Cổng đền Sĩ Nhiếp tại huyện Thuận Thành, Bắc Ninh.
QUYỂN 4 - LƯU DO THÁI SỬ TỪ SĨ NHIẾP TRUYỆN
Lưu Do, Thái Sử Từ, Sĩ Nhiếp
Ngô Thư Quyển 4 - SỸ TIẾP TRUYỆN
Sĩ Tiếp(1) tự là Uy Ngạn, người quận Thương Ngô huyện Quảng Tín. Tổ tiên Tiếp vốn là người huyện Vấn Dương nước Lỗ, đến loạn Vương Mãng, tránh nạn đến đất Giao Châu. Qua sáu đời đến cha Tiếp là Tứ, vào thời Hoàn Đế(2) làm Thái thú Nhật Nam. Tiếp lúc còn trẻ đi du học ở kinh sư, thờ người ở Dĩnh Xuyên là Lưu Tử Kỳ, hiệu đính sách Tả thị Xuân Thu. Được xét làm Hiếu liêm, bổ nhiệm chức Thượng thư lang, vì việc công bị bãi chức. Sau khi hết tang cha là Tứ, lại được đề cử làm Mậu tài, được phong chức Vu lệnh, rồi đổi làm Thái thú Giao Chỉ. Em Tiếp là Nhất, ban đầu làm Đốc bưu ở quận. Thứ sử Đinh Cung được vời về kinh đô, Nhất theo hầu rất cung kính, Cung cảm cái tình ấy, lúc sắp ly biệt nói: “Thứ sử nếu ở lại thì sẽ mắc ba tội, nên ta phải giúp vua vậy”. Về sau Cung làm Tư đồ, cho vời Nhất. Nhất sắp đến, thì Cung đã bị miễn chức, Hoàng Uyển lên thay làm Tư đồ, lấy hậu lễ đãi Nhất. Đổng Trác làm loạn, Nhất bỏ trốn về quê.
Ngô thư chép: Uyển và
Trác căm ghét nhau, nhưng Nhất tận tâm với Uyển, rất đáng khen ngợi. Trác ghét
Uyển, bèn truyền mệnh rằng: “Quan Tư đồ
Duyện là Nhất, không được đổi chức quan.” Cho nên hết năm không được thăng chức.
Đến khi Trác về quan ải, Nhất bèn trốn về.
Thứ sử Giao Châu là
Chu Phù bị giặc người Di giết hại, châu quận nhiễu loạn. Tiếp bèn dâng biểu cho
Nhất lĩnh chức Thái thú Hợp Phố, em thứ đang làm Từ Văn lệnh là Sĩ Hoàng Hữu
làm Thái thú Cửu Chân, em của Sĩ Hoàng Hữu là Vũ, lĩnh chức Nam Hải Thái thú.
Tiếp vốn độ lượng
khoan hòa mà nồng hậu, lại nhún nhường với kẻ sĩ, sĩ nhân Trung Quốc đi tránh nạn
đến nương dựa tới mấy trăm người. Tiếp thích đọc kinh Xuân thu, tự chú giải
sách ấy. Người nước Trần là Viên Huy cùng với Thượng thư lệnh là Tuân Úc dâng
thư rằng: “Ở Giao Chỉ có Sĩ phủ quân là người học vấn uyên bác, lại thấu hiểu
việc chính trị, ở giữa thời loạn, giữ toàn vẹn một quận, hơn hai mươi năm bờ
cõi được vô sự, dân không mất nghiệp, bọn khách trọ ở đó, đều được nhờ mông ân
che chở, dẫu như Đậu Dung gánh vác việc ở Hà Tây, sao hơn được đây? Lúc hết việc
quan, Tiếp thường nghiền ngẫm sách truyện, các sai lầm ở Xuân thu Tả thị truyện
được Tiếp sửa lại mạch lạc chu đáo, tôi mấy lần hỏi về những điều còn ngờ vực
trong truyện, đều nhận được các lời lí giải của bậc thầy, ý tứ rất sâu xa. Tiếp
lại còn đọc hết các sách kim cổ, hiểu đầy đủ và tường tận được đại nghĩa. Nghe
nói những người có học xưa nay ở kinh sư, lẽ phải trái không tranh giành, nay
muốn giải nghĩa các điều lý ở sách Tả thị-Thượng thư để dâng lên chúa thượng”.
Việc thấy được là như thế.
Anh em của Tiếp đều
giữ các quận, làm hùng trưởng một châu, ở nơi xa vạn dặm, uy quyền không ai hơn
được. Khi ra vào thì gõ chuông khánh, đầy đủ vẻ uy nghi, kèn tiêu trống sáo, xe
ngựa đầy đường, người Hồ đi gần bánh xe đốt hương thường có mấy chục. Vợ cả
nàng hầu ngồi xe truy bình(3), con em có quân kị theo hầu, người đương thời rất
quý trọng, trăm bộ tộc người Man kính sợ phục tùng, Uý Đà(4) cũng không hơn được.
Vũ bị bị bệnh chết trước tiên.
Thần tiên truyện của
Cát Hồng chép: Tiếp từng bị bệnh chết, qua ba ngày, có vị tiên nhân là Đổng Phụng
đem một viên thuốc cho uống, lấy nước đổ vào miệng, nâng đầu Tiếp dậy để trôi
thuốc, uống xong được một lát, Tiếp lập tức mở mắt, chân tay động đậy, sắc diện
dần dần thay đổi, nửa ngày có thể ngồi dậy được, bốn ngày sau lại có thể nói
năng, sau bình phục như thường. Phụng tự Quân Dị, là người ở huyện Hầu Quan.
Sau khi Chu Phù chết,
nhà Hán phái Trương Tân tới làm Thứ sử Giao Châu, Tân sau lại bị tướng của mình
là Khu Cảnh giết hại ở đó, nên Kinh châu mục Lưu Biểu phái người ở Linh Lăng là
Lại Cung đến thay Tân. Bấy giờ quan Thái thú Thương Ngô là Sử Hoàng chết, Biểu
lại phái Ngô Cự thay chức Hoàng, Cự với Cung cùng đi nhậm chức. Nhà Hán nghe
tin Trương Tân chết, ban ấn thư cho Tiếp nói: “Đất Giao Châu ở tận cùng bờ cõi,
phía nam liền với sông biển, ân trên chẳng tỏ hết được, đạo nghĩa ở dưới tắc
nghẽn, biết kẻ nghịch tặc là Lưu Biểu vừa phái Lại Cung dòm ngó đất phương nam,
nay cho Tiếp làm Tuy nam Trung lang tướng, đốc trách bảy quận, lĩnh chức Thái
thú Giao Chỉ như cũ”. Sau Tiếp phái Trương Mân dâng cống vật đến kinh đô, bấy
giờ thiên hạ nhiễu loạn, đường lớn cách tuyệt, nhưng Tiếp không bỏ chức phận tiến
cống, nên được đặc cách ban chiếu bái làm An viễn Tướng quân, phong tước Long Độ
Đình hầu.
Về sau Cự và Cung mất
lòng nhau, Cự cất quân đuổi Cung, Cung chạy về Linh Lăng. Năm Kiến An thứ mười
lăm, Tôn Quyền phái Bộ Chất tới làm Thứ sử Giao Châu. Chất đến nơi, Tiếp thống
suất anh em vâng mệnh nhận chức Tiết độ. Nhưng Ngô Cự mang dị tâm, Chất chém
đi. Quyền thêm cho Tiếp chức Tả Tướng quân. Năm Kiến An mạt, Tiếp phái con là
Hâm về làm con tin, Quyền cho Hâm làm Thái thú Vũ Xương, các con của Tiếp và Nhất
ở phương nam, đều được bái làm Trung lang tướng. Tiếp lại dụ dỗ các hào trưởng ở
quận Ích châu là bọn Ung Khải, thống suất nhân dân trong quận từ xa theo hàng
phương đông, Quyền càng khen Tiếp, thăng làm Vệ Tướng quân, phong tước Long
Biên hầu, em trai là Nhất làm Thiên tướng quân, tước Đô Hương hầu. Tiếp thường
phái sứ giả đến chỗ Quyền, dâng cống các loại gỗ thơm, vải tốt, thường đến hàng
nghìn tấm, các đồ quý báu như ngọc trai, vỏ sò lớn, lưu li, chim phỉ thuý, đồi
mồi, tê giác, voi, các vật quý quả lạ như chuối, dừa, long nhãn, không năm nào
không đưa tới. Có lúc cống cả thảy mấy trăm con ngựa. Quyền lập tức viết thư,
ban cho ân sủng hậu hơn nữa, nhằm đáp lễ và uý lạo Tiếp. Tiếp ở quận hơn bốn chục
năm, năm Hoàng Vũ thứ năm, lúc chín mươi
tuổi thì chết.
Quyền vì thấy quận
Giao Chỉ ở nơi xa, bèn tách từ Hợp Phố về bắc đặt làm Quảng châu, lấy Lã Đại
làm Thứ sử; từ Giao Chỉ về nam đặt làm Giao châu, lấy Đái Lương làm Thứ sử. Lại
phái Trần Thời thay Tiếp làm Thái thú Giao Chỉ. Đại ở lại quận Nam Hải, Lương
và Thời đều trước tiên đến Hợp Phố, nhưng con của Tiếp là Huy tự nhậm chức Thái
thú Giao Chỉ, phái binh sĩ trong tông tộc chống cự Lương. Lương lưu lại Hợp Phố.
Người quận Giao Chỉ là Hoàn Lân, từng được Tiếp cử làm quan, khấu đầu can gián
Huy khuyên nên sai người nghênh đón Lương, Huy giận, dùng bàn vả đánh chết Lân.
Anh của Lân là Trị và con là Phát lại tập hợp binh sĩ trong họ mạc đánh Huy,
Huy đóng cửa thành cố thủ, bọn Trị đánh đến mấy tháng không sao hạ được, bèn hẹn
ước giảng hòa kết thân, các bên đều bãi binh trở về. Nhưng Lã Đại nhận chiếu đi
tru diệt Huy, từ Quảng Châu đem binh rong ruổi ngày đêm tiến vào, đi qua Hợp Phố,
hợp quân với Lương cùng tiến. Con của Nhất là Khuông làm Trung lang tướng cùng
với Đại là chỗ quen biết cũ, Đại tạm lấy Khuông làm Sư hữu Tòng sự, trước hết gửi
thư đến Giao Chỉ, bảo rõ việc họa phúc, lại phái Khuông đến gặp Huy, khuyên bảo
phục tội, dẫu có mất chức Quận thú, nhưng vẫn được toàn vẹn không phải lo lắng
gì. Đại theo Khuông đến sau, anh của Huy là Chi, em của Huy là bọn Cán-Tụng cả
thảy sáu người cởi trần cúi rạp nghênh đón. Đại từ tạ sai mặc áo lại, rồi trước
hết đến dưới quận. Sáng sớm hôm sau cho bày màn trướng, mời anh em của Huy lần
lượt bước vào, tân khách ngồi đông đủ. Đại đứng dậy, tay cầm cờ tiết miệng đọc
chiếu lệnh, trách mắng kể rõ tội của Huy, tả hữu bèn bắt lấy trói lại dẫn ra
ngoài, lập tức đem giết hết một loạt, gửi thủ cấp đến thẳng Vũ Xương.
Tôn Thịnh nói: Khiến
cho kẻ ở xa quy phục về gần, chẳng ai không khéo ở chữ tín; gánh vác trách nhiệm
yên định việc lớn, chẳng ai không khéo ở nghĩa. Trước kia Tề Hoàn gây dựng cơ
nghiệp, đức sáng rõ ở Kha Hội, Tấn Văn mới làm bá, nghĩa hiển hiện ở Phạt
Nguyên(5). Bởi tất cả bọn Khuông đã thuận tình tụ tập, kẻ có quyền thế ở đời
nên giữ ước thề, để được tiếng khen lâu dài. Sư hữu của Lã Đại là Sĩ Khuông, được
sai đi ước thệ làm tin, anh em Huy cởi trần phục tội, uỷ thác sinh mệnh cho người,
Đại lại nhân đó diệt bọn họ đi, để cầu lấy cái lợi trước mắt, bậc quân tử vì thế
mà biết rằng Tôn Quyền chẳng có mưu lược sâu xa, mà phúc lộc của họ Lã chẳng thể
kéo dài được vậy.
Nhất, Hoàng Hữu,
Khuông sau đó được thả ra, Quyền tha tội cho bọn họ, còn đích tử của Tiếp là
Hâm, bị phế truất làm dân thường. Được mấy năm, Nhất, Hoàng Hữu mắc tội bị tru
diệt. Hâm bị bệnh chết, không có con, vợ Hâm ở góa, triều đình hạ chiếu cho
quan lại sở tại hàng tháng cấp cho lương bổng thóc gạo, ban cho tiền bốn chục vạn.
LƯU DO TRUYỆN
Lưu Do tự Chính Lễ,
người quận Đông Lai huyện Mâu Bình. Người con nhỏ của Tề Hiếu Vương(6) được
phong tước Mâu Bình hầu, con cháu về sau ở đất ấy. Bá phụ của Do là Sủng, làm
quan Thái úy nhà Hán.
Tục Hán thư chép: Tổ
phụ của Do là Bản, sở trường về kinh truyện, học rộng các sách, nổi tiếng là bậc
thông nho(7). Được tiến cử là Hiền lương phương chính, làm trưởng huyện Bàn, chết
khi đang làm quan. Sủng tự Tổ Vinh, nối nghiệp cha, làm Kinh minh hành tu, được
cử làm Hiếu liêm, giữ chức Quang lộc đại phu trông coi việc tứ hạnh(8), rồi đổi
làm Đông Bình Lăng lệnh. Coi việc được mấy năm, Sủng vì mẫu thân bị bệnh nặng
phải từ quan, sĩ dân trăm họ níu bánh xe giữ lại, đường xá tắt nghẽn, xe không
tiến được, đành dừng lại, Sủng phải mặc thường phục ngầm bỏ trốn, về quê phụng
dưỡng mẫu thân. Sau này Sủng được vời vào phủ Đại tướng quân, không lâu lại
thăng làm Thái thú Cối Kê, Sủng lấy sự ngay thẳng làm gương cho kẻ dưới, được
người trong quận khen ngợi. Triều đình vời Sủng về kinh
làm Tương tác đại tượng(9).
Ở trong vùng sơn cốc Nhược Tà huyện Sơn Âm cách sở quan mấy chục dặm, có năm
sáu ông già đã bảy tám chục tuổi, nghe tin Sủng chuyển đi, bèn rủ nhau tới đưa
tiễn, tặng cho Sủng trăm đồng tiền, Sủng thấy thế, an ủi rằng: “Các cụ phụ lão
sao phải tự làm khổ mình lặn lội từ xa tới đây làm gì!” Bọn họ đều nói: “Bọn
già thấp hèn chúng tôi ở sơn cốc này, bình sinh chưa từng đến quận huyện. Các
quan lại trước đây liên tục nhũng nhiễu, dân gian ngờ sợ, ban đêm tiếng chó sủa
không dứt, dân chúng hết đêm chẳng được ngủ yên. Từ ngày minh phủ dừng xe nơi
đây, đêm không còn tiếng chó sủa, quan lại hiếm khi phiền nhiễu dân gian, bọn
già này không ngờ gặp được thánh hóa, nay nghe tin ngài chuyển đi, nên cố sức tới
tiễn đưa ngài.” Sủng cám ơn họ, rồi chỉ chịu nhận một đồng tiền lớn, bởi
thế người ở Cối Kê gọi
Sủng là Nhất tiễn Thái thú(10). Sủng thanh liêm như thế. Sủng trước sau trải việc
ở hai quận, tám lần giữ cửu liệt, bốn lần làm được ba việc quan trọng(11).
Trong nhà chẳng chứa chấp của đút lót, không có đồ vật châu báu gì, thường ăn uống
đạm bạc, y phục sơ sài, đi xe xấu ngựa gầy, chi tiêu hạn hẹp. Sủng ba lần đi
làm quan ở xa, thường muốn quay về bản địa. Mỗi khi qua lại kinh sư, Sủng hay xuống
xe đi bộ, mọi người chẳng ai biết. Sủng có lần muốn vào nghỉ ở dịch đình, viên
đình lại ngăn cản nói: “Nhà trạm đang sắp xếp lại, để đón Lưu công(12), ngài
không thể vào nghỉ được.” Sủng bèn bỏ đi. Đại loại là Sủng liêm khiết tằn tiện
như thế. Lúc già Sủng bị bệnh chết ở nhà.
Anh cả của Do là Đại,
tự Công Sơn, từng giữ chức Thị trung, Thứ lại Duyện châu.
Tục Hán thư chép: Cha Do là Dư, nổi danh ở một
phương, làm Thái thú Sơn Dương. Đại và Do đều có tiếng là tài tuấn. Sách Anh
hùng ký khen Đại là người hiếu thuận và có lòng nhân, lấy sự khiêm tốn để đãi
người.
Năm Do mười chín tuổi,
chú của Do là Vĩ bị giặc cướp bắt làm con tin, Do cướp chú về, bởi thế nổi
danh. Được đề cử Hiếu liêm, làm Lang trung, sau thăng làm trưởng huyện Hạ Ấp.
Thời ấy Quận thú đem người thân của mình phó thác cho Do(13), Do bèn bỏ quan mà
đi. Châu phủ lại cho triệu Do bố trí làm quan ở Tế Nam, Tế Nam tướng là con của
Trung thường thị, tham ô không tuân vương pháp, Do dâng tấu xin cách chức hắn.
Người ở Bình Nguyên là Đào Khâu Hồng tiến cử Do, muốn quan châu cất Do lên làm
Mậu tài. Thứ sử nói: “Năm ngoái ngươi đã tiến cử Công Sơn, sao giờ lại đề cử
Chính Lễ nhỉ?” Hồng nói: “Nếu trước kia sứ quân đã sáng suốt dùng Công Sơn, sau
lại cất nhắc Chính Lễ, có thể nói là ngự hai con rồng đi trên quãng
đường dài, phóng con
ngựa Ký(14) phi ngàn dặm, chẳng cũng sướng sao!” Vừa lúc triều đình cho vời Do
về làm Tư không duyện, rồi phong làm Thị ngự sử, Do không tới. Rồi đi tránh loạn
ở Hoài Phố, triều đình lại xuống chiếu cho Do làm Thứ sử Dương Châu. Bấy giờ
Viên Thuật ở Hoài Nam, Do kiêng sợ, không dám tới Dương Châu. Bèn xuôi nam qua
sông Trường Giang, Ngô Cảnh-Tôn Bí nghênh đón bố trí cho Do ở Khúc A. Thuật có
mưu đồ tiếm nghịch, vây đánh các quận huyện. Do phái Phàn Năng-Trương Anh đóng
quân ở ven sông để cự Thuật. Vì Cảnh-Bí đều do Thuật cất nhắc, nên Do cưỡng bức
đuổi họ đi. Bởi thế Thuật tự giữ chức Thứ sử Dương Châu, cùng với Cảnh-Bí hợp sức
đánh bọn Anh-Năng, hơn năm không hạ nổi. Nhà Hán ra sắc mệnh thăng Do làm chức
mục, Chấn vũ tướng quân, binh chúng có mấy vạn, Tôn Sách qua sông từ phía đông,
phá tan bọn Anh-Năng. Do chạy về Đan Đồ, sau ngược sông về nam giữ Dự Chương,
trú ở Bành Trạch.
Hán kỷ của Viên Hoành
chép: Lưu Do sắp chạy sang Cối Kê, Hứa Tử Tương nói: “Cối Kê là nơi giầu có, Sách
thèm muốn chỗ ấy, vì gặp khó ở ven biển, không thể lấy được. Chẳng bằng ở Dự
Chương, phía bắc giáp đất Dự, phía tây nối liền với Kinh Châu. Nếu thu nhặt tập
hợp được quan dân ở đó, khiến cho họ ra sức cống hiến, cùng với Tào Duyện
châu(15) cứu giúp nhau, dù có Viên Công Lộ ngăn cách ở giữa, nhưng người ấy là
giống sài lang, chẳng thể tồn tại lâu được. Túc hạ đã nhận vương mệnh, Mạnh Đức-
Cảnh Thăng hẳn sẽ cứu giúp cho.” Do nghe theo lời ấy.
Trích Dung tới Dự
Chương trước, giết chết Thái thú Chu Hạo, kéo vào chiếm đóng trong quận.
Hiến Đế Xuân Thu
chép: Năm ấy, Do đóng quân ở Bành Trạch, lại sai Dung giúp Hạo đánh Thái thú
Gia Cát Huyền do Lưu Biểu bổ dụng. Hứa Tử Tương bảo Do rằng: “Trách Dung ra
quân, chẳng có chiếu mệnh hay danh nghĩa gì. Chu Văn Minh(16) có thiện tâm
thành thật mà tin người, ta nên cho người bí mật canh chừng hắn.” Dung đến nơi,
quả nhiên trá lừa giết Hạo, thay thế Hạo thống lĩnh các việc trong quận.
Do tiến đánh Dung, bị
Dung đánh bại, Do lại tập hợp binh mã ở các huyện trực thuộc, đánh phá Dung.
Dung thua trận chạy trốn vào trong núi, bị dân ở đó giết. Do bỗng nhiên bị bệnh
chết, bấy giờ mới bốn mươi hai tuổi.
Trích Dung, người quận
Đan Dương, ban đầu tụ tập được mấy trăm quân, qua nương nhờ Từ châu mục là Đào
Khiêm. Khiêm sai đi đốc suất việc vận lương bằng đường thủy ở Quảng Lăng-Bành
Thành, Dung phóng túng thiện tiện giết người, ngồi một chỗ quyết đoán việc bỏ
hay thu lương thực ở ba quận về cho mình. Lại đại tu xây dựng phù đồ(17), lấy đồng
chế tượng như người thật, thân tượng dát vàng, y phục bằng gấm ngũ sắc, rồi đặt
tượng trên mâm đồng cao chín tầng, bên dưới làm lầu đôi có hành lang, trong có
thể chứa hơn ba ngàn người, tất cả các buổi đọc kinh của nhà phật, Dung lệnh
cho mọi người trong cõi và các quận bên có ai thích Phật giáo thì đến theo học
đạo, lại tha cho họ việc phu dịch để lôi kéo họ, bởi thế người ở xa gần trước
sau có đến hơn năm nghìn hộ theo về. Mỗi lễ tắm Phật, cho sửa soạn rất nhiều
cơm rượu, trải chiếu ở trên đường, dài mấy chục dặm, người dân tới xem và ăn uống
đến cả vạn người, phí tổn tính kể ức vạn. Tào công vây đánh Đào Khiêm, đất Từ
chao đảo, Dung đem trai gái một vạn khẩu, ngựa ba nghìn con, chạy trốn tới Quảng
Lăng, Thái thú Quảng Lăng là Triệu Dục lấy khách lễ đối đãi Dung. Trước đó,
Bành Thành tướng là Tiết Lễ bị Đào Khiêm bức bách, đóng quân ở Mạt Lăng. Dung lợi
dụng dân chúng Quảng Lăng, nhân lúc tửu hứng giết chết Dục, thả cho binh lính
cướp bóc, đem thuyền chở của cải đi. Lại qua giết Lễ, rồi sau giết Hạo.”
Về sau Sách sang tây
đánh Giang Hạ, khi về qua Dự Chương, thu nhặt thi thể làm tang cho Do, vừa hay
gặp được gia quyến của Do ở đấy. Vương Lãng gửi thư cho Sách nói: “Trước đây
Lưu Chính Lễ vừa đến Lâm Châu, chưa thể tự lập, quả thật là trước sau nhờ cả
vào nhà Tôn huynh giúp đỡ, nhờ đó mới có thể vượt sông xây dựng trị sở, có được
cơ sở an định. Lễ nghi giúp Lưu vượt
biên cảnh, lòng cảm kích khắc sâu trong tim, tình bạn gìn giữ thủy chung. Sau
vì họ Viên hiềm nghi, tình cảm đổi thành ngang trái. Lại thêm việc ngài đồng
minh với Thuật, nên mới hoàn toàn biến thành thù địch, xét bản tâm của Do, thật
không thích thú gì. Sau khi sức khỏe hồi phục, Do thường muốn ném bỏ oán hiềm,
khôi phục tình bạn ngày trước. Một độ chia li, tâm ý chưa biểu lộ được, Lưu đột
nhiên mắc bệnh mà chết, thật bi thương thống hận! Biết rằng ngài lấy đôn hậu để
đối đãi kẻ khắc bạc, lấy đức để báo đáp kẻ gây oán, thu hồi di cốt dưỡng dục cô
nhi, ai điệu kẻ chết xót thương người sống, quên bỏ hiềm nghi ngày trước, giúp
đỡ cho trẻ nhỏ được cậy nhờ(18), thật là ân sâu nghĩa nặng, danh tốt vang lừng,
tình cảm trọng hậu.
Xưa kia người Lỗ oán
giận người Tề, cũng chẳng phế bỏ tang lễ của người ta, kinh Xuân Thu khen việc ấy,
bảo rằng đúng lễ, tin rằng bậc lương sử nên noi theo việc đó, trường học ở
hương thôn nên tán tụng truyền bá. Con trưởng của Chính Lễ, là người chí khí tiết
tháo, nghĩ rằng ắt sẽ được ngài đối đãi khác thường. Ngài thi hành hình pháp,
uy danh đủ đầy, nếu thi hành để lấy ân, há chẳng tốt đẹp hơn sao!
Con trai trưởng của
Do là Cơ, tự Kính Dư, năm mười bốn tuổi, để tang Do rất có lễ, các quan lại cũ
của Do đưa tặng quà, Cơ đều không nhận chút gì.
Ngô thư chép: Cơ gặp
nhiều nỗi gian lao, từ nhỏ phải cư tang khốn khổ, âm thầm chịu đựng mọi đắng
cay, chẳng có ai là người thân thích. Ở cùng với các em, lúc nghỉ ban đêm thường
dậy sớm, thê thiếp hiếm khi thấy mặt. Các em đều kính sợ, phụng sự Cơ như cha.
Cơ không giao du bừa bãi, trong nhà không có khách tạp nham.
Cơ có tư chất khí độ
tốt đẹp, Tôn Quyền rất yêu quí và kính trọng. Quyền làm Phiêu kỵ tướng quân,
cho vời Cơ tới làm Đông tào duyện, bái làm Phụ nghĩa hiệu úy, Kiến trung Trung
lang tướng. Lúc Quyền làm Ngô vương, thăng Cơ lên làm Đại tư nông. Quyền từng mở
hội yến, Kỵ đô úy Ngu Phiên say rượu ngỗ nghịch xúc phạm Quyền, Quyền muốn giết
Phiên, lại vô cùng tức giận, nhờ có Cơ hết lòng can gián, Phiên được miễn tội.
Vào những ngày ngày nóng nực, Quyền thường ở trên thuyền yến tiệc, có lần đang ở
trên thuyền thì gặp mưa dông, Quyền lấy một cái ô che cho mình, lại sai người lấy
ô che cho Cơ, những người khác thì không ai được như vậy. Cơ được đãi ngộ đến
như thế. Về sau Cơ được đổi làm Lang trung lệnh. Lúc Tôn Quyền xưng tôn hào, Cơ
được chuyển làm Quang lộc huân, giữ danh phận Bình thượng thư sự. Đến năm bốn
mươi chín tuổi thì chết. Sau này Quyền cho con mình là Bá lấy con gái Cơ, lại cấp
cho nhà cửa hạng nhất, bốn mùa được ân sủng, ngang với hai họ Toàn-Trương. Cơ
có hai em là Thước-Thượng đều làm Kỵ đô úy.
CHÚ THÍCH
(1) Các bản dịch sử
trước nay vẫn thấy dịch là Sĩ Nhiếp, không rõ vì sao?
(2) Hán Hoàn đế nhà
Đông Hán.
(3) Xe truy bình là
cái xe có buông màn từ mui xe rủ xuống che phủ kín bốn phía xung quanh.
(4) Uý Đà tức là Việt
kỵ Hiệu uý Triệu Đà. Tiếp cai quản Giao Chỉ, Triệu cũng từng cai quản Giao Chỉ,
Trần Thọ có ý so rằng Triệu Đà dù là vua Nam Việt cũng không hơn Sĩ Tiếp được.
(5) Không rõ chỗ này
nên cắt nghĩa là thế nào?
(6) Con cháu họ Lưu,
được phong hầu ở các nơi.
(7) Tức là khen rằng
người đó có tài học, nổi tiếng uyên bác giỏi giang.
(8) Các việc đức hạnh,
nết na, nếu còn ở trong tâm là đức, thi hành ra là hạnh.
(9) Không hiểu chức
này là thế nào?
(10) Tức là vị Thái
thú một đồng tiền.
(11) Nguyên văn câu
này là ‘bát cư cửu liệt, tứ đăng tam sự’, không biết dịch thế nào, đành phải tạm
dịch gượng gạo như vậy.
(12) Tức là Lưu Sủng
vậy.
(13) Câu này rất tối
nghĩa, nguyên văn là ‘Quận thú dĩ quý Tam quốc chí quyển thích thác chi’, không
biết phải dịch thế nào, đành phải cắt bớt mấy chữ đi mà dịch gượng. Chẳng hiểu
vì sao Trần Thọ lại nói đến sách Tam quốc chí (nguyên là sách của chính tác giả
soạn ra) ở chỗ này?
(14) Ngựa Ký là một
thứ ngựa hay nổi tiếng, ngày phi ngàn dặm, lại rất thuần.
(15) Bấy giờ Tào Tháo
giữ Duyện châu nên cũng gọi là Tào Duyện châu.
(16) Chu Hạo tự Văn
Minh.
(17) Là toà tháp của
nhà Phật.
(18) Nguyên văn là ‘bảo
lục xích chi thác’, dịch thoát nghĩa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét