33. Quẻ Thiên Sơn Độn
Trên là Càn (Trời), dưới là Cấn (núi)
Hễ ở lâu thì phải rút lui, lánh đi, hết ngày thì tới đêm,
hết đông tới xuân, ngồi lâu phải đứng dậy, già rồi nên về hưu …, cho nên sau
quẻ Hằng (lâu) tới quẻ Độn (là trốn lánh đi).
Thoán Từ
遯:亨,小利貞。
Độn: Hanh, tiểu lợi trinh.
Dịch: Trốn lánh
đi thì hanh thông; trong các việc nhỏ, giữ được điều chính thì có lợi.
Giảng: Trên là
trời, dưới là núi: Ở chân núi thì thấy đỉnh núi là trời, nhưng càng lên càng
thấy trời lùi lên cao nữa, tới đỉnh núi thấy trời mù mịt tít vời, như trời trốn
lánh núi, cho nên đặt tên quẻ là Độn[73].
Quẻ này hai hào âm ở dưới đẩy bốn hào dương lên trên, có cái
tượng âm (tiểu nhân) mạnh lên, đuổi dương (quân tử) đi, trái hẳn với quẻ Lâm.
Độn thuộc về tháng 5, Lâm thuộc về tháng 12. Ở thời Độn, âm đương tiến mạnh,
dương nên rút lui đi là hợp thời, được hanh thông (có thể hiểu là: đạo quân tử
vẫn hanh thông). Tuy nhiên âm mới có 2, dương còn tới 4, chưa phải là thời Bĩ
(cả 3 âm đều tiến lên), nên chưa đến nỗi nào, trong các việc nhỏ, giữ được điều
chính thì còn có lợi, còn làm được.
Sở dĩ chưa đến nỗi nào, còn hanh thông vì trong quẻ có hào
5, dương, ứng với hào 2, âm; cả hai đều trung chính. Vậy ở thời đó, chưa nên
trốn hẳn, nên tính xem việc nào còn làm được thì làm, tùy cơ ứng biến, cho nên Thoán truyện bảo lẽ tùy thời trong quẻ
Độn này rất quan trọng.
Đại Tượng
truyện khuyên trong thời này quân tử nên
xa lánh tiểu nhân, cứ giữ vẻ uy nghiêm, đừng dữ dằn với chúng quá.
Hào Từ
1
初六:遯尾,厲,勿用有攸往。
Sơ lục: Độn vĩ, lệ, vật dụng hữu du vãng.
Dịch: Hào 1,
âm: Trốn sau cùng, như cái đuôi, nguy đấy, đừng làm gì cả.
Giảng: Hào ở
dưới cùng, nên ví với cái đuôi ở lại sau cùng. Nó là âm, nhu nhược, hôn ám,
không trốn theo kịp người, còn rù rờ ở sau, nên bảo là nguy.
2
六二:執之用黃牛之革,莫之勝說。
Lục nhị: Chấp chi dụng hoàng ngưu chi cách, mạc chi thăng
thoát[74].
Dịch: Hào 2,
âm: Hai bên (hào 5 và hào 2) khăng khít (bền chặt) với nhau như buộc vào nhau
bằng da bò vàng, không thể nào cởi được.
Giảng: Hào 2
âm, đắc trung đắc chính, ứng với hào 5 dương cũng đắc trung đắc chính, cho nên
tương đắc, khắng khít với nhau, không thể rời nhau được, 2 không thể bỏ 5 mà
trốn được.
Màu vàng (da bò vàng) là màu trung, ám chỉ hai hào đó đều
đắc trung.
3
九三:係遯,有疾厲,畜臣妾,吉。
Cửu tam: Hệ độn, hữu tật lệ, súc thần thiếp, cát.
Dịch: Hào 3,
dương: Lúc phải trốn mà bịn rịn tư tình thì nguy; nhưng nuôi kẻ tôi tớ trai gái
thì tốt.
Giảng: Hào
dương này ở gần hào 2 âm, có vẻ bịn rịn tư tình với hào đó, không thể trốn mau
được, như bị bệnh mà nguy; có tư tình đó thì không làm được việc lớn, chỉ nuôi
bọn tôi tớ trai gái mình tốt với họ thì họ vui lòng mà dễ sai khiến, được việc
cho mình.
Bốn chữ “súc thần thiếp, cát” tôi hiểu theo Phan Bội Châu;
Chu Hi giảng rất mù mờ, lúng túng; J. Legge giảng là: nếu 3 đổi hào 2, như nuôi
tôi tớ trai gái thì tốt. R. Wihelm giảng là 3 vẫn giữ được sự tự quyết, đừng để
cho hào 2 sai khiến mình thì tốt.
4
九四:好遯,君子吉,小人否。
Cửu tứ: Hiếu độn, quân tử cát, tiểu nhân phủ.
Dịch: Hào 4
dương: Có hệ lụy với người, nhưng trốn được, quân tử thì tốt, tiểu nhân thì
không.
Giảng: Hào này
cũng tối nghĩa; chữ 好 có người đọc là hảo,
chữ 否 có người đọc là bĩ,
vì vậy có nhiều cách hiểu, chúng tôi hiểu theo Phan Bội Châu. Hào 4, dương
cương ứng với hào 1 âm nhu, có tình thân thiết (hệ lụy) với nhau; nhưng 4 là
quân tử, 1 là tiểu nhân, 4 cắt được tư tình mà trốn đi, theo lẽ phải (chính
nghĩa); chỉ hạng quân tử mới làm vậy được, tiểu nhân thì không.
5
九五:嘉遯,貞吉。
Cửu ngũ: Gia độn, trinh cát.
Dịch: Hào 5, dương:
Trốn mà theo điều chính cho nên tốt.
Giảng: Hào 5,
dương có đức trung chính, ứng với hào 2 cũng trung chính, ở thời Độn, cả 2 hào
trung chính dắt nhau trốn bọn tiểu nhân, giữ được điều chính, cho nên tốt.
6
上九:肥遯,無不利。
Thượng cửu: Phi độn, vô bất lợi.
Dịch: Hào trên
cùng, dương: Trốn mà ung dung, đàng hoàng, không có gì là không lợi.
Giảng: Vào lúc
cuối thời Độn, càng trốn được xa càng được tự do. Hào này dương cương quân tử,
không bịn rịn với hào nào cả (vì hào 3 cũng là dương), có thể ung dung, đàng
hoàng trốn được, không
nghĩa quẻ Độn: trốn phải hợp thời;
trốn sau cùng là trễ, thì nguy (hào 1) trốn mà còn vương tư tình thì xấu (hào
3); trốn một cách trung chính thì tốt (hào 5); trốn mà không bịn rịn thì được
ung dung (hào 6). Lại có trường hợp vì hoàn cảnh mà không được trốn đi (hào 2).
Chú thích quẻ 33
[73]. Ba chữ “tiểu lợi trinh” đa số các sách đều giảng như vậy. Chu Hi hiểu khác: Tiểu là kẻ tiểu nhân, chứ không phải là việc nhỏ, và giảng là: kẻ tiểu nhân giữ được điều chính thì lợi.
[74]. 說 thoát: Cụ Phan Bội Châu cũng đọc là thoát (Sđd tr.616). Thiều Chửu bảo chữ 說 (đọc là: thuyết, duyệt, thuế) cũng có nghĩa như chữ thoát 脫 (nghĩa là:
tuộc, thoát khỏi…). (Goldfish).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét