sắc; thọ, tưởng, hành thức cũng là như vậy).
Hư Trúc đã đọc câu kinh được xem là thâm ảo nhất trong Bát nhã Ba la mật Tâm kinh.
Giới luật được Thiên Long Bát Bộ bàn đến là giới luật thuộc bộ phái phát triển Phật giáo, hay gọi là Đại thừa, gồm giới của Tỷ kheo (250 giới), giới của Bồ tát (58 giới) - Thập nhân cũng là hạnh của Bồ tát hành các ba - la - mật khá rành rẽ.
- Về căn bản của đường tu phạm hạnh, tác giả đã phát biểu qua lời lẽ của tiểu Tăng Hư Trúc:
"Đệ tử nhà Phật lấy từ bi làm căn bản, lấy phổ độ chúng sinh làm tâm nguyện, cốt sao cho minh tâm kiến tánh. Còn luyện võ công được cao thâm cũng là hay, mà luyện chẳng tới đâu thì cũng không ngại gì đến việc tu thành chánh quả. Kẻ tu hành không thể chuyên tâm luyện võ mà xao lãng việc chính yếu là tu tâm dưỡng tính"
Lời lẽ đã nói đủ hạnh tu chân chánh của Phật giáo là tự độ song hành với độ tha để mình và người đều minh tâm kiến tánh, đắc được trí tuệ giải thoát, cái trí tuệ thấy rõ sự thật của vạn hữu và chặt đứt sạch mọi phiền não khổ đau. Lời lẽ Hư Trúc đã phản ảnh trung thực giáo lý nhà Phật.
- Khi Hư Trúc đang vướng ngại, chấp thủ cái tướng tiểu cô nương và đại cô nương, thì mường tượng nhớ đến một lời kinh Kim Cương rằng: "Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng" (cái gì có tướng tức là hư vọng). Lời kinh này nhất thời giúp Hư Trúc đi ra khỏi cái tâm vướng ngại về cái tướng cô gái nhỏ, cô gái lớn để tự tại hơn trong học hỏi và cứu giúp Đồng Mỗ.
Trao đổi với Đồng Mỗ, Hư Trúc nói:
"Tiền bối! Nhân sinh vô thường, vô thường là khổ. Người ta chịu khổ phần nhiều là do ba cái độc tham, sân, si mà ra. Giả sử tiền bối cố gắng tự tiêu trừ ba cái độc này, đừng nhớ đừng hận sư đệ sư muội của tiền bối nữa, thì trong lòng sẽ thấy dễ chịu hơn".
Lời trao đổi nghe rất Phật giáo! Rất trung thực đối với giáo lý nhà Phật, nói lên tính chất thiết thực hiện tại: an lạc ngay trong hiện tại.
- Khi bị hành khổ, Hư Trúc đọc lời kinh để tự tỉnh:
"Tu đạo cực khổ, phải nghĩ kiếp trước, bỏ gốc theo ngọn, sinh lòng yêu ghét, kiếp này không lỗi, nhưng lỗi ở kiếp trước, sao thì phải vậy, không nên oán trách, gặp khổ chẳng buồn, mới là đạt đạo".
(sưu tầm và biên soạn, tháng 11/2012)
*****
Mời đọc thêm về "chàng" tiểu hòa thượng Hư Trúc.
Hư Trúc |
Hư
Trúc vốn là người có võ công và nội lực cao nhất Thiên Long. Tu hành từ thưở mới
lọt lòng mẹ tại Chuà Thiếu Lâm, vào sân khấu Thiên Long với số tuổi mười sáu,
mười bẩy nên anh không còn là chú tiểu, song anh vẫn chưa phải là Sư bác, Sư
ông. Ta gọi anh là Sư chú.
Hư
Trúc trạc tuổi Đoàn Dự, Mộ Dung Phục, Du Thản Chi. Anh chỉ muốn tu hành suốt đời
và tuy tu trong chuà Thiếu Lâm, nơi ai cũng võ nghệ cùng mình, võ từ Phương Trượng
Đại sư đến ông bếp già quanh năm và cả đời chỉ đánh lộn với đám nồi niêu, xoong
chảo; Sư chú Hư Trúc hoàn toàn không có chút xíu võ công nào cả. Như đã nói anh
chỉ muốn tu thành chánh quả, không muốn học võ.
Hư
Trúc được đi theo hầu hạ Sư phụ, một cao tăng chùa Thiếu Lâm đi vân du. Khi ấy
trên giang hồ có tin Tổng Đàn Vô Vi Phái ở Hồ Nam mở cuộc tuyển lựa người làm
Chưởng Môn Nhân. Sư phụ của Hư Trúc đến đó chứng kiến cuộc tuyển người. Vì uyên
nguyên ấy Sư chú Hư Trúc cũng đến Tổng Đàn Vô Vi Phái ở Hồ Nam.
Cảnh trong phim Thiên Long Bát Bộ |
Vô Vi
Phái có thủ tục lạ kỳ: không tuyển người trong phái làm Chưởng môn nhân mà lại
tuyển người ngoài. Cách tuyển người cũng không giống ai: một bàn cờ đã sắp sẵn
được đặt ra, ai phá được thế cờ, thắng được ván cờ sẽ được Vô Vi Phái nhận làm
Chưởng môn nhân.
Tô
Tinh Hà, một nhân vật cao cấp trong Vô Vi Phái, chủ trì bàn cờ. Nơi đấu cờ được
tổ chức trên bãi cỏ rộng lưng đồi, trước một căn nhà gỗ, bên hàng thông xanh.
Được tin biểu huynh của nàng là Mộ Dung Công Tử sẽ đến dự cuộc tuyển lựa, Vương
Ngọc Yến đến Tổng Đàn Vô Vi Phái. Đoàn Dự đi theo nàng nên Đoàn Dự cũng đến Tổng
Đàn Vô Vi Phái.
Ác
Quán Mãn Doanh Đoàn Diên Khánh đến dự tuyển. Lão ngồi vào bàn cờ trước nhất.
Lão rất cao cờ — cờ này là Cờ Vi, không phải Cờ Tướng — nhưng thế cờ bí hiểm
làm lão đầu váng, mắt hoa, kinh mạch đảo lộn. lão đành chịu thua. Đoàn Dự rồi Mộ
Dung Công Tử được Tô Tinh Hà long trọng mời vào bàn cờ. Tô Tinh Hà rất muốn một
trong hai chàng trẻ tuổi đẹp trai, hào hoa phong nhã Đoàn Dự, Mộ Dung Phục giải
được thế cờ, làm Chưởng môn Tinh Tú phái.
Đoàn
Dự không thích võ công, cũng chẳng ham làm Chưởng môn bất cứ bang phái nào trên
cõi đời này. Chàng đến đây chỉ vì chàng đi theo Vương Ngọc Yến. Và chàng xây sẩm
mặt mày khi nhìn thấy tình yêu của Vương Ngọc Yến với biểu huynh của nàng,
chàng còn tinh thần đâu mà cờ với quạt. Chàng ngồi vào bàn cờ vì được Tô Tinh
Hà trịnh trọng mời.
Đây
là lần thứ nhất Mộ Dung Công Tử xuất hiện bằng xương, bằng thịt trên sân khấu
Thiên Long. Trước đó Kim Dung toàn diễn tả chàng qua lời những nhân vật Thiên
Long nói đến chàng và bản lãnh gọi là ” Đẩu chuyển, tinh di” của nhà Mộ Dung.
Kim
Dung cho Mộ Dung Phục xuất hiện đẹp như rồng, như phượng. Chàng đứng trên đỉnh
hàng thông xanh gần đó tự lúc nào không ai hay. Từ xa một chiếc lá bay tới lơ lửng
trên bàn cờ rồi rơi xuống một ô cờ. Mọi người quanh bàn cờ ồ lên một tiếng kinh
ngạc và thán phục. Nước cờ quá hay. Người vừa đi nước cờ tuyệt diệu ấy phải là
một Vô Địch Kỳ Vương.
Vương
Ngọc Yến bèn kêu lên:
– Biểu
huynh của ta đến… Biểu huynh của ta là Mộ Dung Công Tử… Biểu huynh của ta chắc
sẽ giải đuợc thế cờ này…
Quần
hùng biết người vừa ném chiếc lá là Mộ Dung Công Tử, và Công Tử sắp đến. Công Tử
đến thật. Công Tử thần thái hào hoa, phong nhã, ung dung ngồi vào bàn cờ. Công
Tử còn điển trai hơn cả Đoàn Vương tử nước Đại Lý. Mọi người nín thở. Tô Tinh
Hà bồi hồi chỉ mong Công Tử phá được thế cờ. Nhưng chỉ sau vài nước cờ có vẻ
sáng sủa, thế cờ của Công Tử lập tức đi vào ngõ bí. Mộ Dung ngồi lặng trước bàn
cờ. Chàng thấy thế cờ giống như tình trạng mộng ước khôi phục ngai vàng Yên quốc
của gia đình chàng. Chàng chỉ còn một nhúm tàn quân bị quân địch bao vây kín mít.
Chàng tiến lên là chết, lùi lại cũng chết, sang phải chết, sang trái cũng chết,
ở yên cũng chết. Biết làm sao đây? Sự suy nghĩ và tuyệt vọng làm Mộ Dung Phục mắt
hoa, đầu váng, máu tươi ứa ra trong miệng chàng.
Đến
lượt Sư chú Hư Trúc ngồi vào bàn cờ. Anh ta không có ý định ngồi vào bàn cờ vì
anh hoàn toàn mù tịt về cờ quạt. Anh ngồi vào bàn cờ chỉ vì nghe có tiếng người
bảo nên ngồi vào. Anh tưởng người ra lệnh cho mình là Sư phụ của anh. Nhưng người
ra lệnh cho anh lại là Ác Quán Mãn Doanh Đoàn Diên Khánh. Lão dùng phép “truyền
âm nhập mật” nói vào tai Hư Trúc. Truyền âm nhập mật là phép người nói không
nói ra tiếng, và người nói muốn nói với ai thì chỉ người được cho nghe mới nghe
được tiếng.
Lão
Ác Ma đã thua cuộc, ra đứng chầu rìa, nhưng lão còn cay cú. Lão cho nhà sư trẻ
vào cuộc để phá chơi cho bõ ghét. Lão vẫn dùng phép truyền âm nhập mật, chỉ cho
Hư Trúc đánh bậy, đánh bạ. Mọi người lại ồ lên ngạc nhiên khi thấy nhà sư trẻ
đi một nước cờ.
Đây
là nước cờ tự sát: đẩy quân mình vào chỗ chết. Không ai, kể cả những tay cờ cao
đến đít vịt xiêm lai, lại đi nước cờ ngu ngốc này.
Tô
Tinh Hà liền giận dữ quát lên:
– Đây
không phải là nơi mấy người đến rỡn chơi đó nha!
Lão
đánh một chưởng lên tảng đá gần bên. Tảng đá vỡ tan tành làm nhiều mảnh…
Hư
Trúc ngồi chết trân. Anh ta muốn xin lỗi nhưng chưa mở miệng ra nói được. Thái
độ mọi người bỗng trở thành khác lạ. Người ta thấy nhà sư trẻ vừa đi một nước cờ
tuyệt diệu. Cờ lâm thế bí, phải hy sinh một số quân mới có thể thoát được trùng
vi, mới có đường thoát ra trung thổ để tranh thắng, tranh hùng. Mà đúng như vậy.
Sau nước cờ thí quân, thế cờ bí của Hư Trúc bắt đầu được giải. Từ nước này trở
đi là dễ rồi. Đoàn Diên Khánh dùng truyền âm nhập mật chỉ tiếp, Hư Trúc thắng
ván cờ.
Nhà
sư trẻ không muốn được tuyển làm bất cứ chức tước gì trên cõi đời này, định mệnh
an bài cho anh trở thành Chưởng Môn Vi Vô Phái. Anh được Tô Tinh Hà đưa đến trước
căn nhà gỗ. Hư Trúc chợt ngẩn ngơ:
– Nhà
không có cửa! Làm sao mà vào..?
Tô
Tinh Hà nói lớn:
–
Không có cửa thì phá vách mà vào…
Lão đẩy
mạnh Hư Trúc. Nhà sư trẻ lao vào vách gỗ. Vách bể, nhà sư ngã vào trong căn
nhà. Khi ngồi lên được Hư Trúc nhìn quanh. Trong nhà tối mờ. Anh sợ hãi khi thấy
bóng người lơ lửng giữa chừng. Ban đầu anh tưởng là ma. Sau đó anh nhìn kỹ mới
biết đó là một người được treo vào sợi dây buộc lên mái nhà. Người được treo xếp
vòng tròn, chân ở trên, đầu ở dưới. Anh nghe tiếng người đó gọi:
– Tiểu
tử.. Mau lại đây…
Anh
rón rén lại gần. Người treo lơ lửng là một ông già đẹp lão, sắc mặt hồng hào,
ánh mắt sáng long lanh. Ông này là Vô Nhai Tử, Chưởng Môn Vô Vi Phái. Thời trẻ
ông rất đẹp trai. Ông sắp từ trần, ông chỉ còn sống để chờ truyền nhân. Một lần
nữa người đọc thấy điểm độc đáo của Vô Vi Phái: muốn Chưởng Môn nhân là người đẹp
trai. Vô Nhai Tử nhìn truyền nhân của ông, thấy Hư Trúc xí trai quá, thất vọng
ông thở dài:
– Sao
ngươi lại có thể xấu xí đến thế được?
Hư
Trúc mắt trố, mũi huyếch, răng hô, bị chê nên tự ái dồn dập, anh nói:
– Tôi
không muốn vào đây. Nếu tiền bối không thích, tôi xin kiếu…
Anh định
quay ra. Vô Nhai Tử dơ một ngón tay. Hư Trúc không bước đi được. Vô Nhai Tử
nhìn Hư Trúc kỹ hơn. Ông lại thở dài:
– Mười
việc ở đời có đến chín việc không được như ý. Ngươi vào được đây là ngươi có
uyên nguyên với ta. Đành vậy. Tiểu tử.. Lại đây…
Hư
Trúc bị một sức mạnh kéo tới chỗ Vô Nhai Tử. Ông già tung người lên, đặt đỉnh đầu
ông lên đỉnh đầu Hư Trúc. Nhà sư bị đè xuống ngồi trên sàn. Bằng cách đặt đỉnh
đầu mình lên đỉnh đầu Hư Trúc, Vô Nhai Tử truyền công lực gọi là Bắc Minh Chân
khí cho Hư Trúc. Hư Trúc mê người trong thời gian được truyền công lực không biết
là bao lâu. Khi tỉnh lại, anh thấy ông già Vô Nhai Tử ngồi trước mặt. Thần sắc
ông thay đổi khác hẳn, da ông răn reo, khô héo, mắt ông lạc thần. Ông khẽ nói:
– Con
đã nhận công lực tám mươi năm tu dưỡng của ta. Từ nay con là Chưởng Môn Vi Vô
Phái. Ta là Sư phụ của con. Con lậy ta đi…
Hư
Trúc chỉ nhận Sư phụ Thiếu Lâm của anh là sư phụ, nhưng lòng dạ anh thương người.
Người sắp chết có ước muốn cuối cùng được anh gọi là Sư phụ, thấy việc đó cũng
chẳng có gì quan trọng, anh quỳ gối lậy ông và gọi ông ba tiếng:
– Sư
phụ..
Hài
lòng, Vô Nhai Tử thở hơi cuối cùng.
Hư
Trúc đi ra khỏi căn nhà. Trời đã tối, quần hùng đã đi hết. Trên bãi cỏ rộng
đang diễn ra trận đấu chưởng lực giữa Đinh Xuân Thu, Chưởng Môn Tinh Tú phái và
Tô Tinh Hà, cao thủ Vô Vi phái.
Đinh
Xuân Thu và bọn đồ đệ Tinh Tú phái dàn hàng ngồi một bên, Tô Tinh Hà và đám môn
đồ Vô Vi phái dàn hàng ngồi một bên. Đống lửa cháy ở giữa. Đinh Xuân Thu và Tô
Tinh Hà dùng chưởng lực đẩy ngọn lửa sang phía nhau.
Hư
Trúc thấy Tô Tinh Hà sắp bại đến nơi. Chưởng lực của Tô Tinh Hà yếu hơn chưởng
lực của Đinh Xuân Thu, ngọn lửa bị đẩy tới sắp táp vào mặt Tô Tinh Hà. Bên kia
bọn đồ đệ Tinh Tú phái thổi kèn, đánh trống ca tụng Sư phụ của chúng rầm rĩ…
Hoàn
toàn không biết mình có Bắc Minh chân khí, cũng không biết mình có thể giúp được
Tô Tinh Hà, Hư Trúc chỉ thấy Tô Tinh Hà sắp bại, phải ngả người về phía sau
tránh lửa táp vào mặt nên thương hại. Chú đến ngồi sau lưng Tô Tinh Hà, đặt bàn
tay lên lưng Tô Tinh Hà để đỡ cho ông ta khỏi ngã. Và như thế là Bắc Minh Chân
Khí trong người Hư Trúc, Chưởng Môn Tinh Tú Phái, cuồn cuộn trôi sang người Tô
Tinh Hà. Chân khí lập tức đánh bạt ngọn lửa về phiá Đinh Xuân Thu, mạnh như bão
tố. Đinh Lão Quái bị lửa đốt cháy râu tóc phải lộn nhào ra đằng sau. Lão bỏ chạy
luôn. Bọn đồ đệ của Lão bị lửa đốt kêu chói lói. Bỏ trống kèn lại chúng theo Sư
phụ đi một đường chạy vắt giò lên cổ…
Đa tình tự cổ không dư hận Dĩ hận miên miên vô tuyệt kỳ |
***
Từ Tổng Đàn Vô Vi phái bước ra Sư Chú Hư Trúc đi một mình trên giang hồ. Giờ đây anh có công lực kinh người nhưng vì chưa có võ công, anh chưa biết sử dụng pho công lực ấy. Đời anh chỉ thực sự thay đổi khi định mệnh an bài cho anh gặp được Thiên Sơn Đồng Mỗ. Thiên Sơn Đồng Mỗ, nữ nhân vật kỳ quái nhất trong toàn bộ tiểu thuyết Kim Dung : Võ Lâm Ngũ Bá, Thần Điêu Hiệp Lữ, Ỷ Thiên Kiếm–Đồ Long Đao, Thiên Long Bát Bộ, Tiếu Ngạo Giang Hồ, Lộc Đỉnh Ký…
Từ Tổng Đàn Vô Vi phái bước ra Sư Chú Hư Trúc đi một mình trên giang hồ. Giờ đây anh có công lực kinh người nhưng vì chưa có võ công, anh chưa biết sử dụng pho công lực ấy. Đời anh chỉ thực sự thay đổi khi định mệnh an bài cho anh gặp được Thiên Sơn Đồng Mỗ. Thiên Sơn Đồng Mỗ, nữ nhân vật kỳ quái nhất trong toàn bộ tiểu thuyết Kim Dung : Võ Lâm Ngũ Bá, Thần Điêu Hiệp Lữ, Ỷ Thiên Kiếm–Đồ Long Đao, Thiên Long Bát Bộ, Tiếu Ngạo Giang Hồ, Lộc Đỉnh Ký…
Quần
hùng ba mươi sáu đảo, bẩy mươi hai động bị Thiên Sơn Đồng Mỗ bắt phải thần phục,
đàn áp, họp đại hội tính chuyện gỡ bỏ ách thống trị của Đồng Mỗ. Họ bị Đồng Mỗ
thống trị, chế ngự bằng cách cấy Sinh Tử Phù vào người họ. Mỗi năm họ phải lên
Linh Thứu Cung trên đỉnh Thiên Sơn nộp cống cho Đồng Mỗ. Họ thuận phục, Đồng Mỗ
sẽ cho họ thuốc giải. Nếu không Sinh Tử Phù sẽ phát tác, làm họ phát điên.
Thiên
Sơn Đồng Mỗ luyện một thứ võ công làm cho Mụ trẻ mãi không già, dung nhan Đồng
Mỗ dừng lại ở số tuổi 25–30 cái xuân xanh. Vì lúc luyện công Mụ bị tẩu hoả nhập
ma nên thân hình Mụ chỉ bằng em gái muời ba, mười bốn tuổi. Vì vậy Mụ có xước
hiệu là Thiên Sơn Đồng Mỗ tuy số tuổi thực của Mụ khi Mụ vào sân khấu Thiên
Long là khoảng Sáu Bó Gập đến Bẩy Bó.
Quần
hùng 36 đảo, 72 động dò biết cứ mười năm một lần Thiên Sơn Đồng Mộ phải bế môn
để luyện công. Khi tái luyện công như thế Đồng Mỗ trở thành đứa nhỏ bẩy, tám tuổi
yếu sìu, công lực Mụ cùng cơ thể Mụ tăng trưởng dần với số ngày Mụ luyện công.
Lại dò biết đúng lúc Thiên Sơn Đồng Mỗ đang luyện công nên quần hùng tấn công
vào Linh Thứu Cung. Họ không thấy Đồng Mỗ đâu cả. Trong mật cung họ bắt được một
đứa con gái chừng mười tuổi. Họ nghi đứa nhỏ chính là Thiên Sơn Đồng Mỗ.
Đại hội
bất thường của quần hùng 36 đảo, 72 động họp ban đêm ở bãi biển. Đoàn Dự, Vương
Ngọc Yến, Mộ Dung Phục đến dự. Hư Trúc đi tìm Sư phụ của Hư Trúc cũng đến dự.
Người chủ trì cuộc họp là Ô Lão Đại. Trong ánh lửa bập bùng Hư Trúc thấy Ô Lão
Đại mở cái túi vải, trình diễn với quần hùng một cô bé. Cô bé sợ hãi chỉ biết
khóc.
Thấy
quần hùng bị Sinh Tử phù phát tác, phát điên, có thể giết cô bé, Hư Trúc thương
hại bất ngờ nhẩy đến ôm cô bé trong túi vải lên vai, bỏ chạy.
Nhờ
có Bắc Minh Chân Khí Hư Trúc chạy thật nhanh. Anh cõng cô gái chạy lên đỉnh
Thiên Sơn. Cô gái trong túi vải chính là Thiên Sơn Đồng Mỗ. Bà chỉ cho Hư Trúc
cách vận công nhẩy lên và chạy trên những ngọn cây tùng. Rồi bà dậy Hư Trúc
cách đối phó với đám quần hùng đuổi theo bằng cách vận công ném những trái
tùng. Quần hùng bị trái tùng bắn trúng rụng ngã hàng loạt. Thiên Sơn Đồng Mỗ bắt
Ô Lão Đại phải hầu hạ bà.
Đồng
Mỗ ở lại trên đỉnh Thiên Sơn để tiếp tục luyện công, Hư Trúc, Ô Lão Đại cũng phải
ở lại đó để phục vụ Bà. Mỗi ngày Ô Lão Đại phải đi bắt sống một thú rừng - hươu
nai, hoẵng - đem về cho Đồng Mỗ luyện công. Đồng Mỗ ngồi xếp bằng tròn, cắn cổ
con vật hút máu, rồi một tay chỉ lên trời, theo cách chỉ tay của Thích Ca trong
tư thế “Thiên thượng, địa hạ, duy ngã độc tôn”, mắt nhắm lại, luyện công. Khi ấy
có làn sương trắng hiện lên trên đầu Đồng Mỗ. Sau mỗi lần luyện công như thế
công lực Đồng Mỗ phục hồi mấy thành, dung nhan già thêm mấy tuổi. Một đêm Đồng
Mỗ đánh thức Hư Trúc dậy, bà sợ hãi nói:
– Tử
thù của ta tìm đến. Cõng ta chạy mau..
Hư
Trúc cõng Đồng Mỗ chạy. Trời sáng, chú đặt Đồng Mỗ xuống bên môt dòng suối.
Đồng
Mỗ nói:
– Nếu
ta luyện công thêm được mấy ngày nữa, ta chẳng sợ gì con tiện tì. Nhưng nay
công lực ta còn yếu, ta phải tạm tránh nó…
Nhìn
thấy cái nhẫn sắt Chưởng Môn Vô Vi Phái ở tay Hư Trúc, Đồng Mỗ kinh ngạc hỏi:
– Sao ngươi có cái nhẫn sắt đó? Đưa đây ta coi..
– Sao ngươi có cái nhẫn sắt đó? Đưa đây ta coi..
Hư
Trúc kể uyên nguyên việc chàng được Chưởng Môn Vô Nhai Tử truyền công lực và
trao nhẫn sắt Chưởng Môn. Đồng Mỗ khóc khi nghe kể Chưởng Môn Vô Nhai Tử đã chết.
Bà là người trong phái Vô Vi. Vô Nhai Tử là Sư đệ của bà. Tử thù của bà, người
Đồng Mỗ gọi khinh miệt là con tiện tì, người sắp đuổi tới, là Lý Thu Thủy,
Hoàng hậu nước Tây Hạ, sư muội của bà và cũng là sư muội của Vô Nhai Tử.
Cuộc
tình rắc rối tơ, Đồng Mỗ yêu Vô Nhai Tử, Lý Thu Thủy cũng yêu Vô Nhai Tử. Vì
tranh dành tình ái Sư tỉ, sư muội thù nhau. Lý Thu Thủy hại Sư tỉ bằng cách làm
Sư tỉ bị kinh hoàng trong lúc luyện công, thân hình đứng lại ở số tuổi mười ba,
mười bốn, Đồng Mỗ hại Sư muội bằng cách dùng kiếm để thẹo trên mặt Sư muội.
Hư Trúc là đồ đệ của Vô Nhai Tử, phải gọi Đồng Mỗ là Sư bá, Lý Thu Thủy là Sư thúc.
Lý Thu Thủy dò biết Sư tỉ đang luyện công dở dang nên tìm đến để giết. Nhờ có Hư Trúc bảo vệ, bà không làm hại được Đồng Mỗ ngoài việc đánh Đồng Mỗ gẫy chân. Hư Trúc lại cõng Đồng Mỗ chạy trốn. Lần này Đồng Mỗ chỉ đường cho Hư Trúc đưa mình vào ẩn nấp trong hầm chứa băng trong hoàng cung nước Tây Hạ. Bà đi nước cờ cao: Sư muội của bà có thể đi tìm bà ở bất cứ đâu nhưng sẽ không ngờ bà lại lọt vào ẩn náu trong chính hoàng cung Tây Hạ.
Hoàng
cung Tây Hạ có một hầm chứa băng lạnh. Mùa đông người ta lấy những tảng băng đá
ngoài trời chứa vào hầm này, để dành đến mùa hè trời nóng lấy đá lạnh ra ăn.
Đây lại là một vụ mà “kiếm hiệp gia” Kim Dung pha chế sa tế, sì dầu hơi quá nặng
tay, tưởng tượng quá lố: người Á đông không có thói quen ăn nước đá lạnh, ăn
cà-rem dù trong mùa hạ, người Á Đông ngày xưa không uống rượu pha đá lạnh.
Bị gẫy
một chân Đồng Mỗ chống nạng đi lại được. Bà đã có đủ công lực để đêm đêm vào Vườn
Ngự Uyển bắt chim về lấy máu tươi luyện công, vào nhà bếp hoàng cung lấy thức
ăn. Hư Trúc chán ngán Sư bá của chàng vì thấy bà thù hận, sân si quá đỗi. Chàng
từ biệt bà để ra đi, Đồng Mỗ không cho. Hư Trúc cứ đi. Đồng Mỗ điểm huyệt cho
Hư Trúc ngã nằm trong hầm băng.
Đồng
Mỗ đem thức ăn về cho Hư Trúc, nhưng đó toàn là thịt cá, Sư chú ăn chay, nhất định
nhịn đói đến chết, không ăn thịt cá. Đồng Mỗ nói với anh:
–
Ngươi chưa biết thủ đoạn của ta đâu. Ta rất ghét những kẻ nào chống lại ta. Với
những kẻ chống ta, ta làm cho phải phục tòng ta ta mới chịu. Ngươi cũng vậy.
Ngươi không chống nổi ta đâu.
Hư
Trúc cứng đầu, chỉ nằm niệm kinh chờ chết. Để đánh gẫy sự phản kháng của nhà sư
trẻ kiên cường, Thiên Sơn Đồng Mỗ sử dụng một tuyệt chiêu…
Tuyệt
chiêu đúng là… tuyệt chiêu. Chiêu thức này mà đánh sợ trên cõi đời này khó có
chú thiếu niên mười bẩy, mười tám nào không gục. Thoạt đầu Đồng Mỗ tỏ ra nhân
nhượng, Bà chịu lấy thức ăn chay về cho Hư Trúc ăn. Và đây là tuyệt chiêu của Đồng
Mỗ: Hoàng cung Tây Hạ khi đó có nàng Công chuá mới mười lăm, mười sáu tuổi. Nửa
đêm Đồng Mỗ vào phòng ngủ của Công chuá, điểm huyệt cho Công chuá ngủ mê, cuộn
nàng trong mền bông, bồng nàng vào hầm băng, thả nàng vào nằm chung chăn với Hư
Trúc.
Chuyện
tả rằng Hư Trúc đang ngủ bỗng thấy có người thiếu nữ khoả thân nằm ôm mình, mùi
da thịt trinh nữ thơm phức bay vào mũi làm chàng ngây ngất — Từ đây trở đi
chúng ta phải gọi Hư Trúc Tử là chàng — Chàng ôm nàng và nàng ôm chàng. Họ yêu
nhau như họ yêu nhau trong mơ. Gần sáng, Đồng Mỗ lại điểm huyệt cho Công Chuá
Tây Hạ ngủ mê, cuốn nàng trong mền gấm, đưa nàng trở về phòng ngủ.
Từ đó
Hư Trúc sống để chờ đêm đến lại được ân ái với người thiếu nữ. Có đêm Công chúa
nửa tỉnh, nửa mơ hỏi người tình:
–
Chàng ơi… Chúng ta đang ở đâu? Đây là đâu? Sao em thấy lạnh quá?
Hư
Trúc cho nàng biết họ đang ở trong hầm băng, Công chuá lại hỏi:
–
Chàng là ai? Tên chàng là gì?
Diêm
Vương có ra lệnh Nhà Sư Trẻ phá giới cũng không dám nói mình là ai, Công Chuá
không hỏi tới, nàng mơ màng:
– Em gập
chàng trong mộng. Em gọi chàng là Mộng Trung Lang…
Sau
năm bẩy đêm ái ân thần tiên, ngà ngọc, Hư Trúc quen mùi. Bỗng đêm ấy chàng nằm
chờ suốt sáng không thấy Sư bá thân thương đưa người đẹp đến. Chàng đành chờ
đêm sau. Đêm sau không thấy rồi đêm sau nữa, đêm sau nữa… Trong bụng chàng như
có lò lửa hồng mà Sư bá của chàng thì cứ tỉnh queo coi như trên cõi đời nói
chung và trong hầm băng nói riêng chẳng có chuyện gì quan trọng cả.
Xấu hổ,
ngượng ngùng nhưng sau cùng Hư Trúc cũng phải lên tiếng xin Sư bá cho mình được
gặp lại người thiếu nữ. Đồng Mỗ hừ lên một tiếng:
– Bây
giờ ngươi mới chịu mở miệng năn nỉ ta ư? Ngươi còn chống ta nữa thôi?
Thôi…
Nhất định là thôi rồi… Hư Trúc đầu hàng không điều kiện. Kiếp này chàng không
thể tu thành chánh quả được, đành để kiếp sau. Để kiếp sau thì Hư Trúc cũng chẳng
có gì khác người. Trên cõi đời này có đến tỉ tỉ người vẫn kiếp nào cũng hẹn để
dành kiếp sau sẽ tu hành. Chàng ăn thịt, ăn mỡ, ăn cá, ăn tôm, chàng ngoan
ngoãn làm theo lời Sư bá.
Nhưng
cuộc tình Hầm Băng không thể kéo dài. Thời gian không đứng về phe Đồng Mỗ– Hư
Trúc. Một đêm Lý Thu Thủy vào hầm băng. Lần này Thiên Sơn Đồng Mỗ, tuy cụt một
chân, đã đủ sức đấu chưởng ngang tay với Lý sư muội. Hai bà long tranh, hổ đấu
kịch liệt trước sự chứng kiến bất động của Hư Trúc. Lý Thu Thủy sợ Hư Trúc đánh
giúp Thiên Sơn Đồng Mỗ nên bà điểm huyệt cho chàng nằm đó.
Hai
bà già giết giặc loạn đả trong hầm băng, chưởng lực hai bà đánh ra làm những
cây đuốc rơi xuống những bành rơm giữ cho đá lạnh trong hầm không tan. Lửa đuốc
làm những bành rơm bốc cháy. Băng tan thành nước, chẩy đầy trong hầm. Hai bà
cùng hết công lực, cùng nằm ngay đơ, cán cuốc. Nước dâng lên đưa hai bà đến nằm
gần nhau, Hư Trúc vẫn bị điểm huyệt nằm giữa hai bà. Đến lúc ngay đơ cán cuốc
này hai bà vẫn còn đánh nhau bằng cách truyền công lực qua người Hư Trúc.
Băng
đá bị lửa đốt tan thành nước. Lửa tắt, hầm băng trở lại lạnh giá. Nước đóng lại
thành băng. Hai bà già cùng Hư Trúc như ba người nằm trong những cây nước đá.
Bắc
Minh chân khí trong người Hư Trúc tự hành làm chàng giải khai được huyệt đạo.
Chàng
mỗi tay ôm một bà già chạy ra khỏi hoàng thành Tây Hạ. Trời sáng, Hư Trúc nghỉ
lại trong rừng. Chàng cẩn thận để hai bà già mỗi bà nằm một bên bờ suối, đề
phòng khi tỉnh lại hai bà lại tiếp tục đánh nhau.
Đúng
như Hư Trúc sợ, vừa tỉnh lại Thiên Sơn Đồng Mỗ và Lý Thu Thủy lại chửi nhau, đe
dọa giết nhau rồi hai bà xoay ra đấu võ mồm. Vì mỗi bà nằm một bên bờ suối, cả
hai cùng kiệt sức không thể vượt qua dòng suối để kết liễu đời nhau, hai bà
dùng anh sư điệt Hư Trúc để đánh nhau. Bằng cách mà như Thiên Sơn Đồng Mỗ nói:
– Nếu
ta đánh chiêu Niêm Hoa Vi Tiếu thì con tiện tỳ chỉ có nước chắp tay chịu chết.
Hư Trúc… Ngươi thay ta biểu diễn cho con tiện tỳ thấy chiêu thức này, xem nó đối
phó ra làm sao…
Đồng Mỗ
chỉ chiêu thức cho Hư Trúc, Hư Trúc qua bờ suối bên kia biểu diễn chiêu thức với
Lý Thu Thủy. Bà già này cười nhạt:
– Tưởng
gì. Chiêu thức của Mụ Lùn ta hoá giải cái một. Mụ ra chiêu, ta sẽ đỡ như vầy..
như vầy. Ta sẽ đánh lại như vầy.. Ngươi biểu diễn chiêu thức của ta cho Mụ coi,
để Mụ hết còn vênh váo…
Cứ
như thế hai bà già truyền những chiêu thức võ công cao siêu nhất của mình cho
Hư Trúc. Tuy không muốn Hư Trúc nghiễm nhiên trở thành đệ nhất cao thủ võ lâm.
Thế rồi cuối cùng hai bà già ác liệt cũng phải tắt thở…
Người
tắt thở trước là bà Lý Thu Thủy, môn đồ Vô Vi phái, Hoàng Hậu nước Tây Hạ.
Bên
kia suối bà Thiên Sơn Đồng Mỗ nở nụ cười hài lòng:
- Con
tiện tỳ cuối cùng cũng chết trước ta. Ta được thấy Mụ chết. Vậy là ta mãn nguyện.
Ta cũng đi thôi…
Đồng
Mỗ truyền chức Chủ nhân Linh Thứu Cung, trao nhẫn sắt cho Hư Trúc. Dù không muốn
định mệnh an bài cho Hư Trúc trở thành Chưởng môn Vô Vi phái kiêm Chủ nhân
Thiên Sơn Linh Thứu Cung, một môn phái chỉ có toàn là nữ đồ.
Thiên
Sơn Đồng Mỗ chết rồi, Hư Trúc thấy bà Lý Thu Thủy động đậy. Thì ra bà già này
chưa chết, bà chỉ giả chết để đánh lừa bà Sư tỉ ác ôn của bà. Bà nói với nụ cười:
– Mụ
Lùn chết rồi. Ta mãn nguyện vì ta được thấy Mụ chết. Ta đã đánh lừa được Mụ…
Trong
lòng bất nhẫn Hư Trúc nói:
– Thì
Sư bá cũng đã giả chết đánh lừa được Sư thúc một lần rồi…
Trong
trận kịch đấu dưới hầm băng Đồng Mỗ đã giả chết, nằm chịu đòn, Lý Thu Thủy tưởng
Sư tỉ chết thật nên tới cúi xuống gỡ nhẫn sắt Chưởng môn Vô Vi phái ra khỏi tay
Sư tỉ - Đồng Mỗ lấy nhẫn sắt này của Hư Trúc - bà bị Sư tỉ của bà quay lại đánh
bà một chưởng vào ngực làm bà cũng nằm thẳng cẳng. Lý Thu Thủy thở dài:
–
Ngươi sống gần Sư bá ngươi nên ngươi có thiên về Sư bá ngươi mấy thành..
Đến
phút cuối cùng này Lý Thu Thủy mới nhìn thấy cuộn tranh trong mình Hư Trúc rơi
ra. Bà hỏi chàng:
–
Ngươi có cái gì đó?
Hư
Trúc trả lời đây là bức tranh do Sư phụ Vô Nhai Tử của chàng trước khi tịch diệt
trao cho chàng. Chàng mở tranh cho Lý Sư thúc xem. Tranh vẽ hình một nữ lang thật
đẹp trạc hai mươi tuổi. Lý Thu Thủy xúc động nhìn người đẹp trong tranh…
Kim
Dung lại dành cho ta một ngạc nhiên: Nữ lang trong tranh là Vương phu nhân, bà
mẹ của Vương Ngọc Yến. Bà này cũng là môn đồ Vô Vi phái, là sư muội của Đồng Mỗ,
Lý Thu Thủy. Chưởng môn Vô Nhai Tử là sư huynh của bà. Sự đời rắc rối tơ… Đám
sư huynh, sư tỉ, sư muội của cái gọi là Vô Vi phái yêu nhau, thù nhau loạn cào
cào. Đồng Mỗ, Lý Thu Thủy cùng yêu Vô Nhai, thù nhau, hại nhau vì Vô Nhai.
Trong khi đó Vô Nhai Tử - coi bộ - yêu Vương Sư muội, và Vương Sư muội lại yêu
Đại Lý Nam Vương Đoàn Chính Thuần… Chưởng môn Vô Vi - coi bộ - thất tình Vương
Sư muội, trọn đời không có đàn bà nên chân khí, công lực còn nguyên vẹn chăm phần
chăm.
Thương
nhớ nàng Chưởng môn họa hình nàng mang theo trong người. Trước khi chết ông trao
nhẫn sắt Chưởng môn cùng bức họa cho truyền nhân của ông là Hư Trúc.
Bức họa
mỹ nhân của Vô Nhai Tử làm Lý Thu Thủy ngậm ngùi. Bà nói:
– Người
trong hình là sư muội của ta và của Sư bá ngươi. Thì ra Sư huynh ta yêu Sư muội
của ta…
Rồi
khóc nức lên, bà kêu lớn:
– Sư
tỉ ơi.. Hai chị em ta cùng bị con người vô lương tâm ấy lường gạt.. Chàng không
yêu chị em mình, chàng yêu Vương sư muội của chúng ta..
Kêu
lên mấy tiếng thê thảm ấy Lý Thu Thủy ngã ra chết. Lần này bà chết thật, bà chết
đến nỗi trên đời này không ai còn có thể chết hơn bà được nữa…
Tại hạ sung sướng nhất khi ở trong hầm băng. |
***
Những mùa tuyết rơi, tuyết phủ, tuyết tan theo nhau
đến trên đỉnh Thiên Sơn. Vào một mùa xuân quần hùng tấp nập kéo nhau đến kinh
đô Tây Hạ dự cuộc Công Chuá Tây Hạ tuyển phu, tức Công Chúa kén chồng.
Trong số quần hùng có mấy người bạn quen của chúng ta: Mộ Dung Phục - Mộ Dung Công Tử rất muốn làm Phò Mã Tây Hạ để có thể mượn binh lực Tây Hạ về khôi phục ngai vàng nước Yên, Đoàn Dự đến kinh đô Tây Hạ không cốt ý dự cuộc tuyển phu, chàng đến vì Vương Ngọc Yến đang ở trong hoàng cung Tây Hạ, Vương phu nhân là sư muội của Lý Hoàng hậu nên Vương cô nương và Công chúa Tây Hạ là chị em, Hư Trúc trở lại kinh đô Tây Hạ để sống lại những đêm ngà ngọc xưa trong hầm băng. Người dự cuộc tuyển phu của Công chuá chỉ phải trả lời có một câu hỏi:
– Ở
đâu Các hạ thấy mình sung sướng nhất?
Mộ
Dung Công Tử trả lời:
– Tại
hạ sung sướng nhất khi ngồi trên ngai vàng nước Yên.
Đúng
thôi. Nhưng đúng với Công Tử, không đúng với Công Chuá Tây Hạ. Công chuá chung
tình ra câu hỏi để tìm Mộng Trung Lang, người tình trong mộng của nàng, nàng
không cần người thích ngồi trên ngai vàng bất cứ nước nào. Đoàn Vương tử nước Đại
Lý trả lời:
– Tại
hạ sung sướng nhất khi ở dưới đáy giếng khô.
Cũng
đúng thôi, Vương Ngọc Yến cô nương bị đánh rơi xuống giếng, Đoàn Vương tử nhẩy
xuống giếng để cùng chết với nàng. Giếng cạn, không những chàng và nàng không
chết mà chàng và nàng còn yêu nhau ra rít ở đáy giếng. Vương Ngọc Yến dự cuộc
tuyển phu bên cạnh Công Chuá Tây Hạ. Nàng nghe được câu trả lời của Đoàn Vương
tử. Xúc động nàng bằng lòng để chàng xúc tiến hôn lễ. Chàng gửi thư về kinh đô
Đại Lý xin phép Phụ vương, Mẫu hậu cưới Vương Ngọc Yến, cuộc tình dẫn đến chuyện
đổ bể tùm lum làm chàng lăn đùng, ngã ngửa: Vương Ngọc Yến cô nương là em cùng
cha, khác mẹ với chàng…
Hư
Trúc Tử, Chưởng Môn Vô Vi phái, Chủ nhân Linh Thứu Cung, cựu Tu sinh Thiếu Lâm
Tự, trả lời:
– Tại
hạ sung sướng nhất khi ở trong hầm băng.
Chuông
trống nổi lên, hoàng gia hoan hỉ loan báo Công Chúa đã tuyển được Phò Mã. Giấc
mơ tu thành chánh quả, dứt dục căn, thoát luân hồi, thuyền Từ thuận gió về Tây
Trúc của Sư Chú Thiếu Lâm kiếp này tiêu tan trong tiếng pháo động phòng hoa
chúc…