HƯ CẤU VÀ LỊCH SỬ
Trên đây, Phụ lục 2: Hư thực đôi điều, cho biết rằng ngoài tác phẩm của Ngô Thừa Ân, đời nhà Minh còn có bộ Tây du ký truyện của Dương Chí Hòa, gồm bốn mươi mốt hồi. Nhưng trước Dương Chí Hòa và Ngô Thừa Ân, câu chuyện tây du thỉnh kinh của sư Huyền Trang đời Đường đã từng được thần kỳ hóa, truyền khẩu trong dân gian, dựng thành tuồng hát...
Lỗ Tấn cho biết xưa đã có sách Đại Đường Tam tạng thủ kinh thi thoại với nhân vật Hầu Hành giả [Tề thiên]; tạp kịch đời Minh có Đường Tam tạng tây thiên thủ kinh, cũng gọi tên là Tây du ký, trong đó lại bỏ bớt nhân vật Tôn Ngộ không. Theo Lỗ Tấn, “ban đầu không có những chuyện kỳ lạ đặt bày, thế mà về sau các tiểu thuyết nói đến chuyện tinh quái khá nhiều. (...) Từ cuối Đường cho đến Tống, Nguyên cứ dần dần diễn thành chuyện thần dị...” [Lỗ Tấn 1996: 203].
Như thế, trong thực tế ở Trung Quốc từ xưa đã có
nhiều dị bản về truyện Tây du, tuy nhiên nhiều người vẫn thuộc với các
tình tiết trong bản Tây du ký diễn nghĩa của Ngô Thừa Ân, vì tác phẩm này được
phổ biến nhất. Khi đối chiếu tiểu thuyết (bộ Tây du ký mười tập [TDK I-X
1982-1988]) với lịch sử cho thấy nhiều điểm gần trùng hợp, rất thú vị. Cuộc đời
(thân thế) và sự nghiệp (cuộc thỉnh kinh) Đường tăng (Đường Tam tạng Pháp sư
Huyền Trang) trong Tây du ký của Ngô Thừa Ân hoàn toàn là hư cấu.
(2) Nguyễn Hiến Lê, Ý chí sắt đá (bài
“Huyền Trang và công cuộc thỉnh kinh vô tiền khoáng hậu của nhân
loại”). Sài Gòn: Nxb Thanh tân, 1971;
(3) Thích Minh Châu, Huyền Trang, nhà
chiêm bái và học giả. Trường Cao cấp Phật học Việt Nam xb, 1989;
(4) Võ Đình Cường, Đường Tam tạng thỉnh
kinh. Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam xb, 1992;
(5) Vương Hồng Sển, Thú xem truyện Tàu (bài “Con ngựa già của Thầy Đường Tam tạng”; và bài “Lược khảo về Tây du ký và Đại Đường Tây Vực ký”). Nxb Tp..., 1993.]
Như vậy, hồi này hoàn toàn mâu thuẫn với Hồi thứ
9: Hòa thượng Pháp Minh chùa Kim sơn nuôi dưỡng Giang Lưu từ khi mới sinh. Năm
18 tuổi Giang Lưu mới về Tràng An, trả được thù cha, rồi vào chùa Hồng phúc ở
kinh thành tu tiếp.
Năm 623 (28 tuổi), dù anh không chấp thuận cho
đi xa, ông cũng lén theo thuyền buôn xuôi dòng Trường Giang tới Kinh Châu
(thuộc tỉnh Hồ Bắc sau này), rồi chu du cầu học khắp các tỉnh phía bắc Trung
Quốc. Càng đi nhiều, học hỏi nhiều, lại càng hoang mang vì những kiến giải khác
nhau của các sư, các tông phái, ông muốn sang Ấn Độ khảo cứu đạo Phật tận gốc.
Năm 626 (31 tuổi), gặp một cao tăng Ấn Độ từ
chùa Na lan đà theo đường biển sang Trung Quốc, ông càng nung chí sang Ấn học
Phật. Nhưng khi ông dâng biểu xin qua Ấn, triều đình không cho phép.
Năm 629 (34 tuổi), ông lên đường đi về phương
tây (thừa cơ hội vua Đường Thái tông, vì mưa đá mất mùa, cho dân đói ở kinh
thành được tự do di tản mưu sinh).
Hành trình thỉnh kinh của ông gồm bốn giai đoạn
như sau:
(1) Từ thành Tràng An tới ải Ngọc Môn Quan, là
hết địa phận Trung Quốc, rồi đi vào sa mạc Gobi;
(2) Từ sa mạc Gobi đi qua các nước nhỏ ở Trung
Á, vượt dãy núi Hy mã lạp sơn tới biên giới Ấn Độ;
(3) Từ nước Ca Tất Thi, [Kapisa, thuộc lãnh thổ
Afghanistan sau này] chu du Ấn Độ, và tu học tại chùa Na lan đà (Narandha);
(4) Rời Ấn Độ về Trung Quốc, nhưng không theo
đường cũ.
B. Theo [TDK II 1982:
45], vâng lời Bồ tát Quan âm dạy, Đường tăng đi sang chùa Lôi âm, nước Thiên
Trúc, thỉnh kinh đại thừa về cầu siêu cho các âm hồn.
(Hai ông sư bán đồ nhi phế -- bỏ về nửa chừng --
trong sử đã được TDK hư cấu thành hai người hộ tống bị yêu tinh ăn thịt.)
[Phong hỏa đài: đài truyền tin bằng cách hun
khói (phong) lúc ban ngày hay đốt lửa (hỏa) lúc ban đêm để báo hiệu mỗi khi có
giặc tới xâm phạm biên cương. Đài kế đó trông thấy cũng báo tin như vậy cho ải
kế tiếp, cứ thế truyền tin lần lần cho tới ải Ngọc Môn Quan.]
Sau một ngày đường chừng trăm dặm, ông lạc lối
trong sa mạc Gobi, lại còn tuột tay làm đổ hết nước dự trữ. Ông quay ngựa trở
lại phong hỏa đài thứ tư lấy nước, đi chừng mười dặm bỗng hồi tâm nhớ lời phát
nguyện: “Nếu chưa đến được Tây Trúc thì dù chết cũng không quay trở lại
phương đông.” Thế là quành ngựa lại để tiếp tục đi về phương tây,
người và ngựa khát khô trên cát bỏng.
Sang ngày thứ năm, ông và ngựa ngã quỵ, mê man.
Đến nửa đêm, như có phép lạ, trận gió mát lạnh từ đâu thổi tới, con ngựa đứng
lên hý vang, ông chợt mở mắt ra, gượng leo lên lưng ngựa. Rán đi thêm vài dặm,
ông gặp bãi cỏ xanh mướt bên dòng suối trong veo, thế là người và ngựa thoát
nạn chết khô. Ông cho ngựa đi thêm hai ngày nữa, mới ra khỏi sa mạc Gobi; tổng
cộng đi hết tám ngày, vượt qua 800 dặm (khoảng 480 cây số).
Trước ngày rời nước Cao Xương, ông được vua cho
theo hộ tống gồm: bốn sa di, hai mươi lăm người lực lưỡng, một viên quan lớn
tháp tùng để mang thư giới thiệu ngự đệ với vua nước Đột Quyết (Turkistan?);
ngoài ra còn có hai mươi bốn lá thư khác gởi cho vua các nước ngự đệ sẽ đi
ngang qua để nhờ yểm trợ. Buổi lên đường, vua quan, dân chúng tiễn ông đến tận
cửa thành. Vua cầm tay ông, mắt đẫm lệ, bịn rịn mãi.
Ngày lên đường, ông được vua quan tiễn chân ra
tận cửa thành. Vua ban tặng ngự đệ một bình bát bằng vàng, một con ngựa trắng,
hai người hộ tống, ban hiệu là Tam tạng, và quan trọng nhất là cấp cho tờ điệp
văn thông hành để khi Đường tăng qua các nước lân cận hay chư hầu nhà Đường sẽ
được vua các nước ấy giúp đỡ.
Vậy, theo TDK, Đường tăng ra đi có đủ passport
công vụ kèm quốc thư để xin visa nhập cảnh các nước khác; còn theo sử thì Đường
tăng thuộc dạng vượt biên trái phép và bị truy nã. Vua Khúc Văn Thái trong sử
lại được hư cấu thành Đường Thái tông trong TDK.
(1) Dọc đường từ nước Cao Xương
sang nước A Kỳ Ni [Agni, thuộc khu tự trị Tân Cương ngày nay], bị một toán cướp
chận lại.
(2) Từ nước Na Yết La Bát (Nagarahara), trước
khi tới nước Kiền Đà La [Gandhara, thuộc Pakistan sau này], ông nhờ một ông lão
dẫn đi chiêm bái một hang động có Phật tích [có sách nói động này ở thành phố
Nhiên Đăng (Dipankara)], dọc đường bị năm tên cướp chận lại nhưng ông cảm hóa
được họ.
(Chuyện này gần giống Hồi thứ 14, Đường tăng ra
khỏi nhà cụ già họ Trần bị sáu tên cướp chận đường.)
(3) Tới nước Ca Thấp Di La [Kashmir, thuộc
Pakistan sau này], ông được nhà vua cho hai mươi người đi theo sang Ấn Độ để
giúp ghi chép. Trên đường đi về miền trung Ấn Độ, ông bị chừng năm mươi tên
cướp tấn công [có sách nói việc này xảy ra ở một khu rừng, sau khi ông rời
thành phố Na La Tăng Ha (Narasimba)].
(4) Trên đường về nước, từ nước Tăng Ha Bổ La
(Simhapura) trước lúc tới nước Đản Xoa Thỉ La (Takshasila), ông lại gặp một
toán cướp.
(1) Sau khi tá túc một đêm ở nhà cụ già họ Trần,
sáng sớm lên đường, ông bị sáu tên cướp chận lại [TDK II 1982: 79-81];
(2-3) Hai lần gặp cùng một bọn cướp hơn ba mươi
tên [TDK VI 1988: 126, 144];
(4) Mấy thầy trò ra khỏi nhà viên ngoại họ Khấu,
gặp bọn cướp chừng ba mươi tên [TDK X 1988: 133].
Bọn cưóp đặt ông lên bàn thờ, chuẩn bị nghi thức
hạ sát để tế sống nữ thần Durga. Ông biết mình sắp chết, vô phương kêu cứu.
Tuyệt vọng, ông khép hai mắt, tập trung tư tưởng, dốc tâm cầu nguyện chư phật.
Như có phép lạ, cuồng phong bỗng nổi lên dữ dội, quét đổ mọi thứ trên bàn thờ;
bọn cướp sợ hãi phải thả ông ra.
(Cũng giống TDK ở Hồi thứ 44: tranh tài với Quốc
sư nước Xa Trì.)
(Cũng giống TDK ở Hồi thứ 84: cạo đầu cho vua
quan nước Diệt Pháp quy y.)
(Một thầy tu Bà la môn viết bốn mươi điều biện
luận dán ở chùa Na lan đà, thách thức ai bác được, ông ta sẽ dâng cái đầu.
Đường tăng mời sư Giới Hiền làm chứng cuộc tranh biện. Ông thắng, nhưng tha
mạng kẻ thua.
(Cũng giống TDK ở Hồi thứ 44: tranh tài với Quốc
sư nước Xa Trì, ai thua bị chém đầu.)
(Bát Nhã Cúc Đa (Prajnagupta), đại sư phái tiểu
thừa, viết “Phá đại thừa luận” công kích giáo lý đại thừa. Đường tăng viết “Phá
ác kiến luận” trình sư Giới Hiền rồi công bố để bác lại Bát Nhã Cúc Đa.)
(1) Ở nước Xa Trì, thầy trò Đường tăng chống lại
ba anh em đạo sĩ yêu tinh đang đàn áp đạo Phật. Đó là yêu cọp (Quốc sư Hổ lực),
yêu nai (Lộc lực), yêu dê (Dương lực).
– Đường tăng đấu phép cầu mưa với Hổ lực, ai
thua bị chém đầu; cùng Hổ lực thi ngồi thiền; cùng Lộc lực thi đoán tên món đồ
dấu kín trong rương.
– Tề thiên đấu phép: cùng Hổ lực thi chém đầu
mọc lại đầu khác; cùng Lộc lực thi mổ bụng moi gan; cùng Dương lực thi tắm
trong vạc dầu sôi. [TDK V 1988: 116, 131, 134, 143, 146, 148]
(2) Đánh nhau với yêu đạo sĩ là quốc trượng nước
Tỳ Kheo. [TDK VIII 1988: 190]
(3) Vua nước Diệt Pháp có lời thề phải giết
10.000 nhà sư. Tề thiên hóa phép cạo đầu cả triều đình; hoàng gia và bá quan
quy y theo đạo Phật, đổi tên nước là Khâm Pháp. [TDK IX 1988: 74, 101]
(Tổ chức đón long trọng y như khi Đại sư Giới
Hiền tiếp Đường tăng. Nói khác đi, TDK mượn chùa Na lan đà hư cấu thành chùa
Lôi âm; còn Đại sư Giới Hiền thì hư cấu thành Phật tổ.)
Dọc đường (đầu năm 644), qua nước Đản Xoa Thỉ La
[Takshasila, nay là tỉnh Punjab, nước Pakistan], ông cỡi voi vượt sông Tín Độ
[Indus, dài khoảng 3.060 km là sông chánh của Pakistan, phát nguyên gần núi
Kailas ở Tây Tạng (Tibet) và đổ vào biển Ả Rập ở đông nam Karachi]. Những người
khác và hành lý đi thuyền. Thuyền ra giữa sông bỗng cuồng phong (theo [TDK X
1988: 186], khi thầy trò vớt kinh lên bờ thì ma quỷ nổi cuồng phong để cướp
kinh, Tề Thiên phải dùng hết oai thần mới giữ lại được) nổi lên làm lật chìm,
bị mất 50 bộ kinh. Sau này, qua nước Vu Điền [Khotan, thuộc khu tự trị Tân
Cương], được vua nước này lưu lại bảy tháng thuyết pháp, Đường tăng cho người
qua các nước khác tìm chép bổ sung số kinh bị mất.
Có sách nói lúc nghe tin thuyền chìm, vua nước
Ca Tất Thí (Kapisa) đến thăm, rước Đường tăng về kinh thành ở năm mươi ngày,
trong thời gian đó Đường tăng cho người qua nước Ô Trưởng Na (Udyana) chép lại
chỗ kinh trôi mất. Sau này khi về đến nước Kustana, lưu lại bảy ngày, ông cho
người đi tới nước Khuất Chi (Kucha) và Kashgar để bổ sung thêm chỗ kinh bị mất.
A. Theo sử, giữa năm
648, Đường tăng dịch xong chín bộ kinh, lấy tên là Tân phiên kinh
luận. Vua Đường Thái tông tuy già yếu, nhưng muốn kỷ niệm cuộc tây du
thỉnh kinh vô tiền khoáng hậu nên đích thân viết 781 chữ làm một bài tựa cho
bản dịch ấy, và nhan đề là Đại Đường Tam tạng thánh giáo. Viết
xong, vua cho một quan học sĩ đọc trước mặt các quan trong một buổi lâm triều.
B. Theo [TDK X 1988:
201-204], Đường tăng về đến kinh thành; Vua Đường Thái tông mãi nghĩ tới công
lao của người em kết nghĩa không gì đền đáp được, mất ngủ. Sáng hôm sau giữa
triều, vua ứng khẩu đọc cho quan trung thư chép bài Thái giáo tự tạ
ơn ngự đệ.
THEO SỬ |
|
THEO TDK |
– Đường tăng rời Tràng An năm 629. |
|
– Đường tăng rời Tràng
An năm 639. [TDK I 1982: 51] |
– Xa xứ 16-17 năm. |
|
– Xa xứ 14 năm. [TDK X
1988: 199] |
– Mất hai năm mới về tới Tràng An. |
|
– Cỡi mây bay về chưa
tới một ngày. [TDK X 1988: 193] |
– Tới Tràng An đầu xuân năm 645, lúc 50 tuổi. |
|
– Tới Tràng An năm 653, ngoài
30 tuổi. [TDK X 1988: 199] |
– Cả đi và về vượt qua 50.000 dặm đường bộ, chừng 30.000 km). Có sách
cho là 8.333 dặm Anh, khoảng 10.000 km. |
|
– Lúc đi vượt qua
108.000 dặm; khi về không tính đường bay (đằng vân). [TDK X 1988] |
– Thường nói đại khái là đã qua 128 hay 138 nước lớn nhỏ. (Mỗi nước lớn
khoảng một tỉnh của Trung Quốc hay một bang của Ấn Độ ngày nay. Chỉ riêng
[Thích Minh Châu 1989: 108-113] kể tên các nước đủ nhất.) |
|
– Không tổng kết đã qua
bao nhiêu nước, chỉ kể tên 8 nước. [TDK X 1988: 199] |
– Dùng 20 ngựa chở về nhiều tượng Phật, 150 hột xá lợi, 657 bộ kinh và
luận của nhiều phái đại thừa, đựng trong 520 hộp. |
|
– Chở về 35 bộ kinh,
5.048 quyển. [TDK X 1988: 176] |
– Về Trung Quốc dịch kinh 18 năm, được 75 bộ, gồm 1.335 quyển. (Nữ đạo
diễn Trung Quốc, Dương Khiết, làm phim TDK tập thứ 25, đã cho Đường tăng thỉnh
kinh chữ Hán, chắc bà nghĩ là chùa Lôi âm đã... dịch sẵn rồi!) |
|
– Về Trung Quốc khỏi
dịch kinh, thầy trò cùng thăng thiên. [TDK X 1988] |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét