NHỮNG TÙ NHÂN CỦA ĐỊA LÝ
Tác giả:Tim Marsall
Lời giới
thiệu
Vladimir Putin nói mình là người có
tín ngưỡng, nhiệt thành ủng hộ Giáo hội Chính thống Nga. Nếu quả thực như vậy,
hẳn là mỗi đêm ông thường đi ngủ với lời cầu nguyện và chất vấn Thiên Chúa rằng:
“Tại sao Người không tạo thêm chút núi non ở Ukraine?”
Giá như Chúa tạo ra những ngọn núi ở
Ukraine, thì vùng bình nguyên mênh mông nay là Bắc Âu đã không phải là lãnh thổ
từ đó khuyến khích những cuộc tấn công liên miên vào đất Nga. Nhưng sự thể đã vậy,
Putin không còn lựa chọn nào khác: ông ít nhất phải cố kiểm soát đồng bằng này
từ phía tây. Quốc gia nào cũng phải như vậy, dù lớn hay nhỏ. Bối cảnh địa lý cầm
tù các nhà lãnh đạo của họ, cho họ ít lựa chọn và ít không gian để xoay xở hơn
bạn tưởng. Điều này từng đúng với Đế chế Athens, Ba Tư hay Babylon và trước đó
nữa; và đúng với mọi thủ lĩnh tìm kiếm một vùng địa thế cao hơn để che chở cho
bộ lạc của mình.
Miền đất chúng ta sống vẫn luôn định
hình chúng ta. Nó định hình những cuộc chiến tranh, quyền lực, những phát triển
về chính trị và xã hội của những dân tộc hiện giờ đang cư trú trên mọi phần của
địa cầu. Công nghệ dường như có thể vượt qua khoảng cách không gian tinh thần
và vật chất giữa chúng ta nhưng chúng ta dễ quên rằng miền đất nơi chúng ta
sinh sống, làm việc và nuôi dạy con cái là vô cùng quan trọng, và sự lựa chọn của
những cá nhân lãnh đạo bảy tỉ cư dân của hành tinh này ở một mức độ nhất định sẽ
luôn bị định hình bởi sông, núi; sa mạc, hồ và biển, là những thứ ràng buộc tất
cả chúng ta - như xưa nay vẫn vậy.
Nói chung, không có chuyện nhân tố địa
lý này quan trọng hơn những nhân tố địa lý kia. Núi non không quan trọng hơn sa
mạc, cũng như sông ngòi không hơn gì rừng rậm. Trong các phần khác nhau của
hành tinh, các đặc điểm địa lý khác nhau là một trong những nhân tố chính quyết
định những gì con người có thể và không thể làm.
Nói chung, địa chính trị nhìn vào những
cách thức theo đó các vấn đề quốc tế có thể được hiểu thông qua các nhân tố địa
lý; không chỉ là cảnh quan tự nhiên - như những rào cản tự nhiên của núi non hoặc
sự kết nối của mạng lưới sông ngòi - mà còn cả về khí hậu, nhân khẩu, các khu vực
văn hóa và khả năng tiếp cận các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Các nhân tố như
vậy có thể tác động quan trọng đến nhiều khía cạnh khác nhau của nền văn minh,
từ chiến lược chính trị và quân sự cho đến sự phát triển xã hội con người, bao
gồm cả ngôn ngữ, thương mại và tôn giáo.
Những thực tế địa lý tự nhiên vốn làm
nền tảng cho chính trị quốc gia và quốc tế thường bị bỏ qua trong các cuốn sách
về lịch sử cũng như trong các báo cáo về thời sự thế giới. Địa lý học rõ ràng
là một phần cơ bản của câu hỏi “tại sao“ cũng như câu hỏi “cái gì”. Lấy ví dụ
như Trung Quốc và Ấn Độ: hai quốc gia vĩ đại với các quần thể dân cư khổng lồ
chia sẻ một đường biên giới rất dài nhưng không đứng chung hàng về chính trị hoặc
văn hóa. Chẳng ngạc nhiên nếu hai gã khổng lồ đó từng gây chiến với nhau vài ba
lần, nhưng sự thực, ngoài trận chiến kéo dài một tháng vào năm 1962, họ chưa
bao giờ đánh nhau thực sự. Tại sao? Bởi giữa họ là rặng núi cao nhất thế giới,
và trên thực tế, việc đưa các binh đoàn lớn xuyên ngang hoặc vượt qua dãy
Himalaya là điều không thể. Dĩ nhiên, khi công nghệ trở nên tinh vi hơn ắt sẽ
có những cách để vượt qua trở ngại này, nhưng rào cần tự nhiên vẫn còn đó, và
vì vậy cả hai quốc gia đều hướng chính sách đối ngoại của mình vào các khu vực
khác trong khi vẫn để mắt trông chừng nhau.
Cá nhân các nhà lãnh đạo, các tư tưởng,
công nghệ và những nhân tố khác, tất thảy đều có vai trò trong việc định hình
các sự kiện, nhưng chúng là tạm thời. Mỗi thế hệ mới vẫn phải đối mặt với những
chướng ngại tự nhiên do dãy Hindu Kush và dãy Himalaya tạo ra; những thách thức
tạo ra bởi mùa mưa; và những bất lợi trong việc bị giới hạn khả năng tiếp cận
các khoáng sản tự nhiên hoặc nguồn lương thực.
Tôi bắt đầu quan tâm đến chủ đề này
khi theo dõi để tường thuật các cuộc chiến ở Balkan vào những năm 1990. Tôi đã
quan sát tận mắt các nhà lãnh đạo của các sắc tộc khác nhau, ví dụ như Serbia,
Croatia hay Bosnia, khi họ cố ý nhắc “bộ tộc” mình nhớ về sự phân chia từ thời
cổ đại và, hắn nhiên, cả những mối nghi kỵ từ đời xưa, trong một khu vực tập
trung nhiều sắc dân đa dạng. Một khi các nhà lãnh đạo đã chia rẽ các dân tộc, sẽ
không mất nhiều công sức để đẩy các dân tộc ấy chống lại nhau.
Dòng sông Ibar ở Kosovo là một ví dụ
hàng đầu. Sự cai trị của đế chế Ottoman đối với Serbia đã được củng cố nhờ trận
chiến Kosovo Polje năm 1389, diễn ra gần nơi sông Ibar chảy qua thành
Mitrovica. Suốt những thế kỷ sau đó, dân chúng người Serb bắt đầu rút lui sang
bên kia dòng Ibar, trong khi dân Albania theo đạo Hồi dần dần từ vùng núi
Malezija tràn xuống Kosovo, nơi họ trở thành đa số từ giữa thế kỷ 18.
Lướt nhanh tới thế kỷ 20, vẫn tồn tại
một sự phân chia sắc tộc - tôn giáo rõ ràng được đánh dấu bằng dòng sông này.
Sau đó vào năm 1999, bị vùi dập bởi NATO từ trên không và Quân Giải phóng
Kosovo trên mặt đất, quân đội Yugoslav (Serbia) rút lui qua sông Ibar, nhanh
chóng theo sau họ là hầu hết số dân cư Serbia còn lại. Con sông trở thành đường
biên giới de facto (trên thực tế) của cái mà một số quốc gia hiện nay công nhận
là một nhà nước Kosovo độc lập.
Thành Mitrovica cũng là nơi lực lượng
tiền phương của lục quân NATO dừng chân. Trong suốt cuộc chiến ba tháng này đã
có những đe dọa úp mở rằng NATO có ý định xâm chiếm toàn bộ Serbia. Sự thực thì
những sự ràng buộc cả về địa lý cũng như chính trị cũng có nghĩa là các lãnh đạo
NATO không bao giờ thực sự có được lựa chọn đó. Hungary đã nói thẳng là họ sẽ
không cho phép một cuộc xâm lược phát xuất từ lãnh thổ của họ, vì họ e sợ sự trả
thù nhắm vào 350.000 người sắc tộc Hungary sống ở miền Bắc Serbia. Giải pháp
khác là xâm chiếm từ phía nam, cách này có thể giúp họ tiến tới sông Tbar nhanh
gấp đôi; nhưng nếu vậy NATO sẽ phải đối mặt với những dãy núi chắn ngay trên đầu
họ.
Tôi đang làm việc với một nhóm người
Serbia tại Belgrade vào thời điểm ấy và hỏi họ chuyện gì sẽ xảy ra nếu NATO tiến
vào: “Tim ạ, chúng tôi sẽ bỏ máy ảnh xuống và cầm súng lên”, đó là câu trả lời
của họ. Họ là những người dân Serbia theo chủ nghĩa tự do, những người bạn tốt
của tôi và những người phản kháng chính phủ của họ, nhưng họ vẫn lôi bản đồ ra
để chỉ cho tôi thấy nơi người Serbia sẽ bảo vệ lãnh thổ của mình trong vùng núi
non, và nơi NATO sẽ phải dừng bước. Cũng có đôi chút khuây khỏa khi nhận được một
bài học địa lý về lý do tại sao những lựa chọn của NATO bị hạn chế nhiều hơn so
với những gì cỗ máy tuyên truyền Brussels1 công bố.
Sự hiểu biết về tầm quan trọng mang
tính quyết định của cảnh quan tự nhiên trong việc đưa tin tức ở Balkan đã giúp
tôi đứng vững trong những năm tiếp theo. Ví dụ, vào năm 2001, vài tuần sau sự
kiện ngày 11 tháng Chín, tôi đã chứng kiến một minh chứng về việc khí hậu, thậm
chí với công nghệ hiện đại, vẫn đóng vai trò quyết định ra sao đến những khả
năng quân sự của thậm chí một đội quân hùng mạnh nhất thế giới. Tôi đang ở miền
Bắc Afghanistan, đã vượt con sông biên giới từ Tajikistan bằng bè, để liên lạc
với quân Liên minh phương Bắc (Northern Alliance) khi ấy đang chiến đấu với
Taliban.
Các máy bay tiêm kích và máy bay ném
bom của Hoa Kỳ bay ngang trên đầu, bắn phá vào các cứ điểm của Taliban và
Al-Qaeda trên những đồng bằng và ngọn đồi lạnh lẽo đầy khói bụi ở phía đông
Mazar-e- Sharif để dọn đường cho bộ binh tiến vào Kabul. Sau một vài tuần, rõ
ràng quân Liên minh phương Bắc đang rục rịch để di chuyển về phía nam. Và rồi cả
thế giới thay màu.
Cơn bão cát dữ dội nhất tôi từng trải
qua thổi tới, biến tất cả mọi thứ thành màu vàng nhờ nhờ. Tại đỉnh điểm của cơn
bão, bạn không thể nhìn xa hơn một vài mét trước mặt, và điều duy nhất rõ ràng
là công nghệ vệ tinh ở đỉnh cao của khoa học của người Mỹ đã bất lực, đui mù
khi đối mặt với khí hậu của vùng đất hoang đã này. Tất cả mọi người, từ Tổng thống
Bush và Hội đồng tham mưu Liên quân cho đến quân đội Liên minh phương Bắc trên
bộ, chỉ còn cách chờ đợi. Sau đó trời đổ mưa, còn cát đã phủ lên mọi thứ và ai
nấy đều mình mẩy lấm bùn. Mưa rơi nặng hạt đến nỗi những túp lều đóng bùn nơi
chúng tôi trú ngụ trông như thể đang tan chảy. Một lần nữa, rõ ràng ý định tiến
quân về phía nam đã bị trì hoãn cho đến khi địa lý đã hoàn tất việc cất lên tiếng
nói của nó. Các quy luật của địa lý, mà Hannibal, Tôn Tử và Alexander Đại đế đều
biết, vẫn thích dụng cho các nhà lãnh đạo ngày nay.
Gần đây hơn, năm 2012, tôi nhận được một
bài học địa-chiến lược nữa: trong khi Syria sa vào cuộc nội chiến bùng nổ hết cỡ,
tôi đứng trên một đỉnh đôi tại Syria, nhìn xuống thung lũng phía nam thành phố
Hama, và thấy một xóm nhỏ đang bốc cháy ở phía xa. Những người bạn Syria chỉ
cho tôi ngôi làng lớn hơn nhiều cách đó khoảng một dặm, họ nói đó là nơi cuộc tấn
công được bắt đầu. Sau đó họ giải thích rằng, nếu một phe có thể đẩy một số người
vừa đủ từ phe kia ra khói thung lũng, khi đó thung lũng này sẽ được sáp nhập
vào một vùng đất khác vốn dẫn tới con đường cao tốc duy nhất của đất nước, và
như vậy sẽ hữu ích trong việc khoét được một máng từ vùng đất có thể sinh sống
tiếp giáp nhau, mà một ngày nào đó có thể tạo nên một nhà nước nhỏ nếu như
Syria không thể tái hợp một lần nữa. Nơi trước đó tôi chỉ thấy là một ngôi làng
nhỏ đang bốc cháy, thì giờ đây tôi đã nhận ra tầm quan trọng chiến lược của nó
và hiểu các thực tế chính trị được định hình ra sao bởi những thực tế địa lý tự
nhiên cơ bản nhất.
Địa chính trị ảnh hưởng đến mọi quốc
gia, dù trong thời chiến, như trong các ví dụ ở trên, hay trong thời bình. Ở mỗi
một vùng đất mà bạn có thể nhớ ra, đều sẽ có vài ví dụ. Trong những trang sách
này, tôi không thể khám phá được tất cả: Canada, Úc và Indonesia chỉ được đề cập
ngắn gọn, mặc dù tôi có thể dành hẳn một cuốn sách riêng cho Úc và cách thức mà
theo đó địa lý của quốc gia này đã định hình mối liên hệ của nó với các vùng
khác của thế giới, về vật chất cũng như văn hóa. Thay vào đó, tôi sẽ tập trung
vào các thế lực và các khu vực có thể minh họa tốt nhất các điểm chính của cuốn
sách này, giới thiệu khái quát di sản địa chính trị từ quá khứ (sự hình thành
quốc gia); những tình huống cấp bách nhất mà chúng ta phải đối mặt ngày hôm nay
(những bất ổn liên tục ở Ukraine, ảnh hưởng bành trướng của Trung Quốc); và
nhìn tới tương lai (sự cạnh tranh ngày càng tăng ở Bắc cực).
Trong chương về Nga, chúng ta thấy sự ảnh
hưởng của Bắc cực, và khí hậu băng giá của nó đã hạn chế khả năng để nước Nga
trở thành một thế lực toàn cầu thực sự như thế nào. Trong chương về Trung Quốc,
chúng ta thấy những hạn chế của một thế lực không có một lực lượng hải quân
toàn cầu, và hiện Trung Quốc đang tìm cách thay đổi điều này với sự khẩn trương
thấy rõ. Chương về Hoa Kỳ minh họa cho các quyết định khôn ngoan để mở rộng
lãnh thổ trong những khu vực trọng điểm cho phép Hoa Kỳ có được vận mệnh hiện đại
của mình trong vai trò một siêu cường trên hai đại dương như thế nào. Châu Âu
cho ta thấy giá trị của bình nguyên và các con sông tàu thuyền dễ lưu thông
trong việc kết nối các vùng miền với nhau và tạo ra một nền văn hóa có khả năng
khởi động một thế giới hiện đại, trong khi châu Phi là một ví dụ điển hình về
những ảnh hưởng của sự cô lập.
Chương về Trung Đông cho thấy lý do tại
sao việc vạch ranh giới trên bản đồ nếu xem nhẹ địa thế, và quan trọng không
kém, xem nhẹ các nền văn hóa địa lý trong một khu vực xác định, thì sẽ gây ra hệ
lụy bất ổn. Chúng ta sẽ còn tiếp tục chứng kiến sự bất ổn đó ngay trong thế kỷ
này. Chủ đề tương tự cũng được trình bày trong các chương về châu Phi và Ấn Độ
- Pakistan. Những cường quốc thuộc địa đã vạch ra các đường biên giới nhân tạo
trên giấy, chẳng đếm xỉa gì đến những thực tế địa lý tự nhiên của khu vực đó, kết
quả là đã tạo ra một số trong những biên giới nhân tạo nhất mà thế giới từng chứng
kiến. Hiện tại, ở Trung Đông một nỗ lực đang được thực hiện để vẽ lại những đường
biên giới đó bằng máu.
Nhật Bản và Hàn Quốc rất khác so với
trường hợp của Kosovo hay Syria, ở chỗ họ hầu như đông nhất về sắc tộc. Nhưng họ
có những vấn đề khác: Nhật Bản là một quốc đảo không có tài nguyên thiên nhiên,
trong khi sự chia cắt hai miền Triều Tiên vẫn còn là vấn đề đang chờ được giải
quyết. Trong khi đó, châu Mỹ Latinh là một trường hợp bất thường. Ở xa về phía
nam, Mỹ Latinh bị cắt đứt với thế giới bên ngoài khiến việc giao thương quốc tế
trở nên khó khăn, và địa lý nội bộ của nó là rào cản đối với việc hình thành một
khối thương mại thành công như Liên minh châu Âu.
Sau cùng, chúng ta đến một trong những
nơi hoang vu nhất trên Trái đất - Bắc cực. Trong hầu hết lịch sử, con người đã
phớt lờ nó, nhưng trong thế kỷ 20, chúng ta tìm thấy nguồn năng lượng tại đây,
và nền ngoại giao trong thế kỷ 21 sẽ xác định xem ai là người sở hữu - hay buôn
bán - nguồn tài nguyên đó.
Việc nhìn nhận địa lý như một nhân tố
quyết định trong tiến trình lịch sử nhân loại có thể bị diễn giải là một cách
nhìn ảm đạm về thế giới, đó là lý do tại sao nó không được ưa thích trong một số
cộng đồng trí thức. Nó cho thấy tự nhiên có quyền lực mạnh hơn con người, và
chúng ta cũng chỉ có thể làm được đến thế trong việc quyết định số phận của
chính mình mà thôi. Tuy nhiên, các nhân tố khác rõ ràng cũng có ảnh hưởng đến
các sự kiện. Bất kỳ người có lý trí nào đều có thể nhận thấy công nghệ hiện
đang bẻ cong các quy tắc thép của địa lý.
Công nghệ đã tìm ra phương cách để vượt
lên trên, luồn xuống dưới, hoặc xuyên qua một số rào cản. Máy bay Hoa Kỳ giờ
đây có thể bay thẳng một lèo từ Missouri tới Mosul để thực hiện nhiệm vụ ném
bom mà không cần phải đáp dọc đường để tiếp nhiên liệu. Việc này có nghĩa là,
cùng với các nhóm tác chiến hàng không mẫu hạm lớn, Hoa Kỳ sẽ hoàn toàn không cần
một đồng minh hay một thuộc địa để mở rộng tầm với ra khắp thế giới. Tất nhiên,
nếu có một căn cứ không quân trên đảo Diego Garcia, hoặc quyền xuất nhập thường
trực vào hải cảng ở Bahrain, họ sẽ có nhiều lựa chọn hơn; nhưng điều đó không
nhất thiết cho lắm.
Như vậy, giống như Internet, không lực
cũng đã thay đổi các quy tắc [của địa lý], dù theo một cách khác. Nhưng địa lý,
và cách thức mà lịch sử của các quốc gia đã tự thiết lập trong địa lý ấy, vẫn rất
quan trọng đối với sự hiểu biết của chúng ta về thế giới hôm nay và tương lai của
chúng ta.
Xung đột ở Iraq và Syria có nguồn gốc
từ việc các cường quốc thuộc địa phớt lờ những quy tắc về địa lý, trong khi sự
kiện Trung Quốc xâm chiếm Tây Tạng lại phát sinh từ việc tuân theo những quy tắc
này; chính sách đối ngoại toàn cầu của Hoa Kỳ cũng bị định đoạt bởi chúng, và
thậm chí sự phát huy quyền lực của vị thế siêu cường mới nhất này cũng chỉ có
thể làm giảm nhẹ bớt các quy tắc mà thiên nhiên, hoặc Thiên Chúa, đã an
bài.
Những quy tắc đó là gì? Khởi đầu sẽ là
vùng đất nơi quyền lực khó bề phòng vệ, và vì thế trong nhiều thế kỉ, các nhà
lãnh đạo của nó đã bù đắp điều này bằng cách bành trướng ra bên ngoài. Đó là
vùng đất mà phía Tây của nó không có núi non: nước Nga.
Chú thích
[←1]
Brussels: Nơi đặt trụ sở NATO.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét