Mùa đông trong Đại quan viên. Ảnh phim Hồng lâu mộng 1987. |
Hồi 51.
Cô em họ Tiết làm thơ
hoài cổ;
Lang băm họ Hồ dùng thuốc
hổ lang.
Mọi
người thấy Bảo Cầm lấy đề ở những nơi cổ tích trong các tỉnh mà mình đã đi qua,
làm thành mười bài tuyệt cú hoài cổ, trong thơ ám chỉ mười vật, nên đều nói “Thế
thì rất là mới lạ!”
Rồi tranh nhau xem:
Thập
Thủ Hoài Cổ Thi
1. Xích
Bích hoài cổ
Xích Bích trần mai thuỷ
bất lưu,
Đồ lưu danh tính tài
không chu.
Huyên điền nhất cự bi
phong lãnh,
Vô hạn anh hồn tại nội
du.
Xích Bích sông kia nước
chẳng trôi,
Truyền trơ tên họ chở đi
thôi.
Ầm ầm gió thảm theo làn
khói,
Biết mấy hồn thiêng quẩn đấy rồi.
2. Giao
Chỉ hoài cổ
Đồng chú kim dung chấn kỷ
cương,
Thanh truyền hải ngoại
bá nhung khương.
Mã Viện tự thị công lao
đại,
Thiết địch vô phiền thuyết
Tử Phòng.
Cột đồng đứng vững với
thành vàng,
Tiếng rộn ngoài xa khắp
bốn phương.
Mã Viện từ đây công rất
lớn.
Cần chi nhờ đến sáo Trương Lương?
3. Chung
Sơn hoài cổ
Danh lợi hà tằng bạn nhữ
thân,
Vô đoan bị chiếu xuất
phàm trần.
Khiên liên đại để nan
hưu tuyệt,
Mạc oán tha nhân trào tiếu
tần.
Lợi danh ai nỡ buộc vào
thân?
Bỗng chốc lôi nhau xuống
cõi trần.
Dùng dẳng suốt đời không
dứt được,
Cho người chế giễu lại
băn khoăn.
4. Hoài
Âm hoài cổ
Tráng sĩ tu phòng ác
khuyển khi,
Tam Tề vị định cái quan
thì.
Ký ngôn thế tục hưu
khinh bỉ,
Nhất phạn chi ân tử dã
tri.
Tráng sĩ nên ngừa chó cắn
càn,
Vua Tề là lúc sắp vào
quan.
Bảo cho đời tục đừng
khinh vội,
Một bữa cơm khi chết vẫn
ơn.
5. Quảng
Lăng hoài cổ
Thiền táo nha tê chuyển
nhãn quá,
Tuỳ đê phong cảnh cận
như hà?
Chỉ duyên chiêm đắc
phong lưu hiệu,
Nhạ đắc phân phân khẩu
thiệt đa.
Ve kêu quạ đậu chóng làm
sao,
Giờ cảnh đê Tùy cảnh thế
nào?
Vì nỗi xa hoa xưa chiếm
hệt,
Cho đời mai mỉa miệng
nhao nhao.
6. Đào
Diệp độ hoài cổ
Suy thảo nhàn hoa ánh
thiển trì,
Đào chi đào diệp tổng
phân ly.
Lục triều lương đống đa
như hứa,
Tiểu chiếu không huyền
bích thượng đề.
Hoa tàn cỏ héo đợi trên
ao,
Rời rã cành đào với lá
đào.
Người cũ Lục triều giờ vắng
cả,
Ảnh đề chỉ thấy vách
treo cao.
7. Thanh
Trửng hoài cổ
Hắc thuỷ mang mang yết bất
lưu,
Băng huyền bát tận khúc
trung sầu.
Hán gia chế độ thành
kham thán,
Xư lịch ưng tàm vạn cổ
tu.
Sông hắc mênh mông khéo
nghẹn dòng,
Khúc đầu gạn hệt nỗi đau
lòng;
Ngán cho chế độ vua nhà
Hán,
Cậy gạo muôn năm đáng thẹn
thùng.
8. Mã
Ngôi hoài cổ
Tịch mịch chỉ ngân tý hãn
quang,
Ôn nhu nhất đán phó đông
dương.
Chỉ nhân di đắc phong
lưu tại,
Thử nhật y câm thượng hữu
hương.
Phấn son lặng lẽ đẫm mồ
hôi,
Thoắt giã thân kia xuống
bể khơi.
Vì dấu phong lưu còn sót
lại.
Áo quần khe ấy vẫn thơm hoài.
9. Bồ
Đông tự hoài cổ
Tiểu hồng cốt tiện tối
thân khinh,
Tư dịch thâu huề cường
toát thành.
Tuy bị phu nhân thì điếu
khởi,
Dĩ kinh câu dẫn bỉ đồng
hành.
Tiểu hồng hèn hạ phận
tôi đòi,
Lẻn lút đưa đi ghép lứa
đôi;
Thôi mẫu dù tra ra việc ấy,
Ả kia đã bị rủ đi rồi.
10. Mai
Hoa quán hoài cổ
Bất tại mai biên tại liễu
biên,
Cá trung thùy thập họa
thiền quyên.
Đoàn viên mạc ức xuân
hương đáo,
Nhất biệt tây phong hựu
nhất niên.
Nếu không bên liễu cũng
bên mai,
Ai vẽ thuyền quyên vẽ
cũng tài.
Sum họp Xuân Hương đừng
nghĩ vội,
Gió tây lại vắng một năm
trời.
Mọi
người xem xong đều khen hay. Bảo Thoa nói:
Sự
tích tám bài đều có chép ở trong sử, còn hai bài cuối không có sách nào chép,
chúng tôi không hiểu rõ, chi bằng làm lại hai bài khác thì hơn.
Đại
Ngọc vội ngăn lại:
Chị
Bảo thật là “gắn phím gẩy đàn”, câu nệ vẽ vời quá. Dù trong sử sách không chép,
các truyện ngoài cũng không nói đến, nên không biết đầu đuôi ra sao, nhưng
chúng ta chẳng đã xem thấy ở hai vở hát là gì? Đến đứa trẻ lên ba cũng còn biết
nữa là. Thám Xuân nói:
Chị
nói phải đấy. Lý Hoàn lại nói:
Vả
chăng sách không chép thật, nhưng chính cô ấy đã đi đến các nơi đó. Xưa nay thường
hay đồn nhảm nghe nhảm, những kẻ muốn bới việc thường cố ý bày ra chuyện cổ
tích để lừa dối người đời. Ví như năm trước tôi vào kinh, thấy ba, bốn chỗ là mộ
Quan Công. Sự nghiệp Quan Công trong sử đều chép rõ, nhưng sao lại có nhiều mộ
thế? Chắc là người đời sau kính mến nhân phẩm Quan Công khi còn sống, rồi từ chỗ
kính mến ấy họ bày đặt ra đấy thôi. Khi xem đến bộ Quảng dư ký, không chỉ riêng
Quan Công, cả những người có danh tiếng xưa nay cũng có nhiều mộ. Trong nhiều cổ
tích không tra cứu vào đâu được. Hai bài thơ này tuy không có căn cứ thực,
nhưng nghe người kể chuyện, hát tuồng, hay xem thẻ, cũng đều nói đến. Những câu
tục ngữ trước cửa miệng, bất kỳ trẻ, già, trai, gái ai ai mà chả biết, chả nói
được? Vả chăng, nó có phải sách nhảm như những vở kịch Mẫu Đơn Đình, Tây Sương
Ký đâu mà sợ? Vì vậy cứ nên để lại hai bài thơ ấy cũng không sao.
Bảo
Thoa nghe nói mới thôi. Mọi người đoán một lúc, đều không đúng cả.
Mùa
đông ngày ngắn, đã đến bữa cơm chiều, mọi người đều đi ăn cả. Có người trình
Vương phu nhân:
Anh
Tập Nhân là Hoa Tự Phương đứng ở ngoài trình mẹ hắn ốm nặng, nhớ con gái lắm.
Vì vậy hắn đến xin cho em gái về thăm nhà.
Vương
phu nhân nói:
Đó
là tình mẹ con, lẽ nào ta lại không cho nó về!
Rồi
sai người đến bảo Phượng Thư thu xếp cho Tập Nhân. Phượng Thư vâng lời, về nhà
sai vợ Chu Thụy đến dặn:
Chị
cùng một người đàn bà và hai đứa a hoàn nhỏ đi theo Tập Nhân về. Chị cắt bốn
người có tuổi đi theo xe. Các chị ngồi xe lớn, còn bọn a hoàn ngồi xe nhỏ.
Vợ
Chu Thụy sắp đi, Phượng Thư lại bảo:
Tập
Nhân xưa nay vẫn quen lối giản dị, chị nói rằng tôi bảo chị ấy phải mặc bộ quần
áo lịch sự, mang theo một bọc quần áo to và đẹp, lồng ấp cũng phải đem cái đẹp.
Khi sắp đi, chị bảo chị ta phải đến đây cho tôi xem.
Vợ
Chu Thụy vâng lời đi.
"lại dặn Tập Nhân:
Bà nhà chị khỏe thì thôi, nếu có mệnh hệ nào, chị cứ ở lại cho người về bảo tôi, tôi sẽ sai người mang chăn màn đến cho. Chị đừng nên dùng chăn màn và gương lược của ai."
Một lúc ăn mặc xong, Tập Nhân đến, hai a hoàn cùng vợ Chu Thụy mang lồng ấp và bọc quần áo theo sau. Phượng Thư thấy trên đầu Tập Nhân cài mấy cành thoa vàng giắt hạt châu, rất là lộng lẫy; mặc cái áo da chuột bạch thêu hoa đào, quần bông màu thông lục thêu kim tuyến, ngoài khoác áo da chuột đen trong lót đoạn xanh. Phượng Thư cười nói:
Ba
bộ quần áo này đều là của u cho chị, còn đẹp lắm; nhưng áo khoác thì xoàng quá,
bây giờ lạnh chị nên mặc thêm một cái áo lông nữa.
Tập
Nhân cười nói:
Bà
Hai vừa cho tôi cái áo da chuột đen, lại còn một cái áo da chuột bạch nữa, người
bảo cuối năm sẽ thêm cái áo lông.
Phượng
Thư cười nói:
Tôi
cũng có một cái áo lông, nhưng vì lông đã thò ra ngoài, không được đẹp, tôi
đương định thay, nay tôi hãy để cho chị mặc. Đến cuối năm bà cho chị cái khác,
tôi sẽ đổi. Như thế cũng coi như chị đã giả tôi rồi.
Mọi
người đều cười nói:
Mợ
thì cứ quen nói thế. Ngày thường mợ hay rộng rãi, không biết đã phải bù đắp ngấm
ngầm cho bà bao nhiêu rồi. Những khoản bù không đâu ấy còn tính toán với bà sao
được. Bây giờ mợ lại đem những chuyện bủn xỉn nói ra để làm trò cười.
Phượng
Thư nói:
Khi
nào bà nghĩ đến chuyện ấy. Thật ra nó cũng chả phải là việc chính. Nhưng nếu
tôi không trông nom vào đấy, thì còn ra thể diện nhà đại gia sao được. Thà mình
tôi chịu thiệt, để mọi người ăn mặc tử tế, miễn sao tôi cũng được tiếng tốt, chứ
các chị ăn mặc xấu xí như con ma ấy, thì người ta cười tôi trước, bảo tôi cai
quản trong nhà lại để các chị như ăn mày cả một lũ.
Mọi
người đều than thở:
Có
ai sáng suốt được như mợ! Trên được lòng bà, dưới biết thương yêu người hầu.
Phượng Thư sai Bình Nhi mang cái áo màu thạch thanh thêu tám chùm hoa mặc ngày
hôm trước ra, đưa cho Tập Nhân. Lại trông thấy cái bọc áo nhỏ màu xam xám lót lụa
đỏ, trong bọc chỉ có hai cái áo da bọc lông đã mặc dở chừng và cái áo khoác bằng
da. Phượng Thư lại sai Bình Nhi đưa ra một cái bọc lụa màu trắng bọc thêm cái
áo đi tuyết. Bình Nhi lấy ra một cái áo da vượn cũ màu đỏ, một cái nữa dệt bằng
lông chim màu đỏ hơi rung rúc. Tập Nhân nói:
Một
cái còn không mang nổi nữa là. Bình Nhi cười nói:
Chị
lấy cái áo da vượn này. Nhân tiện tôi lấy cái áo kia ra bảo người đưa cho cô
Hình Tụ Yên. Hôm qua tuyết xuống nhiều, người ta ai cũng mặc áo da vượn, hoặc
áo lông, hàng mười bộ quần áo, màu đỏ rọi xuống tuyết trắng, trông rất lịch sự!
Chỉ có cô ta là mặc mấy cái quần áo cũ, xo vai rụt cổ, trông thực đáng thương!
Giờ tôi mang cái áo này cho cô ấy.
Phượng
Thư cười nói:
Của
tôi mà chị tự tiện mang cho người ta. Một mình tôi phung phí chưa đủ, lại còn
thêm chị nhắc đi nữa, càng tốt.
Mọi
người cười nói:
Đó
cũng là vì ngày thường mợ có bụng hiếu kính bà, thương yêu kẻ dưới; nếu mợ là
người bủn xỉn, cái gì cũng cóp nhặt cho mình, không nghĩ đến kẻ dưới, thì cô ấy
đâu dám như thế?
Phượng
Thư cười nói:
Cho
nên có nó là biết lòng tôi ít nhiều thôi. Nói xong, lại dặn Tập Nhân:
Bà
nhà chị khỏe thì thôi, nếu có mệnh hệ nào, chị cứ ở lại cho người về bảo tôi,
tôi sẽ sai người mang chăn màn đến cho. Chị đừng nên dùng chăn màn và gương lược
của ai.
Lại
dặn vợ Chu Thụy:
Chắc
các chị đã biết khuôn phép nhà này rồi, tôi không phải dặn nhiều nữa. Vợ Chu Thụy
nói:
Biết
rồi ạ. Chúng tôi đến đấy, sẽ bảo người nhà họ phải tránh. Nếu cần ở lại, sẽ ở riêng
một, hai gian buồng trong.
Nói
xong, cùng Tập Nhân đi ra, lại dặn dò đám hầu nhỏ sắp sẵn đèn lồng, rồi lên xe
đến nhà Hoa Tự Phương.
Phượng
Thư lại gọi hai bà già ở viện Di Hồng đến bảo:
Tập
Nhân chưa về ngay được đâu. Ngày thường các người biết a hoàn lớn nào thạo việc
thì sai đến trực đêm nhà chú Bảo. Các người phải trông nom cẩn thận, không được
để chú ấy làm càn.
Hai
bà già vâng lời đi ra, một lúc về trình:
Đã
cắt Tình Văn và Xạ Nguyệt ở trong nhà rồi, bốn người chúng tôi sẽ thay phiên
nhau trực đêm.
Phượng
Thư gật đầu, lại bảo:
Tối
đến bảo chú ấy phải đi ngủ sớm, sáng ra phải dậy sớm. Bọn bà già vâng lời rồi về
trong vườn.
Một
lúc, vợ Chu Thụy về báo tin cho Phượng Thư biết:
Mẹ
Tập Nhân đã chết rồi, Tập Nhân không thể về được.
Phượng
Thư đến trình Vương phu nhân, rồi sai người đến vườn Đại Quan lấy chăn nệm và hộp
trang điểm của Tập Nhân. Bảo Ngọc trông cho Tình Văn, Xạ Nguyệt sửa soạn đâu
vào đấy. Sau khi đưa người mang đi rồi, Tình Văn, Xạ Nguyệt cởi đồ trang sức và
đi thay quần áo. Sau đó Tình Văn cứ ngồi sưởi ở cạnh lò. Xạ Nguyệt cười nói:
Hôm
nay chị đừng giở lối tiểu thư ra nữa, hãy mó tay vào việc một tí.
Bao
giờ các chị đi hết, tôi sẽ làm cũng chưa muộn. Có các chị ở đây ngày nào, tôi
hãy chơi cho thỏa ngày ấy đi.
Chị
ơi, tôi đi trải giường đây, chị cao hơn tôi hãy bấm cái bấm ở trên đầu giá
gương, để buông cái phủ gương xuống.
Nói
xong, liền đi trải giường cho Bảo Ngọc. Tình Văn “hừ” một tiếng, cười nói:
Người
ta vừa mới ngồi ấm được một tí, chị lại đến quấy rầy!
Bấy
giờ Bảo Ngọc đang ngồi buồn, nghĩ mẹ Tập Nhân không biết sống chết ra sao. Thấy
Tình Văn nói thế, liền đứng ngay dậy, bấm cái nút cho vải phủ gương buông xuống,
rồi đi đến cười nói:
Tôi
đã làm xong cả rồi, các chị cứ ngồi đấy cho ấm. Tình Văn cười nói:
Ngồi
ấm mãi thế nào được. Tôi vừa nghĩ ra, còn chưa mang lồng ấp vào đây. Xạ Nguyệt
nói:
Khen
cho chị lại nghĩ đến điều đó. Ngày thường cậu ấy có dùng lồng ấp đâu, vì đã có
lò sưởi, không lạnh như ở trong nhà trong, nên hôm nay không cần.
Bảo
Ngọc cười nói:
Đêm
nay hai chị ngủ ở đằng này cả, bên ngoài chỗ tôi nằm không có người, tôi sợ lắm
không ngủ được.
Tình
Văn nói:
Tôi
ngủ ở đây, cậu bảo chị Xạ Nguyệt ra bên ngoài mà ngủ.
Khi
nói chuyện thì đã hết canh hai, Xạ Nguyệt đã buông rèm màn xuống, cất đèn, thắp
hương, sắp sửa cho Bảo Ngọc đi nằm, rồi hai người mới đi ngủ. Tình Văn ngủ ngay
cạnh lò sưởi, Xạ Nguyệt ra ngủ ở ngoài noãn các.
Đến
canh ba, Bảo Ngọc nằm mê, gọi Tập Nhân hai tiếng liền, không ai trả lời. Tỉnh dậy,
biết là Tập Nhân không ở nhà.
Bảo
Ngọc bật cười.
Tình
Văn cũng tỉnh dậy gọi Xạ Nguyệt:
Ngay
cả tôi cũng đã tỉnh dậy. Thế mà nó nằm ngay ở bên cạnh đó lại không biết một tý
gì, thật là cái thây chết!
Xạ
Nguyệt giở mình ngáp dài, cười nói:
Cậu
gọi Tập Nhân, việc gì đến tôi. Liền hỏi:
Cậu
cần gì?
Tôi
muốn uống nước.
Xạ
Nguyệt dậy, chỉ mặc một cái áo bông lụa hồng. Bảo Ngọc nói:
Khoác
áo da của tôi mà đi, cẩn thận kẻo lạnh đấy.
Xạ
Nguyệt nghe nói, quay lại khoác cái áo bằng da con rái cá lót bông của Bảo Ngọc,
đi xuống rửa tay, rót một chén nước nóng, lấy ống nhổ cho Bảo Ngọc súc miệng,
sau mới lấy chén ở tủ chè xuống, tráng qua nước sôi, rót nửa chén trà đưa cho Bảo
Ngọc uống. Xạ Nguyệt cũng súc miệng, uống nửa chén nước. Tình Văn cười nói:
Em
ơi, cho chị một chén!
Càng
ngày chị càng lên mặt!
Em
ơi, tối mai em đừng làm gì, để chị hầu em cả đêm, có được không?
Xạ
Nguyệt đành phải lấy nước súc miệng và rót nửa chén nước trà cho Tình Văn uống.
Xạ Nguyệt cười nói:
Cậu
và chị Tình Văn đừng ngủ vội, hãy nói chuyện đi, tôi đi ra ngoài một lúc rồi về.
Tình
Văn cười nói:
Ngoài
ấy có ma đang đợi em đấy. Bảo Ngọc nói:
Ngoài
ấy trăng sáng lắm. Chúng tôi nói chuyện, chị cứ việc đi. Vừa nói vừa ho mấy tiếng.
Xạ
Nguyệt mở cửa đi ra đằng sau, vén màn nhung lên xem, thấy trăng sáng thực. Xạ
Nguyệt đi ra, Tình Văn định chạy theo dọa đùa chơi. Tình Văn cậy mình xưa nay
khỏe hơn mọi người, không sợ rét, chỉ mặc một cái áo lót, không mặc áo ngoài,
rón rén bước khỏi lò sưởi. Bảo Ngọc ngăn lại:
Thôi
đi, trời rét đấy, không phải chuyện đùa đâu!
Tình
Văn xua tay đi theo ra cửa, thấy trăng sáng lung linh. Bỗng có một cơn gió nhẹ,
lạnh buốt đến xương, rởn cả gai ốc trong bụng nghĩ: “Chẳng trách người ta nói
mình đương nóng không nên ra gió. Cơn gió này ghê thật!” Đương định dọa Xạ Nguyệt,
thấy Bảo Ngọc ở trong gọi to:
Chị
Tình Văn ra đấy!
Tình
Văn vội quay về cười nói:
Nào
đã dọa chết nó đâu? Cậu lại có vẻ lo lắng thắc thỏm như đàn bà ấy. Bảo Ngọc cười
nói:
Không
phải tôi sợ bị dọa chết chị ta đâu, một là chị bị lạnh không nên, hai là chị ta
bất thình lình kêu lên, làm người khác giật mình tỉnh dậy, họ có biết là mình
đùa đâu, lại cho là Tập Nhân mới đi vắng một đêm đã thấy ma thấy mãnh rồi. Chị
đi lại kéo cái chăn lên cho tôi một tý.
Tình
Văn chạy lại kéo chăn, rồi ủ ngay tay vào đó. Bảo Ngọc cười nói:
Tay
chị lạnh quá! Tôi đã bảo chị khéo bị rét mà!
Lại
thấy hai má Tình Văn đỏ ửng lên, đặt tay vào, thấy lạnh giá. Bảo Ngọc nói:
Mau
mau vào chăn đây mà ủ đi.
Nói
chưa dứt lời, thấy tiếng cửa kêu cạch một cái, Xạ Nguyệt hớt hải chạy vào cười
nói:
Tôi
sợ đến rùng mình! Trông thấy cái gì như người chồm chỗm trong bóng tối ở đằng
sau núi ấy. Tôi định kêu, té ra con gà rừng to. Trông thấy người nó mới bay ra
chỗ sáng. Nếu kêu bừa lên, lại làm ầm ĩ cả nhà.
Vừa
nói vừa đi rửa tay, lại cười nói:
Cậu
bảo Tình Văn ra đấy, sao tôi không trông thấy nó. Chắc nó lại định ra dọa tôi
chứ gì?
Bảo
Ngọc cười nói:
Chả
phải chị ấy đương ủ ở trong chăn đấy à? Nếu tôi không gọi mau, thế nào chị cũng
bị giật mình.
Tình
Văn cười nói:
Tôi
không cần phải dọa, con ranh ấy đã sợ run lên rồi. Vừa nói vừa chui vào trong
chăn, Xạ Nguyệt nói:
Chị
cứ ăn mặc cụt lủn đi ra ngoài phải không? Bảo Ngọc cười nói:
Ăn
mặc như thế mà cũng đi ra ngoài đấy! Xạ Nguyệt nói:
Chị
thì chết cũng chả cần phải chọn ngày. Hãy ra đây đứng một lúc xem lại không rét
xé da ra à?
Nói
xong mở nắp lò sưởi ra, cầm cái gạt than vùi than hồng xuống, bỏ thêm hai viên
nữa, đậy nắp lại, rồi đến sau bình phong khêu đèn lên, xong mới đi ngủ.
Tình
Văn lúc nãy bị lạnh, bây giờ ấm lên, hắt hơi mấy tiếng. Bảo Ngọc thở dài:
Thế
nào? Lại bị cảm rồi đấy. Xạ Nguyệt cười nói:
Sớm
dậy chị ta đã kêu khó chịu, cả ngày không muốn ăn cơm, bây giờ lại không biết
giữ mình, còn định chòng ghẹo người ta. Ngày mai mà ốm thực là thân làm tội
thân!
Bảo
Ngọc hỏi:
Đầu
có nóng không? Tình Văn ho hai tiếng, nói:
Không
can gì, đâu đã yếu ớt đến thế.
Bỗng
đồng hồ nhà ngoài keng keng hai tiếng, bà già canh đêm ho, rồi nói:
Các
cô đi ngủ, mai hãy cười đùa. Bảo Ngọc khẽ cười, nói:
Chúng
ta đừng nói chuyện nữa, kẻo họ lại nói cho đấy.
Hôm
sau trở dậy, quả nhiên Tình Văn thấy mũi tắc, tiếng nặng, chân tay rời rạc. Bảo
Ngọc nói:
Đừng
ai nói ầm lên đấy! Lỡ bà biết, lại bắt về nhà nghỉ. Ở nhà vẫn tốt, nhưng sợ lạnh,
không bằng ở đây. Chị cứ vào nằm trong nhà, tôi sẽ cho người đi mời thầy thuốc
lẻn vào cửa sau xem bệnh cho.
Tình
Văn nói:
Dù
thế mặc lòng, cậu cũng nên nói cho mợ Cả biết. Nếu không chốc nữa thầy thuốc đến,
mợ ấy hỏi sẽ nói thế nào?
Bảo
Ngọc nghe nói có lý, liền gọi một bà già bảo:
Bà
đi trình với mợ Cả là chị Tình Văn chỉ bị cảm lạnh qua loa, không nặng đâu. Chị
Tập Nhân đi vắng, nếu chị ấy về nhà nghỉ, ở đây không còn ai trông nom. Tôi sẽ
cho mời một thầy thuốc đi luồn cửa sau vào xem bệnh cho chị ấy, đừng nên để bà
Hai biết. Bà già đi một lúc về nói:
Mợ
Cả dặn là cho uống hai thang thuốc, khỏi thì chớ, nếu không, nên cho chị ấy về
nhà nghỉ. Thời tiết bây giờ không tốt, lây sang người khác không sao, chứ lây
sang các cô thì rầy rà lắm.
Tình
Văn nằm ở trong noãn các đương ho, nghe thấy thế, tức kêu rầm lên:
Tôi
có bị bệnh dịch đâu mà sợ lây đến người khác? Tôi thử đi ra khỏi chỗ này, xem
các người suốt đời có nhức đầu chóng mặt hay không?
Rồi
định trở dậy, Bảo Ngọc vội ngăn lại cười nói:
Đừng
nóng thế, đó là mợ ấy sợ bà biết sẽ bị mắng, nên dặn qua đấy thôi. Chị xưa nay
tính hay gắt, chắc bị bốc hỏa lên rồi.
Ngay
lúc ấy có người vào trình “Thầy thuốc đã đến”. Bảo Ngọc đứng dậy nép vào đằng
sau tủ sách. Mấy bà già ở cửa sau, đưa thầy thuốc vào. A hoàn ở trong nhà đều lẩn
đi hết, mấy bà già buông màn thêu màu hồng ở noãn các xuống. Tình Văn nằm ở
trong màn thò tay ra. Thầy thuốc trông thấy tay có để hai móng dài độ hai, ba tấc,
nhuộm màu hoa kim phượng, liền quay đầu đi. Bà già vội mang một mảnh lụa che
lên tay. Thầy thuốc bắt mạch một lúc rồi ra nhà ngoài bảo bọn bà già:
Bệnh
của tiểu thư là ngoại cảm nội trệ. Mấy hôm nay thời tiết không tốt, chắc là bị
cảm hàn xoàng thôi. May tiểu thư ngày thường ăn uống điều độ, bệnh không đến nỗi
nặng lắm, chẳng qua vì khí huyết yếu sẵn, nên cho uống vài thang sơ tán là khỏi.
Bấy
giờ Lý Hoàn đã sai người bảo a hoàn ở cổng sau và các nơi tránh đi, nên thầy
thuốc thấy trong vườn không có một người con gái nào. Một chốc ra cửa vườn, vào
ngồi ở buồng canh của bọn hầu nhỏ để kê đơn. Bà già nói:
Thầy
đừng đi vội, cậu Hai tôi tính hay lôi thôi, sợ còn muốn hỏi gì chăng. Thầy thuốc
vội hỏi:
Vừa
rồi không phải là cô, mà là cậu à? Nhà ấy là buồng thêu, buông màn xuống để xem
mạch, sao lại bảo là cậu. Bà già cười nói:
Thầy
ơi! Thảo nào đứa bé vừa nói: Hôm nay mời một thầy thuốc mới đến xem mạch, nên
người không biết trong nhà chúng tôi! Nhà ấy là nhà của cậu tôi, còn người bị bệnh
là a hoàn trong nhà, lại là “Đại Thư” kia đấy, có phải là buồng thêu của tiểu
thư nào đâu? Nếu tiểu thư ốm, thày đâu lại được vào dễ dàng như thế?
Nói
xong cầm đơn thuốc đi.
Bảo
Ngọc xem đơn, thấy có kê các vị tử tô, cát cánh, phòng phong, kinh giới; sau lại
kê chỉ thực, ma hoàng. Bảo Ngọc liền nói:
Chết
thật! Hắn chữa bệnh cho con gái như là chữa cho con trai vậy, dùng thế nào được?
Chị ấy có uất trệ chăng nữa, cũng không được dùng chỉ thực, ma hoàng. Ai mời hắn
thế? Tống cổ ngay nó đi! Mời một thầy thuốc quen đến đây.
Bà
già nói:
Tôi
không biết thuốc thày này có hay gì không. Bây giờ sai đứa hầu nhỏ đi mời thầy
thuốc họ Vương đến cũng được. Nhưng còn thày này, thế nào cũng phải giả tiền xe
cho họ, vì khi mời không nói cho phòng tổng quản biết.
Giả
cho nó bao nhiêu?
Giả
ít không tiện, xoàng ra cũng phải một lạng mới đúng lẽ của nhà ta.
Trả
thầy thuốc họ Vương bao nhiêu?
Thầy
thuốc họ Vương và thầy thuốc họ Trượng, mỗi khi đến xem bệnh, không phải trả tiền
vặt, chẳng qua một năm bốn mùa, đưa lễ một lần thôi, đó là lệ nhất định hàng
năm, còn thày này mới đến, nên trả cho họ một lạng.
Bảo
Ngọc liền sai Xạ Nguyệt đi lấy tiền. Xạ Nguyệt nói:
Không
biết chị Hoa cất ở đâu.
Tôi
vẫn thấy chị ấy lấy tiền ở cái hòm khảm xà cừ nhỏ, tôi và chị đi tìm xem.
Hai
người vào buồng để đồ đạc của Tập Nhân, mở hòm khảm ra, thấy ngăn trên để bút mực,
quạt, bánh hương túi và khăn mặt; ngăn dưới để mấy chuỗi tiền. Mở ngăn kéo ra,
thấy trong hộp nhỏ có mấy cục bạc và một cái cân tiểu ly. Xạ Nguyệt lấy một cục
bạc và cái cân, hỏi Bảo Ngọc:
Cái
hoa một lạng ở chỗ nào?
Chị
hỏi tôi hay thật, cứ làm như là người mới đến ấy.
Xạ
Nguyệt cũng cười, rồi định đi hỏi người khác. Bảo Ngọc nói:
Chọn
cục nào to nhất trả cho hắn. Đây không phải là buôn bán, tính toán làm gì! Xạ
Nguyệt nghe nói, bỏ cân xuống, chọn một cục, nhấc đi nhấc lại, cười nói:
Có
nhẽ cục này một lạng đây. Thà cho hơn một tí, kẻo thầy kiết ấy không cười chúng
ta không biết cân, lại cho là chúng ta bủn xỉn.
Bà
già đứng ở cửa cười nói:
Đó
là một thỏi năm lạng, đã cắt đi một nửa rồi, cục này ít nhất cũng phải hai lạng
đấy! Giờ không có dao chặt, cô hãy cất nó đi, chọn một cục nào nhỏ hơn. Xạ Nguyệt
đã khóa hòm, đi ra cười nói:
Ai
còn tìm được nữa, nhiều ít bà cũng cứ mang đi cho xong! Bảo Ngọc nói:
Bảo
Dính Yên đi mời thầy thuốc khác đến.
"Xạ Nguyệt lấy một cục bạc và cái cân, hỏi Bảo Ngọc:
Cái hoa một lạng ở chỗ nào?"
Bà
già cầm lấy cục bạc đi ra. Một lúc Dính Yên mời thầy thuốc họ Vương đến, ông ta
trước xem mạch, sau gọi bệnh, khác hẳn thầy thuốc lúc nãy.
Trong
đơn quả nhiên không có những vị chỉ thực, ma hoàng, lại kê những vị đương quy,
trần bì, bạch thước, đồng cân đồng lạng cũng bớt hơn đơn trước. Bảo Ngọc vui mừng
nói:
Đây
mới là thuốc cho con gái uống. Tuy có sơ tán, nhưng không mạnh quá. Năm ngoái
tôi cũng bị cảm hàn, ăn uống không tiêu, ông ta xem mạch xong, bảo tôi không
nên dùng những vị thuốc hùm thuốc beo như ma hoàng, thạch cao, chỉ thực. Tôi và
các chị cũng như hoa hải đường trắng mới nở mà mùa thu vừa rồi cháu Vân đem đến
biếu ấy. Tôi còn không dùng, thì các chị dùng thế nào được? Cũng như những cây
dương lớn, người ta trồng ở trên mả, cành lá xanh tốt thực, nhưng ruột thì rỗng.
Xạ
Nguyệt cười nói:
Mồ
mả ngoài đồng không lẽ chỉ có cây dương, mà không có cây tùng cây bách à? Người
ta ghét nhất là cây dương, cây to như thế lại chỉ có một tí lá. Không có một tí
gió nào, nó cũng cứ rào rào luôn. Thế mà cậu cứ so sánh với cây dương, thực là
hèn quá!
Bảo
Ngọc cười nói:
Tôi
không dám ví với tùng bách. Ngay Khổng Tử cũng còn nói “năm rét mới biết tùng
bách héo sau”46. Tùng bách là hai thứ cây cao nhã, người không biết
xấu hổ mới đem nó ra ví bậy thôi.
Nói
xong, thấy bà già mang thuốc về, Bảo Ngọc sai lấy cái ấm bạc đến, sắc ngay ở lò
sưởi. Tình Văn nói:
Cứ
đưa cho phòng trà họ sắc! Chứ sắc ở đây mùi thuốc xông lên, chịu thế nào được.
Bảo Ngọc nói:
Mùi
thuốc còn thơm hơn các mùi hoa đấy! Ngay thần tiên còn hái thuốc, sắc thuốc, bậc
cao nhân dật sĩ cũng hái thuốc trị bệnh nữa là. Thuốc là một thứ rất quí! Tôi
nghĩ trong nhà này mùi thơm gì cũng có, chỉ còn thiếu mùi thuốc thôi, bây giờ
có đủ cả.
Bảo
Ngọc lại bảo Xạ Nguyệt sắp sửa các thứ, sai bà già đưa cho Tập Nhân, khuyên bảo
chị ta khóc ít chứ. Mọi việc xong xuôi, Bảo Ngọc mới sang bên Giả mẫu và Vương
phu nhân hỏi thăm rồi ăn cơm.
Phượng
Thư bàn với Giả mẫu và Vương phu nhân:
Ngày
vừa ngắn, vừa lạnh, từ nay trở đi, chị Cả cứ cho các cô ăn cơm ở trong vườn.
Khi nào trời ấm sẽ sang đây cũng được.
Vương
phu nhân cười nói:
Chị
bàn thế phải đấy. Khi có gió tuyết cũng tiện. Bụng vừa đói vừa lạnh, lại ăn thức
ăn vào, không tốt lắm đâu. Chi bằng lấy năm gian nhà ở phía sau cửa vườn và hai
người trong bọn đàn bà canh đêm ở bên ấy ra thổi nấu cho chị em họ ăn. Các thứ
rau tươi đã chia phần rồi, do phòng tổng quản chi ra, hoặc lấy tiền, hoặc lấy
món ăn. Còn các thứ dã vị như gà rừng, hươu, nai… cứ chia phần cho họ là được.
Giả
mẫu nói:
Ta
cũng muốn thế, nhưng sợ thêm bếp lại thêm việc. Phượng Thư nói:
Cũng
chẳng thêm việc gì đâu, bên này thêm thì bên kia bớt đi. Nếu sợ bận việc để các
cô ấy bị lạnh, người khác còn khá, chứ em Lâm thì chịu làm sao được? Ngay cả
chú Bảo cũng không thể chịu nổi. Vả chăng, tất cả các cô chẳng ai được mạnh.
Giả
mẫu nói:
Phải
đấy. Lần trước ta cũng định nói, nhưng vì thấy các người bận nhiều việc. Nay lại
thêm việc này ra, tuy các người không dám oán trách gì, nhưng sẽ cho ta chỉ biết
thương lũ cháu nhỏ, không nghĩ đến các người phải bận rộn việc nhà. Chị đã nói
thế thì làm ngay đi.
Lúc
ấy Tiết phu nhân và thím Lý đều ngồi ở đấy, Hình phu nhân và Vưu thị cũng đến hỏi
thăm chưa về. Giả mẫu bảo Vương phu nhân:
Câu
này ta để bụng từ lâu, nay mới nói ra: một là, ta sợ con Phượng lên mặt, hai là
sợ mọi người không phục. Bây giờ các người đều ở đây, cũng đã từng qua cảnh làm
dâu làm con cả, liệu có ai nghĩ được chu đáo như nó không?
Tiết
phu nhân, thím Lý và Vưu thị đều cười nói:
Thực
là hiếm có! Người khác chỉ nói khéo bề ngoài thôi, chứ thím ấy mới thực biết
thương đến các cô các chú, biết hiếu thuận với cụ.
Giả
mẫu gật đầu nói:
Tôi
tuy thương nó, nhưng lại sợ nó sắc sảo quá cũng không tốt đâu. Phượng Thư vội
cười nói:
Bà
nói nhầm rồi. Người ta thường nói: thông minh sắc sảo quá sợ không sống lâu.
Nói thế rồi tin là thế. Nhưng chỉ có bà là không nên nói thế và cũng không nên
tin thế. Bà thông minh sắc sảo gấp mười cháu, sao lại được phúc thọ song toàn
như thế? Có lẽ ngày sau cháu lại còn được hơn bà nữa kia. Cháu sẽ sống một
nghìn tuổi, chờ khi bà về chầu trời rồi cháu mới chết.
Giả
mẫu cười nói:
Mọi
người đều chết, chỉ trơ lại bà cháu ta là hai con yêu già, còn có gì là thú nữa!
Chú thích.
[←46]
Chữ
trong sách Luận ngữ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét