NHỮNG TÙ NHÂN CỦA ĐỊA LÝ
Tác giả:Tim Marsall
Chương Chín: Châu Mỹ Latinh
“Chúng tôi thích được gọi là `lục địa của hy vọng`…
Hy vọng này giống như một lời hứa hẹn về thiên đường, một tờ giấy nợ mà việc
thanh toán sẽ luôn bị trì hoãn.”
Pablo Neruda, nhà thơ Chile đoạt giải Nobel văn học.
Mỹ Latinh, đặc biệt là phần phía nam của nó, là bằng chứng cho thấy bạn có
thể đưa kiến thức và công nghệ của Cựu Thế giới đến Tân Thế giới, nhưng nếu địa
lý chống lại bạn, bạn sẽ chỉ đạt được sự thành công hạn chế, nhất là nếu bạn hiểu
sai về chính trị. Cũng như địa lý của Hoa Kỳ giúp nó trở thành một thế lực vĩ đại,
địa lý của hai mươi quốc gia miền Nam châu Mỹ lại giữ cho không một nước nào
trong số đó có thể nối dậy thách thức người khổng lồ Bắc Mỹ trong thế kỷ này,
hay có thể liên kết với nhau để chung sức thực hiện điều đó.
Những hạn chế của địa lý châu Mỹ Latinh đã bị làm cho tồi tệ thêm ngay từ
ngày đầu hình thành các quốc gia dân tộc nơi đây. Lại Hoa Kỳ, ngay sau khi tước
đoạt được đất đai từ cư dân bản xứ, phần lớn chúng được bán hoặc trao cho các
chủ đất nhỏ. Ngược lại, nền văn hóa Cựu Thế giới với những chủ đất quyền uy
cùng đám nông nô được áp đặt lên châu Mỹ Latinh, dẫn đến sự bất bình đẳng.
Ngoài ra, dân định cư châu Âu đưa đến một vấn đề địa lý khác mà cho đến nay vẫn
kìm hãm các nước Mỹ Latinh, khiến họ không thể phát triển được đầy đủ tiềm năng
của mình: dân định cư chỉ sống gần vùng duyên hải, đặc biệt là (như chúng ta đã
thấy ở châu Phi) ở những vùng nội địa bị muỗi và bệnh tật hoành hành. Do đó,
thường là thủ đô, chỉ nằm bên bờ biển, và các tuyến đường được xây dựng nối các
vùng nội địa với thủ đô, nhưng không nối các vùng nội địa với nhau.
Trong một số trường hợp, ví dụ ở Peru và Argentina, khu vực đô thị của thủ
đô chiếm hơn 30% dân số của đất nước. Các nước thực dân tập trung vào việc mang
của cải ra khỏi mỗi vùng, đưa đến bờ biển và đưa vào thị trường quốc tế. Thậm
chí sau khi giành độc lập, giới tinh hoa ở vùng duyên hải chủ yếu là dân châu
Âu vẫn không đầu tư vào sâu trong nội địa, và các trung tâm dân cư trong nội địa
vẫn kết nối với nhau rất kém.
Vào đầu những năm 2010, một điều đã thành cái mốt trong số nhiều nhà lãnh đạo
kinh doanh, các giáo sư và chuyên gia phân tích trên báo chí là say sưa tranh
luận rằng thế giới đã bước vào buổi bình minh của “thập niên Mỹ Latinh”. Buổi
bình minh ấy đã không đến, và mặc dù khu vực này có một tiềm năng còn chưa đạt
tới, nó vẫn phải liên tục chiến đấu chống lại cuộc hôn phối mà thiên nhiên và lịch
sử đã an bài cho nó.
Mexico đang phát triển thành một cường quốc khu vực, nhưng nước này vẫn còn
đó những vùng hoang địa khô cằn ở phía bắc, vùng núi non ở phía đông và phía
tây, rừng rậm ở phía nam, tất cả đều hạn chế sự tăng trưởng kinh tế của nó.
Brazil đã xuất hiện trên sân khấu thế giới, nhưng các vùng nội địa của nước này
vẫn cứ bị cô lập với nhau; còn Argentina và Chile, mặc dù giàu có tài nguyên
thiên nhiên, vẫn cứ ở xa New York và Washington còn hơn cả Paris hay London.
Hai trăm năm sau sự khởi đầu của cuộc đấu tranh giành độc lập, các nước Mỹ
Latinh tụt hậu xa sau Bắc Mỹ và châu Âu. Tổng dân số Mỹ Latinh (bao gồm cả
Caribe) khoảng 600 triệu, nhưng tổng sản lượng nội địa (GDP) của họ chỉ tương
đương với Pháp và Anh, hai nước mà dân số cộng lại chỉ khoảng 125 triệu người.
Họ đã đi qua một chặng đường dài kể từ chủ nghĩa thực dân và chế độ nô lệ.
Nhưng vẫn còn một chặng đường dài nữa phía trước.
Mỹ Latinh bắt đầu tại biên giới Mexico với Hoa Kỳ và trải dài bảy ngàn dặm
về phía nam qua Trung Mỹ, và sau đó là Nam Mỹ, trước khi kết thúc tại Tierra
del Fuego trên mũi đất cực nam Cape Horn, nơi Thái Bình Dương và Đại Tây Dương,
hai đại dương của thế giới gặp nhau. Tại quãng rộng nhất của nó, từ tây sang
đông, từ Brazil sang Peru, là ba mươi hai ngàn dặm. Ở phía tây là Thái Bình
Dương, phía bên kia là vịnh Mexico, biển Caribe và Đại Tây Dương. Cả hai dải bờ
biển đều không có nhiều cảng nước sâu tự nhiên, do đó hạn chế sự giao thương.
Trung Mỹ là một vùng đồi núi với những thung lũng sâu, và tại nơi hẹp nhất
chỉ rộng 120 dặm. Sau đó, chạy song song với Thái Bình Dương suốt 4.500 dặm là
dãy núi liên tục dài nhất thế giới – dãy Andes. Dãy núi này phủ đầy tuyết suốt
dọc chiều dài của nó và gần như không thể vượt qua, do vậy chia cắt nhiều vùng ở
phía tây với phía đông lục địa. Điểm cao nhất ở Tây bán cầu là đỉnh Aconcagua,
cao 6.962 mét, và nước đổ xuống từ dãy núi này chính là nguồn thủy điện cho các
quốc gia vùng Andes như Chile, Peru, Ecuador, Colombia và Venezuela. Sau cùng,
độ cao của dải đất hạ thấp, rừng và sông băng xuất hiện, chúng ta tiến vào quần
đảo Chile và rồi - dải đất liền kết thúc. Brazil và sông Amazon ngự trị nửa
phía đông của châu Mỹ Latinh, đây là con sông dài thứ hai trên thế giới sau
sông Nile.
Một trong số ít những điểm chung mà các quốc gia này chia sẻ là ngôn ngữ đặt
căn bản trên tiếng Latinh. Tiếng Tây Ban Nha là ngôn ngữ của hầu như tất cả các
quốc gia ở đây, nhưng tại Brazil nó lại là tiếng Bồ Đào Nha, và trong vùng
Guiana thuộc Pháp thì nói tiếng Pháp. Mối kết nối ngôn ngữ này che giấu những
khác biệt ở một lục địa có năm vùng khí hậu khác nhau. Vùng tương đối bằng phẳng
phía đông của dãy núi Andes và khí hậu ôn đới của một phần ba dưới cùng của Nam
Mỹ, được gọi là Southern Cone (Chóp cực Nam), tương phản rõ rệt với núi non và
rừng rậm phía bắc, giúp giảm thiểu chi phí xây dựng và nông nghiệp, do đó khiến
chúng trở thành một trong những vùng sinh lợi nhất trên toàn lục Brazil, như
chúng ta sẽ thấy, thậm chí, vận chuyển hàng hóa ngay trong thị trường nội địa của
mình.
Các nhà hàn lâm và cánh nhà báo thích viết rằng lục địa này đang “đứng ở một
giao lộ” - vì rốt cuộc nó sắp sửa dấn bước vào tương lai vĩ đại của mình. Tôi
thì muốn cãi rằng, xét về mặt địa lý mà nói, bảo rằng lục địa này nằm ở đáy thế
giới thì đúng hơn là ở một giao lộ; có rất nhiều chuyện đang xảy ra trong không
gian mênh mông này, nhưng vấn đề là phần lớn chúng diễn ra cách quá xa tất cả mọi
thứ khác. Điều đó có thể bị coi là cách nhìn kiểu Bắc bán cầu, nhưng nó cũng là
cách nhìn về sự bố trí của những thế lực kinh tế, quân sự và ngoại giao chính yếu.
Bất chấp vị trí xa xôi của lục địa này với các trung tâm dân cư lớn trong lịch
sử, từ khoảng mười lăm ngàn năm trước đã có những tộc người sống ở phía nam
vùng đất mà nay là biên giới Mexico/Hoa Kỳ. Họ được cho là có nguồn gốc từ Nga
và đã vượt qua eo biển Bering bằng đường bộ vào thời điểm nó vẫn còn là một dải
đất liền. Những cư dân ngày nay chính là một dòng giống hợp chủng của người
châu Âu, châu Phi, các thổ dân bản địa và dân Mestizo, hậu duệ của người gốc Âu
và người châu Mỹ bản địa.
Sự pha trộn này có thể truy nguồn về Hiệp ước Tordesillas giữa Tây Ban Nha
và Bồ Đào Nha năm 1494, một trong những tiền lệ đầu tiên của việc thực dân châu
Âu tùy tiện vẽ những đường biên trên bản đồ của những vùng đất xa xôi mà họ hầu
như không hiểu biết gì. Khi lên đường đi về phía tây khám phá đại dương, hai cường
quốc hàng hải lớn của châu Âu đã thỏa thuận rằng bất kỳ vùng đất nào được tìm
thấy bên ngoài châu Âu sẽ được chia sẻ giữa họ với nhau. Đức Giáo hoàng đồng ý.
Phần còn lại là một lịch sử rất bất hạnh, trong giai đoạn đó đại đa số dân cư bản
địa Nam Mỹ bị quét sạch.
Các phong trào độc lập bắt đầu vào đầu thập niên 1800, do Simón Bolívar của
Venezuela và José de San Martín của Argentina lãnh đạo. Riêng Bolívar đã in sâu
trong ý thức tập thể của Nam Mỹ: Bolivia được đặt theo tên ông để tôn vinh ông,
và các quốc gia thiên tả của lục địa được liên kết lỏng lẻo trong một hệ tư tưởng
“Bolivarian” chống lại Hoa Kỳ. Đây là một tập hợp biến động thất thường của những
ý tưởng chống thực dân/ủng hộ chủ nghĩa xã hội, thường lạc lối sang chủ nghĩa
quốc gia nếu và khi nó phù hợp với các chính trị gia tán thành chúng.
Trong thế ký 19, nhiều quốc gia vừa mới giành được độc lập đã bị tan vỡ, hoặc
do các xung đột nội bộ hoặc do chiến tranh xuyên biên giới, nhưng vào cuối thế
kỷ này, biên giới của các nhà nước khác nhau đa phần đã được vạch định. Từ đó,
ba quốc gia giàu có nhất - Brazil, Argentina và Chile - bắt đầu cuộc chạy đua
vũ trang với lực lượng hải quân đắt đỏ đến mức phá sản, cuộc chạy đua đã kìm
hãm sự phát triển của cả ba nước. Vẫn còn những tranh chấp biên giới xảy ra
trên khắp lục địa, nhưng sự phát triển của nền dân chủ đồng nghĩa với việc đóng
băng hoặc có những nỗ lực giải quyết chúng bằng ngoại giao.
Đặc biệt gay gắt là mối quan hệ giữa Bolivia và Chile, bắt đầu từ cuộc Chiến
tranh Thái Bình Dương năm 1879, qua đó Bolivia mất một phần lãnh thổ khá lớn,
bao gồm hai trăm năm mươi ngàn dặm đường bờ biển, và bị khóa chặt trong lục địa
kể từ ngày đó. Bolivia chưa bao giờ hồi phục từ cú trời giáng này, một điều giải
thích tại sao nó lại là nước nghèo nhất ở Mỹ Latinh. Điều này đến lượt nó làm
trầm trọng thêm sự chia rẽ trầm trọng giữa dân cư vùng đồng bằng chủ yếu là người
châu Âu và dân cư vùng cao nguyên chủ yếu là người bản địa.
Thời gian đã không chữa lành vết thương giữa người dân hai nước, cũng như
những vết thương giữa hai quốc gia. Bất chấp thực tế là Bolivia có trữ lượng
khí đốt tự nhiên lớn thứ ba ở Nam Mỹ, nhưng họ không thể bán nó cho Chile vì nước
này cần một nhà cung cấp đáng tin cậy. Hai vị tổng thống Bolivia đùa giỡn với ý
tưởng đó đã bị gạt khỏi chức vụ và tổng thống hiện tại, Evo Morales, với chính
sách “khí đốt đến Chile”, bao gồm một thỏa thuận “đổi khí đốt lấy bờ biển”, đã
bị Chile bác bỏ mặc dù họ có nhu cầu năng lượng. Lòng tự hào dân tộc và nhu cầu
địa lý của cả đôi bên đã đánh bại sự thỏa hiệp ngoại giao.
Một cuộc tranh chấp biên giới khác nữa có nguồn gốc từ thế kỷ 19 được biểu
thị bởi biên giới của vùng lãnh thổ Belize thuộc Anh và xứ Guatemala lân cận.
Chúng là những đường thẳng, như chúng ta đã thấy ở châu Phi và Trung Đông, và
được vẽ ra bởi người Anh. Guatemala tuyên bố Belize là một bộ phận trong lãnh
thổ có chủ quyền của nước này nhưng, không giống như Bolivia, họ không muốn
theo đuổi vấn đề này. Chile và Argentina tranh cãi về tuyến đường thủy của kênh
Beagle, Venezuela đòi một nửa Guyana, và Ecuador có những tuyên bố chủ quyền lịch
sử về Peru. Ví dụ cuối cùng về Peru là một trong những tranh chấp đất đai
nghiêm trọng hơn trên lục địa và đã dẫn tới ba cuộc chiến tranh biên giới trong
bảy mươi lăm năm qua, lần gần đây nhất là vào năm 1995. Nhưng một lần nữa, sự
phát triển của nền dân chủ đã làm dịu đi những căng thẳng.
Nửa sau của thế kỷ 20 chứng kiến Trung Mỹ và Nam Mỹ trở thành chiến trường ủy
nhiệm của Chiến tranh Lạnh, đi kèm với các cuộc đảo chính, các chế độ độc tài
quân sự và những vi phạm nhân quyền nghiêm trọng, ví dụ như ở Nicaragua. Chiến
tranh Lạnh chấm đứt, cho phép nhiều quốc gia tiến triển theo hướng dân chủ và,
so với thế kỷ 20, mối quan hệ giữa các quốc gia này hiện nay đã tương đối ổn định.
Dân cư Mỹ Latinh, hoặc ít nhất là dân cư ở phía nam Panama, chủ yếu cư trú
tại hoặc gần các vùng duyên hải phía tây và phía đông, trong khi những vùng nội
địa và miền Nam giá lạnh thì thưa thớt dân cư. Trên thực tế, Nam Mỹ là một lục
địa rỗng xét về nhân khẩu học và bờ biển của lục địa này thường được gọi là
“vành đai dân cư”. Điều này ít đúng hơn đối với Trung Mỹ và đặc biệt là Mexico,
nơi các quần thể dân cư được phân bố đều hơn; nhưng Mexico đặc biệt có địa hình
khó khăn, làm hạn chế tham vọng và chính sách đối ngoại của nước này.
Ở xa về phía bắc, Mexico có một biên giới dài hai ngàn dặm với Hoa Kỳ, hầu
như tất cả đều là sa mạc. Vùng đất nơi đây khắc nghiệt đến nỗi hầu như không có
người ở. Biên giới này giữ vai trò như một vùng đệm giữa Mexico và người láng
giềng khổng lồ phía bắc - nhưng là một vùng đệm có lợi cho Hoa Kỳ nhiều hơn là
cho Mexico, do sự khác biệt về trình độ công nghệ. Xét về quân sự, chỉ các lực
lượng Hoa Kỳ mới có thể phát động một cuộc xâm lược lớn qua Mexico; bất kỳ lực
lượng nào khác tiến theo chiều ngược lại sẽ bị tiêu diệt. Là một rào cản đối với
việc nhập cư bất hợp pháp vào Hoa Kỳ, đây là một vùng rất hữu ích, nhưng có những
lỗ hổng - một vấn đề mà các chính quyền Hoa Kỳ kế tiếp sẽ phải đối phó. Tổng thống
Trump lên nắm quyền một phần là nhờ thao túng nỗi lo ngại về nạn nhập cư, với lời
hứa xây dựng một bức tường dọc theo biên giới Hoa Kỳ-Mexico. Kế hoạch xây bức
tường của ông có những sơ hở; luôn có những cách đi vòng, hoặc thậm chí xuyên
qua một bức tường, và còn có lựa chọn khác là hối lộ để xâm nhập vào nước này,
hoặc chỉ đơn giản là đi qua nghỉ dưỡng nhưng rồi không trở lại. Nhưng một bức
tường không chỉ để giúp giảm dòng chảy nhập cư, nó sẽ sừng sững như một biểu tượng
đây gây hấn tỏ rõ ý định, với một thông điệp rõ ràng: “Đừng có đến.”
Tất cả người dân Mexico đều biết rằng trước cuộc chiến tranh 1846-1848 với
Hoa Kỳ, dải đất hiện nay là Texas, California, New Mexico và Arizona là một phần
của Mexico. Cuộc xung đột đã dẫn đến một nửa lãnh thổ của Mexico bị nhượng lại
cho Hoa Kỳ. Tuy nhiên không có một phong trào chính trị nghiêm túc nào đòi
giành lại khu vực đó và cũng không có tranh chấp biên giới giữa hai nước. Trong
suốt thế kỷ 20, họ đã tranh cãi ầm ĩ vì một mẩu đất nhỏ sau khi sông Rio Grande
thay đổi dòng chảy vào những năm 1850, nhưng vào năm 1967, cả hai bên nhất trí
khu vực này là một phần hợp pháp của Mexico.
Đến giữa thế kỷ 21, dân gốc Mỹ Latinh có lẽ sẽ là nhóm sắc dân lớn nhất
trong bốn tiểu bang Hoa Kỳ kể trên, và nhiều người trong số đó là dân gốc
Mexico. Rốt cuộc có thể sẽ xuất hiện các phong trào chính trị nói tiếng Tây Ban
Nha ở cả hai phía biên giới Hoa Kỳ-Mexico kêu gọi tái hợp, nhưng sự thực là nhiều
người gốc Mỹ Latinh không mang di sản Mexico, và Mexico không có gì để sánh được
với mức sống của Hoa Kỳ sẽ kiềm chế các phong trào này. Chính phủ Mexico còn
đang phải vật lộn để kiểm soát ngay chính lãnh thổ của mình - nên trong tương
lai có thể nhìn thấy được họ sẽ không ở vị thế có thể ham hố thêm trách nhiệm.
Số phận của Mexico đã được định sẵn là sống trong cái bóng của Hoa Kỳ, và như vậy
nước này luôn đóng vai trò phụ thuộc trong các quan hệ song phương. Mexico thiếu
một hải quân có khả năng bảo vệ an ninh vịnh Mexico hoặc tiến vào Đại Tây
Dương, và vì vậy phải dựa dẫm vào Hoa Kỳ để đảm bảo cho các tuyến đường biển được
mở rộng và an toàn.
Các công ty tư nhân của cả hai quốc gia đã xây dựng những nhà máy ở phía
nam đường biên giới để giảm chi phí nhân công và vận tải, nhưng khu vực này
không thân thiện với sự tồn tại của con người và sẽ vẫn là vùng đệm mà những
người dân nghèo của Mỹ Latinh vẫn tiếp tục vượt qua để tìm cách nhập cảnh, hợp
pháp hoặc bất hợp pháp, đến vùng Đất Hứa phương Bắc.
Các dãy núi chính của Mexico, Sierra Madres, thống trị phía tây và đông của
đất nước, và giữa chúng là một bình nguyên. Ở phía nam, trong Thung lũng
Mexico, là thủ đô Mexico City, một trong những đại đô thị lớn nhất thế giới với
dân số khoảng 20 triệu người.
Trên sườn phía tây của vùng cao nguyên và trong các thung lũng, đất đai cằn
cỗi, còn các con sông không mấy thuận tiện cho việc vận chuyển hàng hóa ra thị
trường. Trên sườn phía đông, đất đai màu mỡ hơn, nhưng địa hình gồ ghề vẫn ngăn
không cho Mexico phát triển được như mong muốn. Phía nam là biên giới giáp với
Belize và Guatemala. Mexico ít quan tâm đến việc mở rộng về phía nam vì mặt đất
nơi đây nhanh chóng dâng cao trở thành loại địa hình đồi núi, rất khó để chinh
phục hoặc kiểm soát. Việc mở rộng vào cả hai khu vực đó sẽ không làm gia tăng
diện tích đất sinh lợi vốn dĩ hạn chế mà Mexico đang có. Nước này cũng không có
tham vọng về lãnh thổ mang tính ý thức hệ mà thay vào đó lại tập trung phát triển
ngành công nghiệp sản xuất dầu còn nhỏ bé và thu hút thêm đầu tư vào các nhà
máy của mình. Ngoài ra, Mexico đã có đủ các vấn đề nội bộ phải đối phó, không
hơi sức đâu dấn thân vào bất kỳ cuộc phiêu lưu bên ngoài nào – có lẽ nước này
không có vai trò gì lớn hơn là thỏa mãn cơn thèm khát ma túy của người Mỹ.
Biên giới Mexico vẫn luôn là nơi ẩn náu cho những kẻ buôn lậu, nhưng tình
hình chưa bao giờ tệ như hai mươi năm qua. Đây là một kết quả trực tiếp từ
chính sách của chính phủ Hoa Kỳ tại Colombia, cách đó một ngàn năm trăm dặm về
phía nam.
Chính Tổng thống Nixon trong thập niên 1970 là người đầu tiên tuyên bố “Cuộc
chiến chống ma túy”, giống như “Cuộc chiến chống khủng bố”, đây là một khái niệm
hơi mơ hồ, một cuộc chiến không thể giành được chiến thắng. Tuy nhiên, mãi cho
đến đầu thập niên 1990, Washington mới trực tiếp chiến đấu với các tập đoàn ma
túy Colombia, với sự hỗ trợ công khai của chính phú Colombia. Nước này cũng đã
thành công trong việc phong tỏa nhiều tuyến đường hàng không và hàng hải từ
Colombia vào Hoa Kỳ.
Các tập đoàn ma túy đáp trả bằng cách tạo ra một tuyến đường bộ xuyên qua
Trung Mỹ và Mexico, vào vùng tây nam Hoa Kỳ. Tuyến đường này một phần đi theo
Xa lộ Liên Mỹ, chạy từ nam chí bắc ngược lên phía trên lục địa: Ban đầu xa lộ
này được thiết kế để vận chuyển hàng hóa tới những nước khác nhau, hiện nay nó
cũng được sử dụng để vận chuyển ma túy lên phía bắc đến Hoa Kỳ. Điều này đến lượt
nó dẫn đến việc các băng đảng ma túy Mexico cũng vào cuộc bằng cách làm bảo kê
cho các tuyến đường và sản xuất sản phẩm của riêng mình. Ngành kinh doanh hàng
tỉ đô la này đã châm ngòi cho những cuộc chiến tranh giữa các băng đảng địa
phương, những kẻ chiến thắng sử dụng sức mạnh và tiền bạc mới kiếm được để thâm
nhập, hối lộ cảnh sát và quân đội Mexico, rồi len lỏi vào tầng lớp tinh hoa của
chính trị và kinh doanh.
Tình hình này cũng có những nét tương đồng với việc buôn bán ma túy tại
Afghanistan. Nhiều nông dân Afghanistan trồng cây thuốc phiện đã đáp trả những
nỗ lực của NATO nhằm phá hủy phương kế sinh nhai truyền thống của họ bằng cách
cầm súng hoặc hỗ trợ cho Taliban. Phát động “Cuộc chiến chống ma túy” có thể là
chính sách của chính phủ, nhưng điều đó không có nghĩa là các mệnh lệnh sẽ được
thi hành ở các chính quyền địa phương, nơi các lãnh chúa ma túy Afghanistan đã
xâm nhập. Ở Mexico cũng vậy.
Trong suốt chiều dài lịch sử, các chính phủ nối tiếp nhau tại Mexico City
chưa bao giờ nắm vững quyền kiểm soát đất nước. Hiện nay đối thủ của nó, các tập
đoàn ma túy, có các nhánh bán quân sự được vũ trang chẳng kém gì các lực lượng
quân sự của nhà nước, thường được trả lương tốt hơn, có động lực hơn, và ở
trong một số vùng nó được một số thành phần trong công chúng xem là một nguồn
công ăn việc làm. Số tiền khổng lồ của các băng đảng đó đang lan tràn khắp đất
nước, phần lớn nó được rửa bằng những dịch vụ mà trông bề những doanh nghiệp hợp
pháp.
Mexico hiện đang bị kìm kẹp trong một tình huống gần như một cuộc nội chiến.
Các băng đảng cố kiểm soát các lãnh thổ bằng cách đe dọa, chính phủ cố giả vờ
chịu trách nhiệm cai quản bằng luật pháp, và hàng trăm thường dân bị kẹt ở giữa,
đang bị giết hại. Một trong số những biểu hiện kinh hoàng nhất là vụ giết hại bốn
mươi ba giáo viên bởi một tập đoàn ma túy vào năm 2014, một hành động làm chấn
thương đất nước và kích động các nhà chức trách, nhưng rốt cuộc nó có vẻ như
“chỉ” là một dấu mốc khủng khiếp trong một cuộc đấu tranh lâu dài.
Tuyến cung cấp đường bộ được thiết lập vững chắc, và nhu cầu [ma túy] của
Hoa Kỳ hầu như không cho thấy dấu hiệu giảm sút. Tất cả các chính phủ Mexico đều
cố gắng để tiếp tục đứng bên cạnh người láng giềng hùng mạnh của họ và đáp ứng
áp lực của Hoa Kỳ bằng cách tiến hành “Cuộc chiến chống ma túy” của chính họ.
Đây là một câu hỏi hóc búa. Mexico kiếm sống bằng cách cung cấp hàng tiêu dùng
cho Hoa Kỳ, và chừng nào Hoa Kỳ còn tiêu thụ ma túy, Mexico sẽ cung cấp nó -
sau rốt, ý tưởng ở đây là làm ra những thứ có thể sản xuất với chi phí thấp và
bán chúng với giá cao hơn. Nếu không có ma túy, đất nước có thể còn nghèo hơn
hiện tại, vì một lượng lớn tiền từ nước ngoài sẽ bị cắt mất. Nhưng có ma túy,
tình hình thậm chí còn loạn hơn. Điều này cũng đúng với một số quốc gia ở phía
nam Mexico. Trung Mỹ hầu như không có gì thuận lợi về mặt địa lý, ngoại trừ một
điều. Nó rất hẹp. Cho đến nay, quốc gia duy nhất có được lợi thế từ điều này là
Panama, nhưng với sự xuất hiện của khoản tiền mới từ Trung Quốc, có thể sắp có
sự thay đổi.
Trung Mỹ có thể thấy nhiều thay đổi ở
các khu vực đang nhận đầu tư của Trung Quốc, ví dụ như sự phát triển của kênh
Grand của Nicaragua.
Công nghệ hiện đại đồng nghĩa với việc
người Trung Quốc chỉ thoáng nhìn qua một bức ảnh vệ tỉnh cũng có thể thấy các
cơ hội thương mại mà dải đất này có thể mang lại. Năm 1513, nhà thám hiểm người
Tây Ban Nha Vasco Núñez de Balboa phải dong buồm vượt qua Đại Tây Dương, cập bến
vùng đất hiện nay là Panama, sau đó lội bộ xuyên qua rừng rậm và vượt núi non
trước khi nhìn thấy trước mặt một đại dương rộng lớn khác - Thái Bình Dương. Những
lợi thế của việc nối kết hai đại dương này là hiển nhiên, nhưng mất 401 năm,
công nghệ mới bắt kịp địa lý. Năm 1914, kênh đào Panama dài năm mươi dặm vừa mới
hoàn tất, do Hoa Kỳ kiểm soát, được mở cửa, nhờ đó tiết kiệm được đoạn hành
trình tám ngàn dặm từ Đại Tây Dương đến Thái Bình Dương và dẫn đến sự tăng trưởng
kinh tế trong khu vực kênh đào.
Kể từ năm 1999, con kênh này do Panama
kiểm soát, nhưng được coi là tuyến đường thủy quốc tế trung lập được bảo vệ bởi
hải quân Hoa Kỳ và Panama. Và ở đó, đối với Trung Quốc, ẩn chứa vấn đề.
Panama và Hoa Kỳ là bạn - trên thực tế,
là bạn bè thân thiết đến mức Venezuela đã cắt đứt quan hệ với Panama năm 2014,
gọi nước này là “tay sai của Hoa Kỳ“. Ảnh hưởng của thứ ngôn từ khoa trương có
từ thời cách mạng Bolivarian của một đất nước ngày càng hung hăng đã được xoa dịu
bởi nhận thức rằng Hoa Kỳ là đối tác thương mại quan trọng nhất của Venezuela,
và Venezuela cung cấp khoảng 10% lượng dầu mà Hoa Kỳ nhập khẩu. Tuy nhiên, sự
đàn áp tàn bạo của Venezuela đối với các cuộc biểu tình chống chính phủ vào năm
2017 đã khiến Hoa Kỳ áp đặt các biện pháp trừng phạt lên khối tài sản tư nhân
đáng kể của Tổng thống Maduro và một số quan chức cấp cao mà phiên bản chủ
nghĩa xã hội của Bolivia đã dẫn dắt họ phân phối lại một lượng tiền lớn cho
chính mình.
Trung Quốc, như chúng ta đã thấy trong
chương Hai, có mưu đồ trở thành một cường quốc toàn cầu, và để đạt được mục
tiêu đó, nước này cần giữ các tuyến đường biển mở rộng cho các hoạt động thương
mại và hải quân của mình. Kênh đào Panama cũng có thể là một lối đi trung lập,
nhưng xét cho cùng thì nó phụ thuộc vào thiện chí của Hoa Kỳ. Vì vậy, tại sao
không xây dựng con kênh của riêng mình trên tuyến đường dẫn vào Nicaragua? Xét
cho cùng, 50 tỷ đô la đối với một siêu cường đang lớn mạnh có ý nghĩa gì đâu?
Dự án Nicaragua Grand Canal được tài
trợ bởi một doanh nhân Hồng Kông tên là Wang ]Jing, người đã kiếm được rất nhiều
tiền từ ngành viễn thông nhưng không có chút kinh nghiệm nào về xây dựng, chưa
nói đến việc làm chủ một trong những dự án xây dựng tham vọng nhất trong lịch sử
thế giới. Wang khăng khăng nói rằng chính phủ Trung Quốc không tham gia vào dự
án. Với bản chất của văn hóa kinh doanh Trung Quốc và sự tham gia của chính phủ
trong mọi khía cạnh của cuộc sống, điều này là không bình thường.
Ước tính chi phí 50 tỷ đô la cho dự
án, do được dự kiến hoàn thành vào đầu năm 2020, lớn gấp bốn lần quy mô toàn bộ
nền kinh tế Nicaragua, và cấu thành một phần của những đầu tư khổng lồ của
Trung Quốc vào Mỹ Latinh. Trung Quốc đang dần dần thay thế Hoa Kỳ ở vị trí đối
tác thương mại chính của khu vực. Tổng thống Nicaragua Daniel Ortega đã sốt sắng
ký vào dự án mà không mảy may bận tâm đến hơn ba mươi ngàn người dân có thể phải
giải tỏa khỏi vùng đất của mình vì dự án.
Cựu phần tử bạo động cách mạng xã hội
chủ nghĩa phe Sandino ông Daniel Ortega, hiện đang bị cáo buộc đứng về phía các
doanh nghiệp lớn. Nếu được hoàn thành, con kênh sẽ cắt đất nước làm hai, và sáu
khu vực hành chính sẽ bị chia cắt làm đôi. Sẽ chỉ có một cây cầu duy nhất bắc
qua con kênh suốt toàn bộ chiều dài của nó - mặc dù cây cầu chưa được xây dựng
bởi vì cho đến nay chưa có gì để nó bắc qua.
Dự án đang diễn ra không suôn sẻ. Wang
đã mất khoảng 85% tài sản của mình trong vụ sụp đổ thị trường chứng khoán Trung
Quốc vào tháng Chín năm 2015. Tất cả các bên đều khẳng định dự án sẽ thành
công, nhưng hầu hết các công trình xây dựng đều đã bị trì hoãn vào cuối năm
2017, nên tuyên bố trên có vẻ sáo mòn hơn bao giờ hết. Một con đường đất đã được
mở rộng thêm chút, nhưng vẫn không được trải nhựa, và chẳng thấy bóng dáng những
công nhân làm đường nào cả.
Xét trong trường hợp kênh Nicaragua sẽ
được mở, cho dù vẫn không lấy gì làm chắc chắn, nó sẽ dài hơn kênh Panama và,
quan trọng hơn, nó rộng và sâu hơn đáng kể, do đó cho phép các tàu chở dầu và
tàu container lớn hơn vượt qua, chưa kể đến các tàu chiến lớn của Trung Quốc.
Tuy nhiên, Tổng thống Ortega không còn phô trương rùm beng về “kế hoạch thay đổi
thế giới” này và điện thoại của doanh nhân Wang dường như đang ở chế độ im lặng.
Với việc vài trăm dặm về phía nam của
kênh đào Panama đang được mở rộng, những người hoài nghỉ đặt câu hỏi tại sao lại
phải cần đến kênh đào Nicaragua và liệu nó có thể sinh lời hay không, nhưng ít
nhất mục đích của toàn bộ dự án dường như là nhắm vào lợi ích quốc gia của
Trung Quốc hơn là lợi nhuận thương mại.
Gợi cho một quốc gia dân tộc ý niệm về
một tuyến đường thủy liên kết giữa hai đại dương chỉ là dấu hiệu rõ ràng nhất về
sự quan tâm và đầu tư ngày càng tăng của Trung Quốc vào Mỹ Latinh. Chúng ta đã
quen với việc chứng kiến Trung Quốc là tay chơi chính ở châu Phi, nhưng trong
hai mươi năm nay, họ đã lặng lẽ di chuyển tới vùng phía nam sông Rio Grande.
Cũng như việc đầu tư vào các dự án xây
dựng, Trung Quốc đang cho các chính phủ Mỹ Latinh vay những khoản tiền lớn, đặc
biệt là Argentina, Venezuela và Ecuador. Đổi lại, Trung Quốc sẽ trông đợi sự ủng
hộ của các nước này trong Liên Hiệp Quốc về các tuyên bố chủ quyền khu vực
mình, bao gồm cả vấn đề Đài Loan.
Bắc Kinh cũng đang mua hàng tại đây.
Các nước Mỹ Latinh lần lượt được Hoa Kỳ chọn, Hoa Kỳ ưu tiên các giao dịch
thương mại song phương khi làm ăn với khu vực này xét như một tổng thể, như điều
họ đã làm với EU. Trung Quốc cũng đang làm điều tương tự, nhưng ít nhất cũng
đưa thêm một giải pháp thay thế, do đó làm giảm sự phụ thuộc của khu vực này
vào thị trường Hoa Kỳ. Ví dụ, hiện nay Trung Quốc đã thay thế Hoa Kỳ trong vai
trò đối tác thương mại chính của Brazil, và họ có thể làm điều tương tự với một
số quốc gia Mỹ Latinh khác.
Các nước Mỹ Latinh không có sự gần gũi
tự nhiên với Hoa Kỳ. Các mối quan hệ bị chi phối bởi lập trường khởi đầu của
Hoa Kỳ, được trình bày trong Học thuyết - Monroe năm 1823 (như chúng ta đã thấy
ở chương Ba) trong thông điệp liên bang của Tổng thống Monroe. Học thuyết này cảnh
cáo các thực dân châu Âu và nói, bằng rất nhiều lời lẽ, rằng Mỹ Latinh là sân
sau và không gian ảnh hưởng của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ vẫn luôn sắp đặt mọi sự ở đó từ
trước đến giờ và nhiều người dân Mỹ Latinh tin rằng kết quá không phải lúc nào
cũng tốt đẹp.
Tám thập niên sau Học thuyết Monroe,
xuất hiện một vị tổng thống khác với “Monroe tái nạp” (Monroe reloaded). Trong
một bài phát biểu vào năm 1904, Theodore “Teddy“ Roosevelt nói: “Ở Tây bán câu,
trong những trường hợp sai trái hay bất lực rõ ràng [như vậy], sự tuân thủ của
Hoa Kỳ đối với Học thuyết Monroe có thể buộc Hoa Kỳ, cho dù miễn cưỡng, thực
thi quyền lực của một cảnh sát quốc tế.“ Nói cách khác, Hoa Kỳ có thể can thiệp
bằng quân sự ở Tây bán cầu bất cứ khi nào nước này muốn. Không tính những lần
tài trợ cho các cuộc cách mạng, vũ trang cho các phe nhóm và cung cấp những
chuyên gia huấn luyện quân sự cho họ, Hoa Kỳ đã sử dụng vũ lực ở Mỹ Latinh gần
năm mươi lần trong khoảng thời gian từ năm 1890 đến khi kết thúc Chiến tranh Lạnh.
Sau đó, sự can thiệp công khai đã đột
ngột giảm đi và năm 2001, Hoa Kỳ đã ký một Hiến chương Dân chủ Liên Mỹ với ba
mươi tư quốc gia do Tổ chức các nước châu Mỹ soạn thảo, tuyên bố rằng: “Người
dân châu Mỹ có quyền dân chủ và các chính phủ của họ có nghĩa vụ thúc đẩy và bảo
vệ quyền đó.” Kể từ đấy, Hoa Kỳ đã tập trung vào việc trói buộc các nước Mỹ
Latinh với mình về kinh tế bằng cách phát triển các hiệp định thương mại đã có
sẵn như Liên hiệp Tự do Thương mại Bắc Mỹ (NAFTA), và đề xuất những hiệp định
khác như Thỏa thuận Tự do Thương mại Trung Mỹ (CAFTA).
Do đó, sự thiếu ấm áp phát sinh trong
các mối quan hệ lịch sử và kinh tế giữa Nam Mỹ và Bắc Mỹ dẫn tới tình cảnh khi
Trung Quốc đến gõ, cánh cửa đã mở ra nhanh chóng. Bắc Kinh hiện đang bán hoặc tặng
vũ khí cho Uruguay, Colombia, Chile, Mexico và Peru, mời chào các trao đổi quân
sự. Trung Quốc đang cố gắng xây dựng một mối quan hệ quân sự với Venezuela mà họ
hy vọng mối quan hệ đó sẽ tồn tại lâu hơn cuộc cách mạng Bolivia nếu và khi cuộc
cách mạng này sụp đổ. Lượng vũ khí cấp cho Mỹ Latinh tương đối nhỏ nhưng có tác
dụng bổ trợ cho những nỗ lực sử dụng quyền lực mềm của Trung Quốc. Tàu bệnh viện
duy nhất của họ Peace Ark, đã đến thăm khu vực này vào năm 2011. Nó chỉ là một
chiếc tàu ba trăm giường, thấp lùn nếu đem so với các phiên bản một ngàn giường
của Hoa Kỳ vốn cũng đã ghé thăm, nhưng đó là một tín hiệu về ý định và một lời
nhắc nhở rằng Trung Quốc đang ngày càng “thạo” món quyền lực mềm.
Tuy nhiên, dù có thương mại của Trung
Quốc hay không thì các nước Mỹ Latinh cũng vẫn bị khóa chặt không thể thoát khỏi
vào một khu vực địa lý - có nghĩa là Hoa Kỳ sẽ luôn là một tay chơi chính tại
đây.
Brazil, chiếm một phần ba điện tích đất
đai Nam Mỹ, là ví dụ tốt nhất về điều đó. Nước này rộng gần như bằng Hoa Kỳ, và
liên bang gồm hai mươi bảy tiểu bang của họ tương đương một khu vực lớn hơn hai
mươi tám quốc gia EU kết hợp lại; nhưng không giống như EU, Brazil thiếu cơ sở
hạ tầng để trở nên giàu có như họ. Một phần ba diện tích của Brazil là rừng rậm,
nơi việc khai phá đất đai để phù hợp cho con người hiện đại sinh sống sẽ tốn
kém đến mức đau đớn, và trong một số vùng còn là bất hợp pháp. Sự tàn phá rừng
nhiệt đới Amazon là vấn đề sinh thái dài hạn cho toàn thế giới, nhưng nó cũng
là một vấn đề trung hạn đối với Brazil: chính phủ để cho nông dân được phép “chặt
và đốt” rừng và sau đó sử dụng là đất nông nghiệp. Nhưng đất đai bạc màu đến mức
chỉ sau một vài năm là không thể trồng trọt được nữa. Nông dân tiếp tục chặt
phá thêm rừng nhiệt đới, và một khi rừng nhiệt đới bị chặt phá, nó sẽ không mọc
lại được nữa. Khí hậu và đất đai vô cùng bất lợi cho sự phát triển nông nghiệp.
Sông Amazon có thể giao thông đường thủy
ở nhiều nơi, nhưng hai bờ sông là bùn lầy và vùng đất xung quanh gây khó khăn
cho việc xây dựng. Vấn đề này cũng giới hạn nghiêm trọng diện tích đất đai có
thể mang lại lợi nhuận. Trên vùng cao nguyên ở ngay dưới khu vực Amazon là thảo
nguyên xavan, và trái lại, đó là một câu chuyện thành công. Hai mươi lăm năm
trước khu vực này được coi là không thích hợp cho nông nghiệp, nhưng công nghệ
của Brazil đã biến nó trở thành một trong những khu vực sản xuất đậu tương lớn
nhất thế giới, cùng với sự tăng trưởng trong sản xuất ngũ cốc - có nghĩa là
Brazil đang trở thành một nhà sản xuất nông nghiệp quan trọng.
Về phía nam thảo nguyên là vùng đất
nông nghiệp truyền thống của Brazil. Giờ đây chúng ta đang nói về Chóp cực Nam
(Southern Cone) của Nam Mỹ, dải đất mà Brazil chia sẻ với Argentina, Uruguay và
Chile. Phần thuộc về Brazil tương đối nhỏ, là nơi thực dân Bồ Đào Nha đến sinh
sống trước tiên, và mất ba trăm ngàn năm trôi qua trước khi cư dân có thể tiến
ra khỏi khu trung tâm này và thực sự phát triển dân số khắp phần còn lại của đất
nước. Cho đến ngày nay, hầu hết dân cư vẫn sống gần các vùng duyên hải, bất chấp
quyết định kịch tính vào cuối những năm 1950 di dời thủ đô (trước đã là Rio de
Janeiro) vài trăm dặm vào sâu trong nội địa, đến thành phố Brasilia được xây dựng
với mục đích nỗ lực phát triển khu trung tâm của Brazil.
Vùng trung tâm nông nghiệp phía nam có
kích thước bằng Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Ý kết hợp lại và bằng phẳng hơn nhiều
so với phần còn lại của đất nước. Nơi đây được tưới tiêu tương đối tốt, nhưng
phần lớn vùng này nằm sâu trong nội địa và thiếu các tuyến đường giao thông được
phát triển thích đáng.
Điều này cũng đúng với hầu hết đất nước
Brazil. Nếu từ biển nhìn vào nhiều thành phố ven biển của Brazil, thường có một
vách đá khổng lỗ cao vọt lên từ mặt nước không ở bên này thì ở bên kia của vùng
đô thị, hoặc ở ngay phía sau nó. Được gọi là Grand Escarpment, vách đá này ngự
trị nhiều phần của dải bờ biển Brazil; nó là đầu mút của cao nguyên có tên Tấm
khiên Brazil (Brazilian Shield) tạo nên phần lớn vùng nội địa của Brazil. Bởi
vì đất nước thiếu một đồng bằng duyên hải, nên để kết nối các thành phố duyên hải
lớn, phải xây dựng các tuyến đường leo lên và vượt qua vách đá này, chạy dọc
theo nó tới khu đô thị tiếp theo và sau đó leo trở xuống. Việc thiếu các tuyến
đường bộ hiện đại tươm tất lại đi đôi với hiện trạng thiếu hụt tương tự các tuyến
đường sắt. Đây không phải là điều kiện để có thể giao thương sinh lợi hoặc để
thống nhất một không gian rộng lớn về mặt chính trị.
Mọi thứ còn trở nên tồi tệ hơn. Brazil
không có đường giao thông thẳng tới các con sông của vùng Rio de la Plata. Con
sông Plate đổ ra Đại Tây Dương ở địa phận Argentina, có nghĩa là trong hàng thế
kỷ, các thương nhân vận chuyển hàng hóa của họ theo sông Plate đến Buenos Aires
thay vì mang vác chúng trèo lên leo xuống Grand Escarpment để đến được các bến
cảng kém phát triển của Brazil. Công ty tình báo địa chính trị Stratfor.com
đóng trụ sở tại Texas ước tính rằng bảy bến cảng lớn nhất của Brazil cộng lại
cũng chỉ có thể xử lý số hàng hóa mỗi năm ít hơn so với chỉ một cảng tại New
Orleans của Hoa Kỳ.
Do đó, Brazil thiếu khối lượng thương
mại mà nước này mong muốn và, quan trọng không kém, hầu hết hàng hóa được di
chuyển dọc theo tuyến đường bộ không đầy đủ của nó chứ không phải bằng đường
sông, do đó làm tăng thêm chi phí. Về mặt tích cực, Brazil đang xây dựng hạ tầng
giao thông của mình và mỏ khí đốt ngoài khơi mới được phát hiện sẽ giúp chi trả
cho công việc này, giảm sự phụ thuộc vào năng lượng nhập khẩu từ Bolivia và
Venezuela. Tuy nhiên, Brazil sẽ cần có một nỗ lực lớn cỡ Hercules để vượt qua
những bất lợi về mặt địa lý.
Khoảng 25% người Brazil được cho là sống
trong những khu ổ chuột favela nổi tiếng. Khi một phần tư dân số của đất nước
rơi vào cảnh nghèo đói, đất nước đó rất khó trở lên giàu có. Điều này không có
nghĩa là Brazil không phải là một thế lực đang vươn lên, chỉ là sự vươn lên của
nước này sẽ bị hạn chế.
Một lối tắt dẫn đến tăng trưởng có thể
là quyền lực mềm, do đó Brazil nỗ lực để có được vị trí thường trực trong Hội đồng
bảo an Liên Hiệp Quốc và thói quen xây dựng các liên minh kinh tế khu vực chẳng
hạn như Mercosur, vốn kết nối lỏng lẻo các quốc gia như Brazil, Argentina,
Paraguay, Uruguay và Venezuela với nhau. Vài năm một lần, thường do Brazil lãnh
đạo, Nam Mỹ cố gắng khởi tạo phiên bản EU của họ - hóa thân mới nhất là UNASUR,
trong đó gồm có mười hai quốc gia Nam Mỹ là thành viên. Trụ sở chính của tổ chức
này ở Ecuador, nhưng Brazil là nước có tiếng nói to nhất. Ở điểm này, UNASUR giống
như EU, có một trụ sở tại Bỉ và một thế lực hàng đầu tại Đức. Nhưng đến đây sự
so sánh dừng lại. UNASUR có sự hiện diện ấn tượng trên Internet nhưng nó giống
một website bình thường hơn là một liên minh kinh tế. Các nước EU có các hệ thống
chính trị và kinh tế tương tự nhau và hầu hết các thành viên đều dùng chung một
loại tiền tệ, trong khi các nước Mỹ Latinh khác nhau về chính trị, kinh tế, tiền
tệ, trình độ giáo dục và luật lao động. Họ cũng vượt qua những ngăn trở về khoảng
cách, cũng như chiều cao của những ngọn núi và độ rậm rạp của những khu rừng
nhiệt đới chia cắt họ.
Nhưng Brazil sẽ tiếp tục làm việc để tạo
dựng một cường quốc Nam Mỹ bằng việc sử dụng sức mạnh ngoại giao và sức mạnh
kinh tế đang gia tăng của mình. Về bản chất là không đối đầu, chính sách đối
ngoại của Brazil chống lại sự can thiệp vào các quốc gia khác, và chiến tranh với
bất kỳ nước láng giềng nào dường như là điều rất khó xảy ra. Nước này đã xoay xở
để duy trì mối quan hệ tốt với tất cả mười một quốc gia Nam Mỹ khác, mặc dù có
chung đường biên giới với chín nước trong số đó.
Có một tranh chấp biên giới với
Uruguay, nhưng sự việc có vẻ sẽ không phát hỏa; và sự cạnh tranh giữa Brazil và
Argentina dường như sẽ không được thể hiện ở bất kỳ nơi nào có ý nghĩa chính trị
hơn là một sân bóng đá. Trong những năm gần đây, Brazil đã di chuyển các đơn vị
quân đội ra khỏi biên giới với Argentina và đã thấy người láng giềng nói tiếng
Tây Ban Nha của mình cũng đáp lại tương tự. Một tàu hải quân Argentina được
chào đón vào một cảng Brazil, trong khi vài năm trước, một tàu hải quân Hoàng
gia Anh lại bị từ chối cập cảng, vì vậy khiến Argentina rất hài lòng giữa lúc
nước này vẫn đang trong cuộc chiến ngoại giao với Vương quốc Anh về vấn đề quần
đảo Falkland.
Brazil cũng thuộc khối BRICS - một
nhóm các quốc gia lớn được coi là đang vươn lên cả về mặt kinh tế và chính trị,
nhưng trong khi từng nước thành viên có thể đang vươn lên, thì khái niệm này là
thứ theo mốt thời thượng chứ chẳng có ý nghĩa thực tế. Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung
Quốc và Nam Phi không phải là một tập hợp về chính trị hay địa lý theo một cách
thức có ý nghĩa, và các nước này có ít điểm chung với nhau. Nếu những chữ cái
này ghép lại mà không phát âm thành một cái gì đó giống như một từ, thì có lẽ
lý thuyết BRICS đã chẳng được ai chú ý. BRICS tổ chức một hội nghị thường niên
và Brazil đôi khi bắt liên lạc với Ấn Độ và Nam Phi về các vấn đề quốc tế như một
thứ tiếng vọng mơ hồ của Phong trào Không liên kết thời Chiến tranh Lạnh, nhưng
Brazil không tham gia với Nga và Trung Quốc trong lập trường đôi khi thù địch
hướng đến Hoa Kỳ.
Hai người khổng lồ Bắc Mỹ và Nam Mỹ đã
chia tay nhau vào năm 2013 vì một vấn đề vẫn còn nhức nhối ở Brazil. Tin tức mà
Cơ quan An ninh Quốc gia Hoa Kỳ do thám được về Tổng thống Brazil đương nhiệm,
Dilma Rousseff, đã khiến bà hủy bỏ một chuyến viếng thăm chính thức đến
Washington. Việc không có một lời xin lỗi nào từ chính quyền Obama là minh chứng
cho sự thực rằng Hoa Kỳ khó chịu với việc Trung Quốc thay thế họ trong vị trí đối
tác thương mại chính của Brazil. Quyết định tiếp theo của Brazil về việc mua
máy bay chiến đấu của Thụy Điển chứ không phải máy bay Boeing cho lực lượng
không quân của mình được cho là xuất phát từ mối bất hòa kể trên. Tuy nhiên, hiện
nay mối quan hệ giữa hai nhà nước phần nào đã hồi phục. Đối đầu không phải là
phong cách của Brazil, không giống như Venezuela dưới thời Tổng thống Chavez.
Người Brazil biết thế giới nghĩ rằng họ là một cường quốc sắp nổi, nhưng họ
cũng biết rằng thế lực của họ sẽ không bao giờ sánh kịp với Hoa Kỳ. Thế lực của
Argentina cũng vậy; tuy nhiên, theo cách nào đó, Argentina có vị trí địa lý để
có thể trở thành một quốc gia của Thế giới thứ nhất tốt hơn so với Brazil.
Argentina thiếu kích thước và dân số để trở thành thế lực khu vực đứng đầu của châu
Mỹ Latinh, một số phận dường như được an bài cho Brazil, nhưng nước này có đất
đai màu mỡ để tạo ra một tiêu chuẩn sống có thể so sánh với các nước châu Âu.
Điều đó không có nghĩa là Argentina sẽ đạt được tiềm năng này - đơn giản là nếu
Argentina điều hành kinh tế đúng cách, địa lý sẽ cho phép nước này có được thế
lực xưa nay nó chưa từng có. Nền tảng cho tiềm năng này được hình thành vào thế
kỷ 19 với những chiến thắng quân sự trên đất Brazil và Paraguay, dẫn đến việc
kiểm soát các vùng đồng bằng nông nghiệp của Rio de la Plata, hệ thống sông có
thể giao thông, và do đó kiểm soát cả dòng chảy thương mại dọc dòng sông xuôi
xuống cảng Buenos Aires. Đây thuộc số những bất động sản có giá trị bậc nhất
trên toàn lục địa. Nó ngay lập tức mang lại cho Argentina một lợi thế kinh tế
và chiến lược vượt trội so với Brazil, Paraguay và Uruguay - một lợi thế vẫn
duy trì cho đến nay.
Tuy nhiên Argentina không phải lúc nào
cũng tận dụng được hết những lợi thế của mình. Một trăm năm trước, nước này nằm
trong số mười nước giàu có nhất thế giới – vượt trên cả Pháp và Ý. Nhưng thất bại
trong việc đa dạng hóa, một xã hội phân biệt tầng lớp và bất công, một hệ thống
giáo dục nghèo nàn, một loạt các cuộc đảo chính và các chính sách kinh tế khác
biệt nhau quá mức trong thời kỳ dân chủ kéo dài ba mươi năm qua vừa đã dẫn đến
sự suy giảm mạnh mẽ của Argentina.
Người Brazil có một câu nói đùa về những
người hàng xóm hợm hĩnh, theo cách nhìn nhận của họ: “Chỉ những người tinh tế
như vậy mới có thể tạo ra một mớ hỗn độn lớn đến như thế.” Argentina cần phải
hiểu đúng tình thế, và một con bò chết có thể giúp cho nước này.
Con Bò Chết, hay Vaca Muerta, là một
thạch địa tầng dầu đá phiến, cùng với các khu vực dầu đá phiến khác của đất nước,
có thể cung cấp nhu cầu năng lượng của Argentina trong một trăm năm mươi năm tới
và vẫn dư thừa để xuất khẩu. Nó tọa lạc ở lưng chừng Argentina, trong vùng
Patagonia, và phía tây tiếp giáp với Chile. Nó có kích thước sánh bằng nước Bỉ
- có thể tương đối nhỏ so với một quốc gia, nhưng rất lớn so với một địa tầng
đá phiến. Mọi chuyện có vẻ " thuận lợi, trừ phi bạn phản đối nguồn năng,
lượng sản xuất từ đá phiến - nhưng có một điểm bất lợi. Khai thác dầu từ đá phiến
đòi hỏi đầu tư nước ngoài rất lớn, và Argentina không được coi là một quốc gia
thân thiện cho đầu tư nước ngoài.
Có nhiều dầu và khí hơn nữa về phía
nam - thực tế, xa về phía nam đến mức nó nằm ngoài khơi, quanh các hòn đảo thuộc
về người Anh từ năm 1833. Và đó là vấn đề, và là một câu chuyện thời sự chưa
bao giờ biến mất khỏi các bản tin.
Cái mà người Anh gọi là Quần đảo
Falkland thì người Argentina gọi là Las Malvinas, và khốn khổ cho bất kỳ người
Argentina nào sử dụng từ “F“. Sẽ là một hành vi phạm tội ở Argentina nếu in ra
một bản đồ mô tả quần đảo này bằng một tên gọi nào khác ngoài “Islas Malvinas -
Quần đảo Malvinas”. Tất cả trẻ em tiểu học đều được dạy vẽ phác thảo hai hòn đảo
chính, phía tây và phía đông. Việc giành lại “các cô em gái thất lạc” này là một
sự nghiệp quốc gia cho các thế hệ kế tiếp của người Argentina, và là một sự
nghiệp mà hầu hết các nước láng giềng Latinh của họ đều ủng hộ.
Tháng Tư năm 1982, người Anh buông lỏng
sự canh gác và chế độ độc tài quân sự Argentina đặt dưới quyền tướng Galtieri
ra lệnh xâm chiếm quần đảo - đây được coi là một thành công lớn cho đến khi lực
lượng đặc nhiệm Anh tiến vào tám tuần sau đó, nhanh chóng chấm dứt công cuộc của
quân đội Argentina và tái chiếm lãnh thổ. Điều này dẫn đến sự sụp đổ của chế độ
độc tài.
Nếu cuộc xâm chiếm của Argentina xảy
ra vào lúc này, nước Anh sẽ không có vị thế để chiếm lại quần đảo, vì nước này
hiện không có tàu sân bay có thể hoạt động – một tình huống sẽ được khắc phục
vào năm 2020, lúc đó cơ hội của Argentina sẽ không còn nữa. Tuy nhiên, bất chấp
sự hấp dẫn của dầu mỏ và khí đốt, cuộc xâm chiếm Falkland của Argentina là
không khả thi vì hai lý do sau:
Thứ nhất, Argentina hiện nay là một nền
dân chủ và biết rằng đại đa số người dân đảo Falkland muốn ở lại dưới quyền kiểm
soát của Anh; thứ hai, người Anh, chim sợ cành cong, sẽ cảnh giác gấp đôi. Họ
có thể tạm thời thiếu một tàu sân bay để bơi tám ngàn đặm xuống Nam Đại Tây
Dương, nhưng hiện tại họ có vài trăm lính bộ binh trên đảo, cùng với các hệ thống
radar tiên tiến, tên lửa đất đối không, bốn máy bay phản lực Eurofighter và cả
một tàu ngầm tấn công hạt nhân rình rập gần đó suốt ngày. Anh có ý định ngăn chặn
ngay thậm chí không để Argentina nghĩ rằng họ có thể đến được bờ biển, đừng nói
đến việc chiếm quần đảo.
Lực lượng không quân Argentina sử dụng
những chiếc máy bay lạc hậu vài thập kỷ so với Eurofighter, và chính sách ngoại
giao của Anh đã đảm bảo rằng mọi nỗ lực của Argentina nhằm mua các máy bay mới
hơn từ Tây Ban Nha đã bị dập tắt. Việc mua hàng từ Hoa Kỳ không có cơ may thành
công do mối quan hệ đặc biệt giữa Vương quốc Anh và Hoa Kỷ, đôi khi quả thực là
rất đặc biệt: do đó, khả năng Argentina tổ chức một cuộc tấn công khác trước
năm 2020 là tất ít ỏi.
Tuy nhiên, điều đó sẽ không xoa dịu cuộc
chiến ngoại giao, và Argentina đã mài sắc vũ khí của mình trên mặt trận đó.
Buenos Aires đã cảnh báo rằng bất kỳ công ty dầu khí nào khoan dầu ở
Falkland/Malvinas đều không thể đấu thầu khai thác dầu đá phiến trong khu mỏ
Vaca Muerta tại Patagonia. Nước này thậm chí đã thông qua một đạo luật đe dọa
phạt tiền hoặc phạt tù đối với những người thăm dò thềm lục địa của Falkland mà
không có sự cho phép của nhà nước. Điều này đã khiến nhiều công ty dầu khí lớn
ra đi, nhưng tất nhiên, người Anh thì không. Tuy nhiên, bất cứ ai thăm dò nguồn
của cải giàu tiềm năng ẩn dưới biển Nam Đại Tây Dương đều đang hoạt động tại một
trong những môi trường kinh doanh khắc nghiệt nhất. Khu vực đó khá lạnh và gió
lớn, biển thì động.
Chúng ta đã đi xa hết mức có thể về
phía nam trước khi đến những hoang địa đóng băng của Nam cực. Trong khi nhiều
quốc gia muốn kiểm soát vùng này, sự kết hợp của môi trường cực kỳ khắc nghiệt
với Hiệp ước Nam cực và việc thiếu tài nguyên có thể khai thác được và có giá
trị, đã cùng nhau ngăn cản sự cạnh tranh công khai, ít nhất cho tới hiện tại.
Không thể nói điều tương tự về vùng đối diện phía bắc của nó. Từ Nam cực đi thẳng
lên đến vùng cực Bắc của địa cầu, bạn đến một nơi được định sẵn để trở thành
chiến trường ngoại giao trong thế kỷ 20, vì các quốc gia lớn và nhỏ đều cố gắng
đạt tới điểm cực ở đó: Bắc cực.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét