Lâm Đại Ngọc. Ảnh phim Hồng lâu mộng.
Hồi 70.
Lâm
Đại Ngọc mở thi xã Đào Hoa;
Sử Tương Vân điền tiểu từ
Liễu Nhứ.
Giả Liễn thủ linh ở viện Lê Hương suối bảy ngày đêm, có sư và thầy cúng tụng niệm. Giả mẫu gọi hắn sang, bảo không cho đưa linh cữu vào trong gia miếu. Giả Liễn không làm sao được, đành phải nói với sư Thời Giác điểm một cái huyệt, đào đất để chôn ở phía trên mộ của chị Ba. Hôm đưa ma, chỉ có những người trong họ cùng vợ chồng Vương Tín, mẹ con họ Vưu mà thôi.
Phượng Thư không nhìn đến việc gì, mặc cho Giả Liễn lo liệu.
Lại gần đến ngày cuối năm, ngoài những việc lặt vặt, còn có việc Lâm Chi Hiếu
khai danh sách đến trình: cộng tất cả có tám người hầu đã hai mươi lăm tuổi
chưa có vợ, chờ xem a hoàn nào ở trong nhà đáng cho ra lấy chồng, sẽ gán ghép
cho họ.
Phượng Thư xem xong, đến hỏi Giả mẫu và Vương phu nhân. Mọi
người cùng bàn bạc. Tuy có mấy chị đáng gả chồng, nhưng mỗi người lại có duyên
cớ riêng. Một là Uyên Ương thề không chịu đi. Từ đó đến nay, nhất định chưa chịu
nói chuyện với Bảo Ngọc, và cũng không chịu trang điểm gì. Mọi người thấy cô ta
kiên gan như thế, cũng không tiện ép. Hai là Hổ Phách hiện đương ốm, nên lần
này chưa thể đi được. Ba là Thái Vân vì gần đây phải xa rời Giả Hoàn, cũng đâm
ra ốm lơ ốm lửng. Chỉ có mấy a hoàn lớn tuổi làm việc nặng trong phòng Phượng
Thư và Lý Hoàn là cho ra thôi. Còn nữa đều chưa đến tuổi, nên cho phép bọn người
hầu ra ngoài mà hỏi lấy vợ.
Lâu nay Phượng Thư ốm, Lý Hoàn và Thám Xuân phải trông
nom việc nhà, không được nhàn rỗi, lại gặp lúc năm hết tết đến, việc vặt nhiều
quá, nên không ai nghĩ gì đến việc mở thi xã cả.
Sang tháng trong xuân có dịp rảnh rang đây! Nhưng khốn nỗi
Bảo Ngọc nhân việc Liễu Tương Liên bỏ đi tu, rồi đến việc chị Ba tự vẫn, chị
Hai nuốt vàng tự tử, lại thêm con Năm Liễu sau đêm bị giam, bệnh càng thêm nặng,
hết chuyện này đến chuyện nọ, việc nọ chưa xong đã dồn đến việc kia, đâm ra buồn
giận vẩn vơ, làm cho vẻ mặt ngẩn ngơ, nói năng lảm nhảm, như là người mắc bệnh
thần kinh vậy. Bọn Tập Nhân sợ quá nhưng không dám trình Giả mẫu, chỉ tìm hết
cách vui đùa cho cậu ta khuây khỏa.
Một hôm trời vừa rạng sáng, nghe thấy ngoài nhà có tiếng
cười đùa không ngớt. Tập Nhân cười bảo: “Cậu ra ngăn họ lại. Tình Văn và Xạ
Nguyệt đương cù Phương Quan ở ngoài kia đấy”. Bảo Ngọc nghe nói, khoác cái áo
dài đi ra xem, thấy ba người còn để chăn nệm bừa bãi, áo ngoài cũng chưa mặc.
Tình Văn chỉ mặc áo lót lụa xanh Hàng Châu, quần lót lụa đỏ, đầu tóc rũ rượi,
đương cưỡi lên người Phương Quan. Xạ Nguyệt thì mặc cái yếm lụa đỏ, ngoài khoác
một cái áo cũ, đương chọc nách Phương Quan, Phương Quan thì nằm ngửa ở trên giường,
mặc áo lót hoa quần đỏ, tất xanh, hai chân giẫy giụa đương cười sặc sụa thở
không ra hơi. Bảo Ngọc cười nói:
Hai chị lớn bắt nạt một cô bé! Để tôi cùng đến chọc các
chị xem.
Nói xong trèo lên giường cù Tình Văn, Tình Văn buồn quá,
cười rồi bỏ Phương Quan ra, đến cù nhau với Bảo Ngọc. Phương Quan được thể đè
Tình Văn xuống cù.
Tập Nhân trông thấy bốn người vật lộn nhau, thật buồn cười
liền nói: “Cẩn thận kẻo bị lạnh đấy”.
Chợt Bích Nguyệt đến hỏi: Chiều hôm qua mợ tôi bỏ quên
cái khăn lụa ở đây, không biết bây giờ có còn không?
Xuân Yến vội đáp: Có. Tôi nhặt được ở dưới đất, không biết
là của ai, vừa đem giặt và phơi chưa khô đâu.
Bích Nguyệt thấy bốn người đương đùa với nhau, cười nói:
Ở bên các chị vui vẻ quá, vừa mới sáng ra, đã họp nhau cười
đùa như thế. Bảo Ngọc cười nói: Bên các cô cũng nhiều người, sao lại không đùa?
Bên ấy mợ tôi không đùa, nên hai dì tôi và cô Cầm cũng phải
chịu. Nay cô Cầm lại sang ở bên cụ, thành ra càng vắng. Đến mùa đông năm sau,
hai dì tôi sẽ về nhà, thì lại càng buồn hơn! Cậu thử xem ở bên cô Bảo chỉ một
mình chị Hương Lăng ra về, mà cứ như là thiếu đi mất mấy người, làm cô Tương
Vân cũng trơ trọi một mình.
Lúc đó Tương Vân sai Thúy Lũ đến nói: “Mời cậu Hai sang
ngay để xem thơ hay”. Bảo Ngọc vội rửa mặt, chải đầu rồi đi. Đến nơi, thấy Đại
Ngọc, Bảo Thoa, Tương Vân, Bảo Cầm, Thám Xuân đều ở cả đấy, đương cầm một bài
thơ xem. Thấy Bảo Ngọc đến, mọi người đều cười nói:
Bây giờ cậu mới dậy à? Thi xã của chúng ta đã tan đi một
năm nay, không có người đứng ra dựng lại. Nay đang vào tiết đầu xuân, muôn vật
đổi mới, đáng nên hăng hái dựng lại mới phải.
Tương Vân cười nói: Trước thi xã của chúng ta mở vào mùa
thu nên không phát đạt. Bây giờ muôn vật vui tươi dưới trời xuân, chúng ta sửa
soạn mở lại thi xã, thế nào cũng sẽ thịnh vượng. Vả chăng bài thơ “Đào hoa” này
lại hay, vậy nên đổi “Hải đường xã” làm “Đào hoa xã” mới đúng.
Bảo Ngọc gật gù nói: “Được lắm”. Rồi đòi lấy bài thơ để
xem. Mọi người đều nói:
Bây giờ chúng ta hãy sang thăm vị Đạo Hương lão nông rồi
cùng bàn cho xong việc mở lại thi xã.
Nói xong, họ đứng dậy đi sang Đạo Hương thôn. Bảo Ngọc vừa
đi vừa xem, thì thấy thơ viết:
Đào Hoa Hành
Phiên âm
Đào
hoa liêm ngoại đông phong nhuyễn
Đào
hoa liêm nội thần trang lãn
Liêm
ngoại đào hoa liêm nội nhân
Nhân
dữ đào hoa cách bất viễn
Đông
phong hữu ý yết liêm lung
Hoa
dục khuy nhân liêm bất quyển
Đào
hoa liêm ngoại khai nhưng cựu
Liêm
trung nhân tỉ đào hoa sấu
Hoa
giải liên nhân hoa diệc sầu
Cách
liêm tiêu tức phong xuy thấu
Phong
thấu liêm lung hoa mãn đình
Đình
tiền xuân sắc bội thương tình
Nhàn
đài viện lạc môn không yểm
Tà
nhật lan can nhân tự bằng
Bằng
lan nhân hướng đông phong khấp
Thiến
quần thâu bạng đào hoa lập
Đào
hoa đào diệp loạn phân phân
Hoa
trán tân hồng diệp ngưng bích
Vụ
khoả yên phong nhất vạn chu
Hồng
lâu chiếu bích hồng mô hồ
Thiên
cơ thiêu phá uyên ương cẩm
Xuân
hàm dục tỉnh di san chẩm
Thị
nữ kim bồn tiến thuỷ lai
Hương
tuyền ảnh trám yên chi lãnh
Yên
chi tiên diễm hà tương loại
Hoa
chi nhan sắc nhân chi lệ
Nhược
tương nhân lệ tỉ đào hoa
Lệ
tự trường lưu hoa tự mỵ
Lệ
nhãn quan hoa lệ dị can
Lệ
can xuân tận hoa tiều tuỵ
Tiều
tuỵ hoa già tiều tuỵ nhân
Hoa
phi nhân quyện dịch hoàng hôn
Nhất
thanh đỗ vũ xuân quy tận
Tịch
mịch liêm lung không nguyệt ngân.
Dịch thơ
Hoa
đào nọ ngoài rèm gió liệng,
Người
trong rèm sớm biếng điểm trang.
Trong
ngoài chừng độ tấc gang,
Người
đây hoa đấy lại càng gần thêm.
Gió
muốn thổi cho rèm lại mở,
Hoa
muốn nhòm rèm cứ đứng ngay.
Ngoài
rèm hoa vẫn nở đầy,
Mà
trong rèm lại người gầy hơn hoa.
Hoa
cũng biết xót xa ai đó,
Đứng
ngoài rèm nhờ gió hỏi han.
Gió
luồn hoa đã đầy sân,
Ngoài
sân hoa những tần ngần nhớ ai?
Sân
rêu bám phía ngoài khép cửa,
Bóng
chiều về người tựa lan can.
Tựa
lan nhìn gió lệ tràn,
Quần
hồng rón rén dạo vườn hoa chơi.
Kìa
hoa lá tơi bời trên dưới,
Hoa
ửng hồng, lá rọi màu xanh.
Khói
tuôn phủ kín muôn cành,
Bóng
lờ mờ thắm, in quanh vách lầu.
Mặt
trời chói nát nhàu chăn gấm,
Gối
san hồ giấc ấm vừa tan.
Gái
hầu dâng chậu kim bồn,
Chè
hương ấm giọng phấn son lạnh mùi.
Này
người đẹp hoa tươi là thế,
Sao
hoa tươi mà lệ vẫn rơi?
Đem
hoa ví với lệ người,
Lệ
tuôn lã chã hoa cười lả lơi.
Xem
hoa mai lệ vơi vơi cạn,
Lệ
cạn rồi xuân chán hoa buồn,
Hoa
buồn người cũng héo hon,
Hoa
bay, người lả, chiều hôm còn gì?
Tiếng
quyên bỗng gọi xuân đi,
Rèm
này lặng lẽ trăng kia lờ mờ!
Bảo Ngọc xem xong, chẳng khen ngợi gì, ra vẻ ngẩn ngơ,
rơm rớm nước mắt. Nhưng sợ người ta trông thấy, nên vội lau đi… Rồi lại hỏi:
Bài này các chị lấy được ở đâu?
Bảo Cầm cười nói: Anh thử đoán xem ai làm nào?
Chắc là bài của Tiêu Tương Tử rồi.
Bài này của em làm đấy!
Tôi không tin! Giọng thơ này không giống của cô một tí
nào.
Thế là anh học hãy còn kém. Chẳng lẽ bài nào ông Đỗ Công
Bộ cũng có những câu như: “Khóm cúc tuôn rơi dòng lệ cũ” hay sao? Nhiều bài
cũng có những câu như “Mưa mai nở nụ hồng” “Cành lau lướt gió dải xanh dài” chứ.
Đã đành thế rồi. Nhưng tôi chắc là chị Bảo không khi nào
cho cô làm những câu buồn rầu như thế? Cô vẫn có tài làm được, chỉ không chịu
làm đó thôi. Chứ không phải như cô Lâm gặp nhiều nghịch cảnh, nên hay có những
lời ai oán.
Mọi người nghe nói đều cười. Lúc đến Đạo Hương thôn, họ
đưa thơ ra, Lý Hoàn xem xong, khen ngợi không ngớt. Mọi người bàn định việc mở
thi xã: ngày mai là mồng hai tháng ba, sẽ mở thi xã, đổi tên “Hải đường xã” làm
“Đào hoa xã”. Đại Ngọc làm chủ.
Hôm sau ăn cơm xong, mọi người đến họp cả ở quán Tiêu Tương
để định ra đầu bài.
Đại Ngọc nói:
Chúng ta làm bài thơ hoa đào hạn một trăm vần. Bảo Thoa
nói:
Không được. Xưa nay thơ hoa đào nhiều lắm rồi, làm nữa sẽ
trùng và cũng không được bằng bài cổ phong của chị đâu. Phải ra đầu bài khác.
Đương nói thì có người vào trình:
Bà mợ sang chơi, mời các cô đến chào.
Mọi người đều đến chào vợ Vương Tử Đằng, rồi ngồi hầu
chuyện. Ăn cơm xong, họ lại theo bà ấy vào vườn, ngoạn cảnh một lượt, đến bữa
cơm chiều xong, vào lúc lên đèn mới về.
Hôm sau là ngày sinh nhật Thám Xuân. Nguyên Xuân sai hai
viên thái giám đưa đến cho mấy thứ đồ chơi. Mọi người đều có đồ lễ mừng thọ,
không phải nói kỹ. Ăn cơm xong, Thám Xuân mặc lễ phục đi chào các nơi.
Đại Ngọc cười bảo mọi người:
Lần này thi xã của chúng ta mở không khéo chọn ngày, lại
quên hẳn hai hôm nay là sinh nhật của cô ấy. Tuy không bày tiệc hát xướng gì,
nhưng thế nào cũng phải cùng với cô ấy sang bên cụ và bà Hai vui chơi một ngày.
Như thế thì còn được lúc nào rỗi nữa?
Vì thế lại hoãn đến ngày mồng năm.
Hôm đó, bọn chị em hầu xong cơm sáng ở trong phòng, thì
có thư của Giả Chính gửi về. Bảo Ngọc hỏi thăm sức khỏe xong, mở bức thư ra đọc
cho Giả mẫu nghe. Đoạn trên là những lời thăm hỏi và nói đến tháng sáu sẽ được
phép về Kinh. Còn thư riêng gửi về nhà nói việc lặt vặt thì đã có Giả Liễn và
Vương phu nhân mở xem. Mọi người nghe nói độ tháng sáu, tháng bảy Giả Chính sẽ
về Kinh, đều vui mừng khôn xiết. Ngay hôm đó Vương Tử Đằng lại có việc gả cháu
gái cho con trai Bảo Ninh hầu, chọn đến tháng năm cho cưới, Phượng Thư lại bận
xếp đặt công việc, thường phải đi vắng dăm ba ngày. Hôm đó, vợ Vương Tử Đằng lại
sang đón Phượng Thư và các cháu trai cháu gái sang vui chơi một hôm. Giả mẫu và
Vương phu nhân cho Bảo Ngọc, Thám Xuân, Đại Ngọc, Bảo Thoa cùng đi với Phượng
Thư. Mọi người không dám trái lời, đành phải về buồng sửa soạn ăn mặc để đi.
Năm người đi chơi một ngày, đến lúc lên đèn mới về.
Bảo Ngọc về đến viện Di Hồng, nằm nghỉ một lát, Tập Nhân
nhân dịp này khuyên Bảo Ngọc nên để ý nghĩ lại, lúc rỗi phải mang sách ra xem để
chuẩn bị trước. Bảo Ngọc tính đốt tay nói:
Còn sớm chán.
Xem sách còn là việc thứ hai. Đến bấy giờ dù cậu có thuộc
sách đi nữa, nhưng chữ viết của cậu thì ở đâu?
Ngày thường tôi cũng viết được khá đấy, chẳng lẽ chị
không cất đi à?
Sao lại không cất? Hôm nọ cậu đi vắng, tôi lục cả ra, đếm
cẩn thận tất cả mới có năm trăm sáu mươi mấy bài. Có lẽ nào ròng rã hai ba năm
trời, mới được có mấy tờ ấy à? Cứ ý tôi thì, bắt đầu từ ngày mai, cậu hãy hồi
tâm lại, mỗi ngày phải viết thêm mấy tờ, tuy không nhất định ngày nào cũng có,
nhưng cậu phải làm sao cho dễ coi mới được.
Bảo Ngọc nghe nói, tự mình soát lại một lượt, thì thực
không thể nào đắp điếm cho qua được, liền nói:
Bắt đầu từ ngày mai, mỗi ngày tôi phải viết một trăm chữ
mới được.
Nói xong đi ngủ. Hôm sau trở dậy, rửa mặt gội đầu xong, Bảo
Ngọc liền ngồi viết chữ ở dưới cửa sổ. Giả mẫu không thấy Bảo Ngọc đến, tưởng
là ốm, liền sai người sang hỏi. Bảo Ngọc đến chào Giả mẫu, nói:
Vì cháu bận viết tập, nên đến hầu muộn. Giả mẫu nghe nói
xiết đỗi vui mừng, dặn dò:
Từ nay cháu cứ chăm chỉ viết chữ đọc sách, không phải
sang hầu ta cũng được. Cháu đến trình với mẹ cháu biết.
Bảo Ngọc nghe nói, sang trình Vương phu nhân biết.
Vương phu nhân nói: Lúc ra trận mới mài giáo thì còn ăn
thua gì. Bây giờ cuống lên, ngày nào cũng đọc đọc viết viết, thì liệu được bao
nhiêu? Khéo cứ dồn dập mãi lại sinh ốm đấy thôi.
Bảo Ngọc đáp: Không sao đâu.
Giả mẫu cũng sợ Bảo Ngọc sinh ốm. Bảo Thoa, Thám Xuân đều
cười nói:
Xin bà đừng lo, sách thì các cháu không thể đọc hộ được
anh ấy, nhưng chữ thì các cháu có thể viết hộ được. Mỗi ngày chúng cháu mỗi người
viết hộ anh ấy một bài, để đắp điếm cho qua lúc này là xong. Một là để ông khỏi
giận, hai là anh ấy cũng không đến nỗi dồn dập sinh ra ốm.
Giả mẫu nghe nói gật đầu cười.
Đại Ngọc nghe nói Giả Chính sắp về, thế nào cũng hỏi đến
việc học hành của Bảo Ngọc, nhưng mấy lâu nay Bảo Ngọc vẫn lêu lổng, chắc khi hỏi
đến sẽ bị quở phạt. Vì thế, Đại Ngọc ra vẻ uể oải không nhắc đến việc mở thi xã
và cũng không rủ rê việc gì nữa. Thám Xuân và Bảo Thoa mỗi ngày viết một bài chữ
chân phương đưa cho Bảo Ngọc. Chính Bảo Ngọc hàng ngày cũng cố gắng viết đến
hai, ba trăm chữ. Đến cuối tháng ba, dồn cả số chữ lại đã được rất nhiều. Hôm
đó tính ra nếu được thêm năm chục bài nữa, thì cũng đắp điếm được rồi. Ngờ đâu
Tử Quyên đến, đưa cho một cuộn. Bảo Ngọc mở ra xem, thấy cuộn giấy viết lối chữ
nhỏ của họ Chung và họ Vương116 bằng thứ giấy trơn giống hệt
như lối chữ của mình. Bảo Ngọc mừng quá, vái Tử Quyên một cái, rồi đến tận nơi
tạ ơn. Sau đó Tương Vân, Bảo Cầm cũng viết mấy bài đưa đến. Dồn lại, tuy không
viết đủ số nhưng cũng có thể nhế nhóa được rồi. Bảo Ngọc đã yên tâm. Lại đem những
sách cần phải đọc, ôn lại mấy lần.
Chính Bảo Ngọc hàng ngày cũng cố gắng viết đến hai, ba trăm chữ. Đến cuối tháng ba, dồn cả số chữ lại đã được rất nhiều.
Bảo Ngọc đang lúc gắng công học hành, thì một giải ven bể
có nước dâng, nhân dân bị nạn ngập lụt, quan địa phương tâu lên, vua truyền chỉ
xuống cho Giả Chính tiện đường đến đấy tra xét và phát chẩn. Như thế tính ra phải
đến cuối mùa đông mới về Kinh được, Bảo Ngọc biết tin lại gác chuyện đọc sách
viết chữ, rồi cứ chơi tràn như cũ.
Nhân gặp buổi cuối xuân, Tương Vân ngồi buồn, trông thấy
hoa liễu phấp phới, liền làm một bài tiểu từ, theo điệu “Như mộng lệnh”.
Nào
phải nhung thêu mới rắc;
Rèm
cuốn nửa chừng thơm sặc.
Tay
tiên nhặt đem về,
Quyên
khóc yến hờn cũng mặc.
Giữ
chặt! Giữ chặt!
Đừng
để xuân đi nơi khác.
Phải
chăng là bức nhung thêu117
Hương
mù lơ lửng nhường treo nửa rèm.
Tay
này thoăn thoắt nhặt xem,
Làm
cho quyên khóc yến ghen suốt ngày.
Thôi
thôi ta giữ chặt tay,
Chúa
xuân khéo lại đi ngay đó mà!
Làm xong, Tương Vân rất là đắc ý, lấy tờ giấy viết ra,
đưa cho Bảo Thoa xem, rồi lại đi tìm Đại Ngọc, Đại Ngọc xem xong, cười nói:
Hay đấy! Vừa mới vừa lý thú.
Mấy lần thi xã của chúng ta chưa làm từ. Ngày mai chị cho
mở thi xã làm từ, chẳng mới hay sao?
Đại Ngọc cao hứng nói:
Cô nói phải đấy. Hôm nay gặp lúc đẹp trời, sao chúng ta
không làm ngay.
Cũng được.
Nói xong Đại Ngọc bảo sắm sửa mấy món ăn, rồi sai người
đi mời các nơi.
Đại Ngọc, Tương Vân đã nghĩ sẵn đầu bài là “liễu nhứ”
(bông hoa liễu) và hạn phải theo mấy điệu từ, viết xong dán lên tường. Mọi người
đến xem thì thấy: Đầu bài là “liễu nhứ” hạn phải theo mấy tiểu điệu đã định trước.
Rồi họ đều xem bài từ của Tương Vân, cùng nhau khen ngợi một lúc.
Bảo Ngọc cười nói:
Lối từ này tôi làm xoàng lắm, nhưng cũng phải nói nhảm vậy.
Rồi mọi người đến gắp thăm. Bảo Thoa gắp được điệu “Lâm
giang tiên”; Bảo Cầm gắp được điệu “Tây giang nguyệt”; Thám Xuân gắp được điệu
“Nam kha từ”; Đại Ngọc gắp được điệu “Đường đa lệnh”; Bảo Ngọc gắp được điệu
“Điệp luyến hoa”; Tử Quyên đốt một nén “Mộng điềm hương”. Mọi người bắt đầu suy
nghĩ làm từ.
Một lúc Đại Ngọc làm xong và viết ra. Rồi đến Bảo Cầm
cũng vội viết luôn. Bảo Thoa cười nói:
Tôi cũng làm xong rồi, chờ xem của các chị đã, rồi đến của
tôi. Thám Xuân cười nói:
Sao hương hôm nay cháy nhanh thế? Tôi mới làm được nửa
bài. Lại hỏi Bảo Ngọc: Anh đã làm xong chưa?
Bảo Ngọc tuy đã làm được một ít, vì tự xét là không hay,
lại xóa cả đi để làm bài khác; nhưng quay lại nhìn thì hương đã cháy hết. Bọn
Lý Hoàn cười nói: Chú Bảo lại thua rồi. Còn cô Tiêu Khách thế nào?
Thám Xuân nghe nói, liền viết ra. Mọi người đến xem trên
giấy, chỉ mới được nửa bài theo điệu “Nam kha từ”:
Dây
đâu treo lơ lửng,
Sợi
khéo rủ lòng thòng.
Buộc
buộc xe xe cũng khó lòng,
Thôi
đành chia các ngả nam bắc tây đông!
Trơ
đây những sợi lòng thòng,
Kéo
về buộc lại khó lòng lắm thay!
Liều
cho nam bắc đông tây
Chia
lìa các ngả thì đây cũng đành.
Lý Hoàn cười nói: Cũng hay đấy. Sao không làm nốt đi?
Bảo Ngọc thấy hương cháy hết rồi, đành bỏ bút xuống, xin
thua, chứ không chịu miễn cưỡng làm chiếu lệ, rồi đến xem nửa bài của Thám
Xuân. Thấy chưa làm xong, Bảo Ngọc cao hứng, cầm bút viết tiếp:
Rơi
xuống chàng đứng tiếc,
Bay
về thiếp biết thôi.
Tiết
muộn màng oanh bướm bùi ngùi,
Sang
xuân dù gặp, đã cách một năm rồi.
Tiếc
chi cái phận lênh đênh,
Bay
về mình biết cho mình đấy thôi.
Oanh
buồn bướm mệt lắm rồi,
Xuân
sau dù gặp cũng ngoài một năm!
Mọi người cười nói: Chính bài của mình không làm nổi lại
đi làm hộ người. Dù có hay cũng không đáng kể.
Sau đó xem đến bài của Đại Ngọc là một khúc “Đường đa lệnh”.
Bãi
hoa phấn rơi tràn,
Lầu
yến hương đã tàn.
Quả
cầu bay nối tiếp từng đoàn,
Xiêu
dạt khác chi người mệnh bạc.
Còn
chi ân ái đoàn loan.
Cây
cỏ cũng biết sầu,
Tuổi
xuân đến bạc đầu,
Thương
kiếp này ai biết ai đâu.
Theo
hẳn gió đông xuân cũng mặc,
Thôi
đi thẳng, ở chi lâu!
Phấn
rơi nào bãi trăm hoa,
Nào
lầu yến tử hương mà còn đâu?
Hàng
đoàn hàng đội theo nhau,
Kìa
ai thả những quả cầu này đây?
Mỏng
manh trôi dạt thân này,
Uổng
công gắn bó thiệt ngày phong lưu!
Cỏ
cây âu cũng rầu rầu,
Tuổi
xanh âu cũng bạc đầu đến nơi.
Kiếp
này thôi thế thì thôi,
Ai
người nâng lấy ai người bỏ rơi!
Gió
đông đành gả cho rồi.
Đi
thì đi hẳn đoái hoài làm chi!
Mọi người xem xong đều gật đầu thở dài:
Bài này làm buồn quá, nhưng rất hay.
Lại xem bài “Tây giang nguyệt” của Bảo Cầm:
Vườn
Hán lầu hồng lác đác,
Đê
Tùy sắc lục mênh mông.
Sự
nghiệp ba xuân gặp gió đông,
Hoa
mai vừng nguyệt cũng là không.
Mấy
chỗ hoa rơi đỏ ối,
Nhà
ai rèm tuyết hương nồng.
Giang
nam, giang bắc cảnh cùng chung,
Luống
để người xa chạnh lòng!
Lơ
thơ vườn Hán buồn thay,
Đê
Tùy man mác hoa bay ngàn trùng.
Việc
xuân giả mặc gió đông,
Trăng
hoa là một giấc nồng đấy thôi.
Mấy
nơi hoa rụng sân ngoài?
Nhà
ai rèm tuyết đượm mùi hương thơm.
Cùng
chung một cảnh bắc nam,
Mà
người ly biệt buồn càng buồn thêm!
Mọi người đều cười nói:
Bài này thanh điệu rất là bi tráng. Hai câu “mấy chỗ” và
“nhà ai” rất hay.
Bảo Thoa cười nói: Nhưng vẫn không khỏi buồn chán. Tôi
nghĩ bông hoa liễu vẫn là một thứ mỏng manh không bám vào đâu, nhưng cứ ý tôi,
phải nói cho nó tốt thì mới thoát được sáo cũ. Vì thế tôi tạm đặt một bài, chưa
chắc đã hợp được ý chị em.
Mọi người cười:
Đừng nói nhũn quá, chắc là hay hẳn, hãy để cho chúng tôi
thưởng thức.
Đây là một bài theo điệu “Lâm giang tiên”.
Bạch
ngọc trước thềm xuân biết múa,
Gió
đông khéo cuốn đều đều!
Trước
thềm xuân biết múa may,
Gió
đông cuốn rải hoa này khắp nơi.
Tương Vân cười nói ngay: Câu “Gió đông khéo cuốn đều đều”
hay quá! Một câu này cũng đã hơn hẳn người ta rồi.
Ong
bướm hàng đàn lượn dập dìu,
Nỡ
để bụi thơm vùi dập.
Bao
phen dòng nước trôi theo,
Muôn
sợi tơ mành nào khác trước.
Hợp
tan mặc bước gieo neo,
Xuân
chớ cười ta giống treo leo.
Nhờ
gió đưa lên mãi,
Trên
mây ngất ngưởng trèo.
Bướm
ong nhao nhác bay hoài,
Đâu
theo dòng nước?
Đâu
vùi bụi thơm?
Muôn
dây nghìn sợi vẹn toàn,
Cũng
đành khi hợp khi tan tha hồ!
Đừng
cười là giống chơ vơ,
Mây
xanh lên vút ta nhờ gió đông.
Mọi người vỗ bàn khen hay, đều nói:
Thực là nói trái đi rất khéo! Bài này chắc là hơn cả. Giọng
điệu trìu mến buồn rầu, phải nhường cho Tiêu Tương tử; tình tứ vui vẻ thùy mỵ,
lại là cô Chẩm Hà; còn Tiểu Tiết (Bảo Cầm) và Tiêu Khách thì hôm nay thi hỏng,
phải chịu phạt rồi.
Bảo Cầm cười nói: Cố nhiên chúng tôi xin chịu phạt. Nhưng
không biết người nộp quyển trắng phải phạt thế nào?
Lý Hoàn nói:
Chớ vội, nhất định phải phạt thật nặng để làm nề nếp cho
lần sau.
Nói chưa dứt lời, thì trên ngọn trúc ngoài cửa sổ có một
tiếng động, như là cánh cửa sổ rơi. Mọi người đều giật mình. A hoàn chạy ra
nghe bọn hầu nhỏ ở ngoài rèm nói:
Có một cái diều con bướm lớn, mắc ở trên ngọn trúc.
Các a hoàn cười nói: Cái diều đẹp quá, không biết của nhà
ai thả đứt dây bay lại đây. Chúng ta lấy xuống đi.
Bảo Ngọc ra xem, cười nói: Tôi nhận ra cái diều này rồi.
Đó là của cô Kiều Yên ở dinh bác Cả bên kia thả đấy. Lấy xuống mang trả cho cô ấy.
Tử Quyên cười nói: Có lẽ nào thiên hạ không ai có, chỉ một
cô ấy có cái diều như thế? Tôi không kể, hãy lấy xuống đã.
Thám Xuân cười nói: Chị Tử Quyên hẹp hòi quá. Chúng ta ai
cũng có rồi, lại đi lấy của người ta, không sợ mang tiếng à?
Đại Ngọc cười nói:
Phải đấy. Mang diều của chúng ta ra đây thả cho hết cái
đen đủi đi.
Tử Quyên vội sai bọn a hoàn cầm cái diều ra cửa vườn giao
cho bà già đi trực nhật, dặn có ai đến hỏi, sẽ trả người ta.
Bọn a hoàn chỉ chờ nghe nói thả diều, liền ba chân bốn cẳng
chạy ngay đi lấy cái diều mỹ nhân đến. Rồi đứa bắc cái đồn cao; đứa buộc cái gạc
ba vào cần; đứa thì thả. Bọn Bảo Thoa đứng ở trước cửa, sai a hoàn tìm chỗ đất
rộng ở ngoài sân thả lên. Bảo Cầm cười nói:
Cái diều ấy của chị không bằng cái diều Phượng Hoàn vẫy
cánh của chị Ba đẹp hơn. Bảo Thoa cười nói: “Đúng đấy”. Nhân quay lại cười bảo
Thúy Mặc:
Cô về lấy cái diều của nhà cô mang đến đây mà thả. Bảo Ngọc
cũng cao hứng, bảo đứa hầu nhỏ:
Về nhà đem cái diều con cá của già Lại Đại cho hôm trước
đến đây. Đứa hầu nhỏ đi một lúc, về người không, cười nói:
Hôm qua chị Tình Văn đem thả đã mất rồi. Bảo Ngọc nói:
Tôi chưa được thả lần nào.
Thám Xuân cười nói: Nhưng mà chị ấy cũng đã thả cho anh hết
vận đen là được rồi. Bảo Ngọc nói: Thôi về lấy cái diều con cua ra đây vậy.
Hầu nhỏ đi một lúc rồi cùng mấy người khiêng một cái diều
hình mỹ nhân và cả cuộn dây đến, nói: Chị Tập Nhân bảo: cái diều con cua hôm
qua đã cho cậu Ba rồi. Cái diều này là của già Lâm mới đem cho đây, thả cái này
vậy.
Cái diều vù vù theo
gió bay lên. Lúc đầu trông thấy diều chỉ bằng quả trứng gà, chớp mắt chỉ còn một
điểm đen bằng ngôi sao, sau không trông thấy gì cả. Mọi người đều ngẩng lên
nói: Thích quá, thích quá!
Bảo Ngọc xem kỹ một lúc, thấy cái diều mỹ nhân làm rất
khéo, trong bụng rất thích, liền bảo thả lên.
Bấy giờ diều của Thám Xuân cũng đã mang đến. Thúy Mặc
cùng mấy a hoàn đương thả ở trên sườn núi. Bảo Cầm sai a hoàn thả một cái diều
con dơi. Bảo Thoa cũng cho thả một cái diều kết hình bảy con nhạn. Chỉ có cái
diều mỹ nhân của Bảo Ngọc thả không lên được. Bảo Ngọc bảo bọn a hoàn không biết
thả, tự mình ra thả một lúc lâu, diều chỉ lên cao bằng nóc nhà, rồi lại rơi xuống.
Bảo Ngọc tức quá toát cả mồ hôi trán ra. Mọi người đều cười. Bảo Ngọc vứt ngay
xuống đất trỏ vào cái diều, nói:
Nếu mày không phải là diều mỹ nhân thì ta giậm một cái
nát ra rồi.
Đại Ngọc cười nói: Đó là vì dây trên đầu buộc không đúng.
Đưa cho người ta đổi đi, sẽ thả được ngay. Hãy lấy một cái khác đem ra mà thả.
Bảo Ngọc sai người buộc lại dây, lại sai đi lấy cái diều
khác đến. Mọi người đều ngửa mặt lên nhìn mấy cái diều đương bay ở trên không.
Bọn a hoàn lại đưa các món ăn đến. Tử Quyên cười bảo Đại
Ngọc:
Lúc này thích lắm, cô lại mà thả đi.
Đại Ngọc lấy khăn lót tay nắm dây để thả, quả nhiên gió rất
to, vừa buông cuộn dây ra, liền nghe thấy soạt một tiếng, tức thì dây hết. Đại
Ngọc mời mọi người đến thả. Ai nấy đều nói: Chúng tôi ai cũng có cả, cô cứ thả
trước đi.
Đại Ngọc nói: Thả cũng thú đấy, nhưng tôi không nỡ lòng
nào.
Lý Hoàn nói: Thả diều cốt để vui, cho nên mới nói là thả
cái đen đủi. Cô cứ thả nhiều, cho nó mang hết cả bệnh của cô đi mới được.
Tử Quyên nói: Cô tôi hẹp hòi quá, cả năm chẳng thả được mấy
cái, nay lại bảo là đau lòng. Thôi, cô không thả thì tôi thả vậy.
Nói xong, liền giật lấy cái kéo tây nhỏ trong tay Tuyết
Nhạn, cắt soạt một cái, đứt dây, nói: Cho mày đi, rồi mang tất cả các bệnh đi
theo.
Cái diều vù vù theo gió bay lên. Lúc đầu trông thấy diều
chỉ bằng quả trứng gà, chớp mắt chỉ còn một điểm đen bằng ngôi sao, sau không
trông thấy gì cả. Mọi người đều ngẩng lên nói: Thích quá, thích quá!
Bảo Ngọc nói: Đáng tiếc! Không biết nó rơi vào đâu? Rơi
vào nơi đông người, trẻ con nhặt được còn khá; bằng như rơi xuống nơi đồng
không hoang vắng, không một bóng người, thật tôi cũng lấy làm âm thầm cho nó. Sực
nhớ ra, giá ta thả thế này, mà cho hai cái đi theo làm bầu làm bạn thì hay.
Rồi cũng lấy kéo cắt dây cho nó bay đi.
Thám Xuân đương định cắt dây cái diều phượng hoàng của
mình, chợt nhìn thấy một cái diều phượng hoàng đang bay lên trời, liền nói:
Không biết cái kia của ai?
Mọi người đều nói: Cô cứ cắt cái của cô đi, xem nó quấn lại
với nhau thế nào?
Nói xong, thấy cái diều phượng hoàng này dần dần bay sát
lại chập vào cái diều phượng hoàng kia. Mọi người đương định rút dây lại, thấy
cái diều kia cũng rút dây. Hai cái đương quấn với nhau, lại thấy một cái diều
thật to, có chữ “Hỷ” long lanh, có cả sáo vang lên như tiếng chuông trên lưng
chừng trời, bay dần sát lại. Mọi người nói:
Để cho cái này quấn vào, hãy hượm kéo về. Cả ba cái quấn
vào nhau mới thích.
Quả nhiên cái diều chữ “Hỷ” quấn vào hai diều phượng
hoàng. Ba cái cứ đảo tít mù, đều đứt cả dây rồi vù vù bay đi cả. Mọi người đứng
xem vỗ tay cười:
Thú thật! Không biết cái diều chữ “Hỷ” là của nhà ai, lại
đâm ngay vào?
Đại Ngọc nói: Diều của tôi đã thả rồi. Tôi mệt lắm, phải
về nghỉ thôi. Bảo Thoa nói: Đợi chúng tôi thả xong, cùng về một thể.
Xem chị em thả xong rồi ai nấy mới về. Đại Ngọc về phòng
mệt lừ người.
Liễu Nhứ (Bông liễu)
Bài của Tương Vân, làm theo điệu Như mộng lệnh
Phiên âm
Khởi
thị tú nhung tàn thổ?
Quyển
khởi bán liêm hương vụ.
Tiêm
thủ tự niêm lai,
Không
sử quyên đề yến đố.
Thả
trú, thả trú!
Mạc
phóng xuân quang biệt khứ!
Dịch thơ của bản HLM 1969
Ngoài
kia có phải hoa nở liễu buông?
Hay
là trong này, nửa rèm hương bay sương phủ?
Bấm
tay mà tính, chỉ thấy chim yến hờn ghen, chim quyên ra rả,
Xuân
qua rồi chăng
Xin
dừng lại, xin dừng lại!
Bóng
thiều quan đừng đi, đi mãi…
Bài của Thám Xuân, làm theo điệu Nam kha từ
Phiên âm
Không
quải tiêm tiêm lũ,
Đồ
thuỳ lạc lạc ty.
Dã
nan oản hệ dã nan ky,
Nhất
nhậm đông tây nam bắc các phân ly.
Lạc
khứ quân hưu tích,
Phi
lai ngã tự tri.
Oanh
sầu điệp quyện vãn phương thì,
Túng
thị minh xuân tái kiến cách niên kỳ.
Dịch thơ của bản HLM 1969
Những
sợi tơ vương vương trên không
Những
sợi tơ vương vương bên đường
Tơ
vương trên mái tóc xanh
Tơ
vương dưới gót chân hồng
Một
bước chân đi,
Nam
bắc phân ly… (Thám
Xuân)
Tơ
có đứt xin nàng đừng tiếc
Tơ
bay tới đây tự nhiên ta biết
Oanh
sầu bướm mỏi, mùa xuân qua rồi
Chờ
đến năm sau, xuân lại tái hồi. (Bảo
Ngọc)
Bài của Đại Ngọc, làm theo điệu Đường đa lệnh
Phiên âm
Phấn
đọa bách hoa châu,
Hương
tàn yến tử lâu,
Nhất
đoàn đoàn trục đối thành cầu.
Phiêu
bạc diệc như nhân mệnh bạc,
Không
khiển quyển, thuyết phong lưu!
Thảo
mộc dã tri sầu,
Thiều
hoa cánh bạch đầu,
Thán
kim sinh thùy thập thùy thu?
Giá
dữ đông phong xuân bất quản,
Bằng
nhĩ khứ, nhẫn yêm lưu.
Dịch thơ của bản HLM 1969
Phấn
rơi rắc,
Hương
tàn phai,
Tơ
liễu vương vương
Hoa
bay tan tác
Đời
liễu đời hoa như đời người mệnh bạc,
Vốn
danh tài tử
Quen
thói phong lưu
Xuân
qua cây cỏ cũng biết sầu
Cho
hay giai nhân mấy lúc chẳng bạc đầu
Than
rằng: đời ta rồi sẽ về đâu?
Muốn
về với gió xuân, nhưng chúa xuân chẳng biết
Xuân
đi rồi, mình ta nỗi sầu biền biệt.
Bài của Bảo Cầm, làm theo điệu Tây giang nguyệt
Phiên âm
Hán
uyển linh tinh hữu hạn,
Tuỳ
đê điểm chuế vô cùng,
Tam
xuân sự nghiệp phó đông phong,
Minh
nguyệt mai hoa nhất mộng.
Kỷ
xứ lạc hồng đình viện?
Thuỳ
gia hương tuyết liêm long?
Giang
nam, giang bắc nhất ban đồng,
Thiên
thị ly nhân hận trùng!
Dịch thơ của bản HLM 1969
Thượng Uyển đời Hán vườn có trăm hoa,
Cung
cấm nhà Tùy giai nhân ẩn bóng,
Ba
mùa xuân đùa với gió xuân
Đến
lúc nhìn trăng dõi hoa lê, chợt bừng giấc mộng.
Nơi
đâu hoa rụng đỏ thềm?
Nơi
đâu tuyết đóng bên rèm?
Giang
nam, giang bắc cũng như nhau.
Kẻ
ở người đi, muôn vạn nỗi sầu.
Bài của Bảo Thoa, làm theo điệu Lâm giang tiên
Phiên âm
Bạch
ngọc đường tiền xuân giải vũ,
Đông
phong quyển đắc quân cân.
Phong
vi điệp trận loạn phân phân.
Kỹ
tằng tuỳ thệ thuỷ,
Khởi
tất uỷ phương trần.
Vạn
lũ thiên ty chung bất cải,
Nhậm
tha tuỳ tụ tuỳ phân.
Thiều
hoa hưu tiếu bổn vô căn.
Hào
phong tần tá lực
Tống
ngã thượng thanh vân!
Dịch thơ của bản HLM 1969
Những
sợi tơ nào trước hiên bay múa
Hay
tại mùa xuân tới đây đón gió?
Bướm
từng đàn bay liệng chập chùng
Tơ
như suối chảy, tơ rũ bụi hồng.
Trăm
nguồn nghìn sợi cũng thế mà thôi.
Nghĩ
tới phận khinh bạc vô căn, luống những bồi hồi,
Gió
ơi cho mượn sức gió
Đưa
tơ tới tận đỉnh trời.
Bài của Tương Vân, làm theo điệu Như mộng lệnh
Nào
phải nhung thêu mới rắc;
Rèm
cuốn nửa chừng thơm sặc.
Tay
tiên nhặt đem về,
Quyên
khóc yến hờn cũng mặc.
Giữ
chặt! Giữ chặt!
Đừng
để xuân đi nơi khác.
Phải
chăng là bức nhung thêu
Hương
mù lơ lửng nhường treo nửa rèm.
Tay
này thoăn thoắt nhặt xem,
Làm
cho quyên khóc yến ghen suốt ngày.
Thôi
thôi ta giữ chặt tay,
Chúa
xuân khéo lại đi ngay đó mà!
Bài của Thám Xuân, làm theo điệu Nam kha từ
Dây
đâu treo lơ lửng,
Sợi
khéo rủ lòng thòng.
Buộc
buộc xe xe cũng khó lòng,
Thôi
đành chia các ngả nam bắc tây
đông!
Rơi xuống chàng đứng tiếc,
Bay
về thiếp biết thôi.
Tiết
muộn màng oanh bướm bùi ngùi,
Sang
xuân dù gặp, đã cách một năm rồi.
Trơ
đây những sợi lòng thòng,
Kéo
về buộc lại khó lòng lắm thay!
Liều
cho nam bắc đông tây
Chia
lìa các ngả thì đây cũng đành.
Tiếc
chi cái phận lênh đênh,
Bay
về mình biết cho mình đấy thôi.
Oanh
buồn bướm mệt lắm rồi,
Xuân
sau dù gặp cũng ngoài một năm!
Bài của Đại Ngọc, làm theo điệu Đường đa lệnh
Bãi
hoa phấn rơi tràn,
Lầu
yến hương đã tàn.
Quả
cầu bay nối tiếp từng đoàn,
Xiêu
dạt khác chi người mệnh bạc.
Còn
chi ân ái đoàn loan.
Cây
cỏ cũng biết sầu,
Tuổi
xuân đến bạc đầu,
Thương
kiếp này ai biết ai đâu.
Theo
hẳn gió đông xuân cũng mặc,
Thôi
đi thẳng, ở chi lâu!
Phấn
rơi nào bãi trăm hoa,
Nào
lầu yến tử hương mà còn đâu?
Hàng
đoàn hàng đội theo nhau,
Kìa
ai thả những quả cầu này đây?
Mỏng
manh trôi dạt thân này,
Uổng
công gắn bó thiệt ngày phong lưu!
Cỏ
cây âu cũng rầu rầu,
Tuổi
xanh âu cũng bạc đầu đến nơi.
Kiếp
này thôi thế thì thôi,
Ai
người nâng lấy ai người bỏ rơi!
Gió
đông đành gả cho rồi.
Đi
thì đi hẳn đoái hoài làm chi!
Bài của Bảo Cầm, làm theo điệu Tây giang nguyệt
Vườn
Hán lầu hồng lác đác,
Đê
Tùy sắc lục mênh mông.
Sự
nghiệp ba xuân gặp gió đông,
Hoa
mai vừng nguyệt cũng là không.
Mấy
chỗ hoa rơi đỏ ối,
Nhà
ai rèm tuyết hương nồng.
Giang
nam, giang bắc cảnh cùng chung,
Luống
để người xa chạnh lòng!
Lơ
thơ vườn Hán buồn thay,
Đê
Tùy man mác hoa bay ngàn trùng.
Việc
xuân giả mặc gió đông,
Trăng
hoa là một giấc nồng đấy thôi.
Mấy
nơi hoa rụng sân ngoài?
Nhà
ai rèm tuyết đượm mùi hương thơm.
Cùng
chung một cảnh bắc nam,
Mà
người ly biệt buồn càng buồn thêm!
Bài của Bảo Thoa, làm theo điệu Lâm giang tiên
Bạch
ngọc trước thềm xuân biết múa,
Gió
đông khéo cuốn đều đều!
Ong
bướm hàng đàn lượn dập dìu,
Nỡ
để bụi thơm vùi dập.
Bao
phen dòng nước trôi theo,
Muôn
sợi tơ mành nào khác trước.
Hợp
tan mặc bước gieo neo,
Xuân
chớ cười ta giống treo leo.
Nhờ
gió đưa lên mãi,
Trên
mây ngất ngưởng trèo.
Trước
thềm xuân biết múa may,
Gió
đông cuốn rải hoa này khắp nơi.
Bướm
ong nhao nhác bay hoài,
Đâu
theo dòng nước? Đâu vùi bụi thơm?
Muôn
dây nghìn sợi vẹn toàn,
Cũng
đành khi hợp khi tan tha hồ!
Đừng
cười là giống chơ vơ,
Mây
xanh lên vút ta nhờ gió đông.
Chú thích.
[←116]
Tức
Chung Do và Vương Hy Chi, người đời Tấn, có tiếng là chữ tốt.
[←117]
Dưới
các bài từ, chúng tôi đặt thêm thể lục bát để các bạn đọc thưởng thức.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét