11. SỬ KÝ TƯ MÃ THIÊN
(Tư Mã
Thiên)
Bình Chuẩn (1) Thư
Một bản in cổ năm 1598 của Sử ký |
Quân Hung Nô mấy lần vào cướp bóc xâm phạm biên giới phía bắc, số
người đi đóng đồn và đi thú rất nhiều, số lúa ở biên giới không đủ để cung cấp.
Do đó nhà vua mộ dân, ai có thể nộp và đưa lúa ra biên giới thì được phong chức
tước. Tước được phong đến tả thứ trưởng.
Thời Hiếu Cảnh, từ Thượng Quận về phía tây bị hạn hán, nhà vua lại
ra lệnh cho bán chức tước, nhưng lần này hạ giá bớt để lôi kéo dân. Những người
bị đày và có tội nhẹ có thể chuộc tội bằng cách vận tải thóc cho quan đại phương.
Nhà vua sai làm thêm vườn, chuồng ngựa, để có nhiều ngựa mà dùng, xây thêm các
cung thất và các quán, số xe ngựa cũng tăng thêm (6).
--------------------------
1. Bình Chuẩn là tên một chức quan đời Hán có mục đích mua hàng
hóa nhân dân khi rẻ và bán lại khi đắt để làm cho giá thị trường khỏi chênh
lệch quá và người mua khỏi bị bóc lột quá đáng. Bài này rất nổi tiếng và thường
được nhắc đến với tính cách một công trình đầu tiên về kinh tế học của Trung
Quốc.
2. Nhận xét nào cũng chính xác và dựa trên những con số cụ thể.
3. Như vậy là tầng lớp thương nhân không được tham dự vào chính
trị.
4. Nguyên văn – “phú ư dân”, “phú” là thứ thuế thân, còn “thuế” là
thuế sản vật.
5. Nửa lạng là 12 thù. Như vậy trọng lượng của tiền thực chỉ bằng
một phần ba trọng lượng trên danh nghĩa.
6. Đoạn 1 – Tình hình kinh tế trong những năm trước Hán Vũ Đế.
--------------------------
2. Đến khi kim thượng (7) lên ngôi, mấy năm đầu đúng vào lúc nhà
Hán trong vòng bảy mươi năm nước nhà vô sự (8) trừ phi gặp lụt lội, hạn hán còn
thì nhân dân đều no đủ. Các kho lúa ở kinh đô và ở các nơi đều đầy, mà kho đụn
thì thừa của cải. Tiền ở kinh đô xếp kể hàng trăm triệu. Lõi xâu mục không thể
đếm được. Thóc ở kho lớn lớp lớp chồng lên nhau, đầy rẫy, tràn ựa ra ngoài đến
nỗi mục nát ăn không được. Dân chúng có ngựa hàng đàn trên các đường ngõ. Kẻ
cưỡi ngựa cái bị gạt không được đến đám đông Kẻ coi các cổng làng, cổng xóm bữa
ăn đều có gà có thịt (9). Kẻ làm lại, làm đến lúc con và cháu lớn lên (10); kẻ
làm quan lấy chức làm họ. Cho nên ai nấy đều tự yêu mình, sợ phạm pháp luật;
ham làm việc nhân nghĩa lo tránh sỉ nhục.
Lúc bấy giờ lưới pháp luật thưa mà dân giàu. Bọn cậy của kiêu căng
có khi gờm, nuốt nhau. Bọn cường hào cậy thế ăn hiếp ở làng xóm. Các tôn thất
đều có đất riêng. Công, khanh, đại phu, trở xuống đua nhau xa xỉ: nhà cửa, xiêm
áo, xe ngựa lên cả bậc trên không chừng mực. Việc đời thịnh rồi suy, lẽ biến
đổi cố nhiên phải thế!
--------------------------
7. Thời Hán Vũ Đế tức là thời của tác giả.
8. Tác giả trình bày tình trạng giàu có lúc đầu thời Vũ Đế để
chuẩn bị nói đến tình trạng đói khổ loạn lạc về sau.
9. Bài này đầy những nhận xét tỉ mỉ và sâu sắc.
10. Ý nói làm quan không thay đổi chức đến nỗi lúc cháu lớn lên
cũng vẫn làm chức ấy.
--------------------------
3. Từ đó về sau, bọn Nghiêm Trợ, Chu Mãi Thần gọi dân Đông Âu đến
và theo đuổi hai nước Việt (11); vùng giữa sông Trường Giang và sông Hoài xơ
xác và phiền phí. Đường Mông, Tư Mã Tương Như mở lối sang các rợ miền tây nam,
phía núi thông hơn nghìn dặm đường để mở rộng đất Ba, đất Thục. Dân đất Ba, đất
Thục ví thế mệt nhọc. Bành Ngô Giả diệt Triều Tiên đặt ra quận Thượng Hải. Vì
vậy miền Yên, Tề nhớn nhác rung động. Sau đó Vương Khôi lại bày mưu ở Mã Ấp
(12). Hung Nô bỏ đứt việc hòa thân, xâm lấn miền bắc. Việc binh kéo dài không
khi nào hết. Thiên hạ khổ về những việc khó nhọc ấy mà cảnh can qua lại ngày
càng lan rộng. Người đi trận phải mang xách, kẻ ở phải lo vận chuyển lương
thực. Trong ngoài xao xuyến về việc phải lo cung đón cho nhau. Trăm họ thì cùng
kiệt, tìm cách lẩn trốn. Của cải hao hụt không sao đủ được. Điều đó khiến cho
kẻ quyên tiền thì được làm quan, kẻ nộp bạc thì được miễn tội. Phép tuyển cử
dần dần bỏ. Liêm sỉ bị coi thường. Võ lực được tiến dụng. Kết quả pháp luật trở
nên nghiêm, mệnh lệnh thành khắt khe và từ đó bọn bầy tôi gây lợi xuất hiện
(13).
Sau đó, các tướng nhà Hán mỗi năm đem mấy vạn quân kỵ đánh quân
Hồ, xa kỵ tướng quân là Vệ Thanh, lấy đất ở phía nam của Hung Nô, xây Sóc
Phương (14).
Bấy giờ, Hán mở rộng đường giao thông với các rợ di ở tây nam,
người làm đường tới mấy vạn. Dân phải gánh gồng mang lương thực từ ngoài ngàn
dặm đến, trung bình cứ đem đi hơn mười chung thì đến nơi chỉ còn một thạch
(15). Nhà vua sai đem của cải phát cho những người ở đất Cùng và đất Bắc để
chiêu tập họ. Làm mấy năm vẫn chưa mở xong được con đường này. Nhưng các man và
di lại thừa cơ ấy mấy lần đánh. Các quan lại phải đem quân đi đánh dẹp. Nhà vua
nhận thấy dù lấy tất cả tô và thuế đất Ba đất Thục cũng không đủ để cung vào
việc chi phí nên sai mộ những người giàu đến cày ở đất Nam Di. Những người này
đưa thóc cho quân địa phương và nhận tiền ở kinh đô. Phía đông, nhà vua lại sai
đặt quận Thượng Hải. Phí tổn về việc dời dân đến đấy cũng tương tự như việc dời
dân đến Nam Di. Nhà vua sai hơn mười vạn người xây thành (16) để giữ Sóc
Phương, việc chuyên chở đường sông rất xa. Tất cả những người ở phía đông núi
đều mệt nhọc. Tốn kém đến gần mười tỷ đồn tiền. Kho lại càng trống rỗng. Nhà
vua bèn mộ dân, nói những người nào có thể cấp bọn nô và tỳ cho nhà nước thì
suốt đời không phải nộp thuế thân, nếu họ đã làm quan lang rồi thì sẽ được
thăng trật. Việc nộp cừu mà được làm quan lang là bắt đầu từ lúc ấy (17).
Bốn năm sau (124 trước công nguyên) Hán sai đại tướng quân (18)
đem hơn mười vạn quân, sáu vị tướng quân, đánh Hữu Hiền Vương bắt một vạn năm
nghìn tù binh (19). Năm sau, đại tướng quân lại đem sáu vị tướng quân đánh quân
Hồ bắt được một vạn chín nghìn tù binh, người nào chém hay bắt được quân Hồ thì
được thưởng vàng. Tiền thưởng đến hơn hai mươi vạn cân vàng. Mấy vạn tù binh
đều được hậu thưởng, cho ăn mặc, tất cả đều do quan địa phương cung cấp. Trái
lại quân và ngựa của Hán chết hơn mười vạn; đó là chưa nói đến tiền phí tổn về
vũ khí và vận chuyển bằng đường thủy và đường bộ. Vì bao nhiêu tiền tích trữ ở
quan đại tư nông (20) đều cứ kiệt dần, tiền thuế dùng hết cũng không đủ để cung
cấp cho binh sĩ nên các quan phụ trách mới nói với thiên tử. Thiên tử nói:
- Trẫm nghe nói Ngũ Đế dạy dân không lặp lại việc làm của nhau
nhưng nước vẫn trị. Các vua Hạ Vũ và Thành Thang pháp luật không giống nhau mà
vẫn làm vương, đường họ đi khác nhau nhưng đức họ lập nên thì vẫn là một. Biên
giới phía bắc chưa yên, trẫm rất lấy làm lo lắng. Gần đây đại tướng quân đánh
Hung Nô vừa chém vừa cầm tù một vạn chín nghìn tên. Người giàu cất giấu của cải
thì người nghèo không có mà ăn (21).
Nhà vua bèn ra lệnh cho dân được mua chức tước và chuộc những điều
cấm đoán không cho làm quan (22), được lấy tiền xin chuộc và giảm tội. Các quan
tâu xin đặt những thưởng quan. Mệnh của nhà vua nói: tước Vũ Công thì phải nộp
17 vạn đồng tiền. Tất cả số tiền bán tước lên đến ba mươi vạn cân vàng. Trong
những người mua tước Vũ Công, ai thuộc hàng “quan thủ” thì được thử cho làm lại
và bổ làm quan trước. Cấp “thiên phu” thì tiền ngang cấp ngũ đại phu (23).
Người có tội thì được giảm hai bậc, có thể mua tước đến nhạc khanh. Làm như thế
để nêu rõ quân công, những người có quân công lớn thì phong làm hầu, khanh, đại
phu; người quân công nhỏ thì phong làm lang, làm lại. Con đường đi đến chức
quan phức tạp và lắm cách cho nên chức quan mất giá trị (24).
--------------------------
11. Vua Đông Âu bị vua Mân Việt đánh, Vũ Đế cho di 4 vạn người
Đông Âu vào giữa miền sông Trường Giang và sông Hoài. Hai nước là Mân Việt Đô ở
Phúc Châu và Nam Việt Đô ở Quảng Châu.
12. Vương Khôi giả vờ hòa thuận với Hung Nô, lừa quân Hung Nô đến
Mã Ấp để đánh úp. Nhưng vua Hung Nô biết được mưu ấy.
13. Đây là chỉ Tang Hoằng Dương, Khổng Cần (xem đoạn 5).
14. Nhìn chung những điểm lớn về kinh tế thời Hán Vũ Đế. Những
điểm này sẽ được phát triển ở dưới.
15. Mười chung là 64 thạch. Như vậy chỉ một phần 64 đến nơi.
16. Đây là xây thêm vào Vạn lý trường thành.
17. Nhận xét mỉa mai.
18. Tức Vệ Thanh.
19. Cầm đầu Hung Nô là Thiền Vu dưới Thiền Vu có Hữu Hiền Vương và
Tả Hiền Vương.
20. Chức quan phụ trách nông nghiệp và tài chính.
21. Để bào chữa cho lý do tại sao lại cho mua chức quan. Mục đích
của nó là để người giàu đưa của cải ra.
22. Chẳng hạn điều cấm đoán đối với thương nhân ở đoạn 1.
23. Theo trật tự trong quân đội thì “quan thủ” đứng vào hàng thứ năm,
“thiên phu” đứng vào hàng thứ bảy, còn “ngũ đại phu” đứng vào hàng thứ chín.
Tất cả có mười bậc.
24. Đoạn 3 – Kinh tế nguy khốn do chính sách xâm lược gây ra.
--------------------------
4. Từ khi Công Tôn Hoằng nhờ việc giải nghĩa Kinh Xuân Thu gò bó kẻ
tôi mà làm đến thừa tướng nhà Hán; từ khi Trương Thang dùng lối văn án nghiêm
khắc, gắt gao mà được làm đinh úy thì đạo luật về cái tội “kiến tri” (25) sinh
ra, và người ta trừng trị hết sức nặng những người cản trở hay phỉ báng mệnh
lệnh của nhà vua.
Năm sau, âm mưu của Hoài Nam Vương, Hành Sơn Vương, Giang Đô Vương
làm phản bại lộ. Bọn công khanh bới lông tìm vết để trừng trị và tiêu diệt bè
đảng của họ. Số người bị giết đến mấy vạn. Bọn trưởng lại lại càng nghiêm khắc,
tàn nhẫn, pháp luật, mệnh lệnh lại càng rạch ròi chi ly. Lúc bấy giờ nhà vua
đang đề cao khuyến khích những người tài giỏi, chính trực văn học, có người làm
đến công khanh, đại phu. Công Tôn Hoằng làm thừa tướng nhà Hán, mặc áo vải,
không ăn hai món, muốn nêu gương cho thiên hạ nhưng không có ích gì đối với
phong tục. Dần dần người ta xô đẩy nhau chạy theo công danh, lợi lộc.
Năm sau, tướng phiêu kỵ (26) lại đem quân đánh quân Hồ bắt được
bốn vạn người. Mùa thu năm ấy, vua Hồn Gia đem mấy vạn người vào hàng. Nhà vua
sai đem hai vạn cỗ xe đón rước họ. Khi họ đến, lại được ban thưởng. Năm ấy, số
tiền cấp cho những người có công lên đến hơn một vạn triệu đồng tiền.
Trước đấy mười năm, sông Hoàng Hà vỡ đê ở huyện Quan; đất Lương và
đất Sở đã mấy lần bị khốn khổ, còn các quận ở ven sông trước đây đã đắp đê để
giữ nước, mỗi khi đê vỡ lại phí tổn không thể kể xiết. Sau đó, Phiên Huệ muốn
giảm bớt việc chuyên chở bằng đường sông qua Để Trụ, sai đào sông đào xuyên qua
sông Phàn và sông Hoàng Hà, và lợi dụng con sông đào ấy để tưới ruộng. Số người
làm đến mấy vạn. Trịnh Đương Thời cho rằng con sông đào của sông Vị quanh co và
xa nên sai đào một con sông chạy thẳng từ Tràng An đến Hoa Âm; người làm đến
mấy vạn. Ở Sóc Phương cũng đào một con sông đào có mấy vạn người làm. Mỗi việc
như thế đều kéo hai ba năm nhưng vẫn chưa xong và đều phí tổn gần nghìn triệu.
Thiên tử muốn đánh quân Hồ, nên sai nuôi rất nhiều ngựa, ngựa chăn
ở Tràng An đến mấy vạn con, lính ở Quan Trung không đủ người chăn nuôi bèn điều
động những người ở các quận gần đấy.
Lại thêm những người Hồ đã đầu hàng đến, việc ăn mặc của họ đều do
quan sở tại. Quan sở tại cung cấp không đủ. Nhà vua bớt việc ăn uống của mình,
tháo xe xe tứ mã, đem những của cải cất giấu trong kho riêng của mình ra cho để
cứu tình trạng này.
Năm sau, phía đông núi bị nạn lụt, dân nhiều người vị thiếu ăn.
Thiên tử bèn sai sứ giả dốc tất cả kho lúa trong các quận và các nước để phát
chẩn cho dân nghèo nhưng vẫn không đủ: lại kêu gọi những người giàu có cho vay,
nhưng dân chúng vẫn không cứu được nhau. Nhà vua bèn cho dời dân nghèo đến phía
tây Quan Trung và phía nam đất Sóc Phương ở Tân Tần, tất cả bảy mươi vạn miệng
ăn, việc ăn mặc đều do quan địa phương cung cấp. Trong mấy năm, người ta cấp
cho họ sản nghiệp. Các sứ giả phân họ ra từng bộ phận để coi sóc. Các quan đông
đến nỗi mũ lọng liền nhau, tiền phí tổn đến hàng ức không sao kể xiết (27).
--------------------------
25. Quan lại thấy ai biết mà không tố giác thì khép vào tội “kiến
tri” (thấy biết).
26. Đây chỉ Hoắc Khứ Bệnh.
27. Đoạn 4 – Tình hình kinh tế nguy ngập do những nguyên nhân
khác: thiên tai, đào sông, di dân, nuôi người Hồ v. v…
--------------------------
5. Do đó, quan địa phương hết sạch tiền, nhưng bọn con buôn nhà
giàu và chủ những cửa hiệu lớn thì có kẻ cất giấu của cải để nô dịch người
nghèo; chở hàng trăm xe những đồ tích trữ không dùng cất ở ấp. Các vị vua có
đất phong đều cúi đầu xin họ cung cấp. Trong việc đúc tiền và nấu muối, có
những người có hàng vạn cân vàng nhưng họ vẫn không giúp nước nhà trong lúc
nguy cấp và dân nghèo lại càng nghèo khổ. Do đó, thiên tử và cửu khanh bàn nhau
thay đổi tiền làm ra “tệ” (28) để chi dùng đồng thời trừng trị bọn hoang dâm và
bọn chiếm đoạt. Lúc bấy giờ trong vườn cấm của nhà vua có con nai trắng, trong
kho riêng của nhà vua lại có nhiều thiếc và bạc. Từ thời Hiếu Văn đã nghĩ ra
cách đúc nhiều thứ tiền bốn thù đến nay đã hơn bốn mươi năm nhưng từ niên hiệu
Kiến Nguyên đến nay, người ta ít dùng thứ tiền ấy. Các quan địa phương có nhiều
người đến những núi đồng để đúc tiền, trong nhân dân cũng đúc trộm tiền, cho nên
số tiền tính không xuể.
Tiền càng nhiều và mất giá, hàng hóa càng ít và quý (29). Quan phụ
trách nói:
- Đời xưa có thứ tiền bằng da, chư hầu dùng thứ tiền ấy để biếu.
Có ba loại kim khí. Cao nhất là vàng, rồi đến kim khí trắng (bạc) là thứ hai, kém
nhất là kim khí đỏ (đồng). Nay tiền danh nghĩa là một nửa lạng nhưng thực ra
chỉ nặng bốn thù, thế mà bọn giàu hay bọn ăn trộm còn mài tiền ở phía trong để
lấy bớt kim khí mà đúc thêm. Tiền càng nhẹ và mỏng thì vật giá càng quý, như
thế ở phương xa dùng tiền tệ rất phiền và tốn kém.
Bèn sai cắt da con nai trắng ra thành từng mảnh vuông mỗi bề một
thước, xung quanh viền rong biển, định giá mỗi miếng da như vậy là bốn mươi vạn
đồng tiền. Các vương hầu, tôn thất đến chầu, đều phải dâng ngọc bích đặt trên
thứ tiền ấy, sau đó mới được đi. Lại làm thứ tiền bằng bạc pha thiếc gọi là kim
khí trắng. Người ta cho rằng ở trên trời thì không gì bằng con rồng, ở dưới đất
thì không gì bằng con ngựa, vật người ta dùng thì không gì quý bằng con rùa.
Cho nên có ba thứ kim khí trắng: loại thứ nhất, nặng tám lạng hình tròn, có
khắc rồng, tên gọi là bạch tuyền, giá ba nghìn; loại thứ hai, nặng ít hơn, hình
vuông vẽ hình con ngựa, giá năm trăm; loại thứ ba, nhỏ hơn nữa, hình chữ nhật,
vẽ hình rùa, giá ba trăm. Sai các quan địa phương đúc tiền nửa lạng thay thứ
tiền ba thù, chữ đề bao nhiêu thì nặng bấy nhiêu. Kẻ nào đúc trộm tiền các loại
thì bị tội chết. Nhưng quan lại cũng như nhân dân vẫn đúc trộm “kim khí trắng”
không kể xiết.
Do đó, nhà vua cho Đông Quách Hàm Dương và Khổng Cần làm đại nông
thừa để lo việc muối và tiền, cho Tang Hoằng Dương được làm thị trung để tính
toán. Hàm Dương là một người nấu muối lớn ở Tề, Khổng Cần là một người nấu kim
khí lớn ở Nam Dương. Họ đều có sản nghiệp ngàn cân vàng cho nên Trịnh Đương
Thời tiến cử với nhà vua. Tang Hoằng Dương là con một nhà bán hàng ở Lạc Dương
giỏi tính nhẩm, nên năm 13 tuổi làm thị trung (30). Ba người này khi bàn việc
lợi thì phân tích đến chân tơ kẻ tóc.
Vì pháp luật ngày càng nghiêm ngặt nên quan lại nhiều người bị
giáng và bị bãi. Việc chiến tranh lại xảy ra luôn. Nhân dân nhiều người xuất
tiền để miễn giao dịch và mua tước ngũ đại phu. Số người bị trưng dụng đi hành
dịch ngày càng ít. Do đó, bổ những người tước thiên phụ, ngũ đại phu làm lại;
những người nào không muốn thì phải nộp ngựa (31): những người trước đây làm
lại đều phải đi cắt cỏ ở Thượng Lâm, đào ao Côn Minh. Năm sau (119 trước công
nguyên) đại tướng quân và phiêu kỵ tướng quân đem đại quân ra đánh quân Hồ bắt
được tám chín vạn tên, được thưởng năm mươi vạn cân vàng, quân Hán chết hơn
mươi vạn con ngựa. Đó là chưa nói đến khoản tốn kém về việc vận chuyển bằng xe
và bằng đường sông. Lúc bấy giờ của cải thiếu, quân sĩ nhiều người không được
lương.
Quan phụ trách nói:
- Tiền ba thù nhẹ, dễ làm gian, xin các quận và các nước đúc tiền
năm thù, xung quanh có vành tròn để không thể mài lấy đồng đi mà đúc thêm tiền.
Các quan giúp việc đại nông về việc muối và sắt là Khổng Cần và
Hàm Dương nói với nhà vua:
- Núi và biển là nơi cất giấu của cải của trời đất; nên cho nó
thuộc vào kho riêng của nhà vua. Bệ hạ không lấy làm của riêng của mình mà cho
nó thuộc vào đại nông như thế đã làm tăng của công. Xin mộ dân tự do lấy phí
tổn, dùng các khí mãnh của quan để nấu muối và cho quan mượn chậu. Những người
làm nghề tạm bợ muốn lũng đoạn cái lợi của núi và biển để làm giàu bắt dân phải
nô dịch theo mình.
Họ đưa rất nhiều cách cản trở những người này: người nào dám đúc
đồ sắt cho mình và nấu muối riêng cho mình thì bị xích chân trái, tịch thu dụng
cụ. Ở những quận không sản xuất sắt thì đặt quan “tiểu thiết”. Những người này
phụ thuộc vào huyện của họ. Nhà vua sai Khổng Cần, Đông Quách Hàm Dương đi xe
trạm khắp thiên hạ lo việc muối và sắt, đặt những quan phủ (32), cho những
người trước đây làm nghề muối và sắt mà giàu có được làm quan. Cách làm quan
lại càng phức tạp, không đặt vấn đề chọc lọc và có nhiều người con buôn trong
số quan lại. Những người thương nhân và bán hàng vì tiền tệ thay đổi luôn nên
nhiều người chứa chất hàng hóa để kiếm lời (33). Do đó các công khanh nói:
- Các quận và các nước nhiều lần bị thiên tai thiệt hại, dân nghèo
không có sản nghiệp được mộ đi đến những nơi béo bở và rộng rãi. Bệ hạ bớt ăn
giảm tiêu, đem tiền của mình để giúp cho dân chúng, tha thuế thân và tha nợ,
nhưng dân không phải tất cả đều làm ruộng, những người buôn bán rất đông. Người
nghèo không cất giấu được gì đều nhờ quan ở quan địa phương. Trước kia người ta
đánh thuế những xe nhỏ (của những người đi buôn) thì số tiền của những người đi
buôn cũng bớt đi; vậy xin đánh thuế như trước. Những người buôn lo cái việc
ngọn, mua sỉ và cho vay, lo cất giấu ở thành phố, tàng trữ để lấy lời, cũng như
những người đi buôn để kiếm lời thì dù cho không ở trong số những người buôn
bán ở chợ, cũng đều phải ước lượng của cải của họ. Cứ hai nghìn đồng tiền vốn
thì phải nộp một “toán” (34). Còn những thợ thủ công cất giữ những vật liệu để
sau này làm các đồ dùng để bán thì cứ bốn nghìn đồng vốn lấy một “toán” (35).
Những người không phải quan lại, nhưng có thể xem như quan lại là các tam lão
(36) hay kỵ sĩ ở biên giới, nếu có một cái xe nhỏ thì phải nộp một “toán”,
thuyền to năm trượng trở lên nộp một “toán”. Ai giấu diếm không khai hay khai
không đủ thì đưa ra biên giới đi thú một năm và lấy tất cả gia sản. Ai tố cáo
ra thì thưởng cho một nửa, những người bán hàng có tên trong sổ và những người
bà con của họ đều không được có ruộng theo tên của mình, như thế để lợi cho
những người cày, ai dám phạm lệnh thì sung công tất cả ruộng và tôi tớ của họ.
Thiên tử bấy giờ nghĩ đến lời của Bốc Thức nên mời Bốc Thức làm
trung lang, tước tả thứ trưởng thưởng cho mười khoảnh ruộng và báo cáo điều đó
với thiên hạ để cho mọi người biết. Bốc Thức là người Hà Nam lo việc chăn nuôi
và làm ruộng. Khi cha mẹ chết đi, Thức có một người em nhỏ. Khi người em lớn
lên, Thức nhường tất cả gia tài cho em chỉ lấy một trăm con cừu, còn ruộng
vườn, cửa nhà, của cải đều cho em hết. Thức vào núi chăn cừu hơn mười năm. Số
cừu lên đến hàng nghìn con. Thức mua ruộng vườn nhà cửa, trái lại người em thì
lại phá hết cả sản nghiệp. Thức lại chia gia sản cho em. Làm như thế đến mấy
lần. Lúc bấy giờ, nhà Hán đã mấy lần sai tướng quân đánh Hung Nô. Bốc Thức dâng
thư xin nộp một nửa gia sản cho quan địa phương để giúp vào việc biên giới.
Thiên tử sai sứ giả hỏi Thức:
- Có muốn làm quan không?
Thức đáp:
- Tôi từ nhỏ chỉ chăn nuôi không quen làm quan nên không muốn.
- Thế trong nhà có điều gì oan ức muốn bày tỏ không?
- Tôi bình sinh không tranh chấp với ai, trong làng xóm có ai
nghèo thì tôi cho mượn, có ai hư hỏng thì tôi dạy dỗ, những người ở nơi tôi đều
nghe theo tôi. Thức có việc gì mà bị người ta làm oan uổng, tôi không có gì
muốn nói.
- Thế ông muốn gì?
- Thiên tử giết Hung Nô, tôi là người ngu dại cho rằng người hiền
thì nên chết vì bổn phận ở biên giới, người có của cải thì nên đem nộp. Như vậy
mới có thể tiêu diệt được Hung Nô.
Sứ giả kể lại đầu đuôi những lời Bốc Thức nói với thiên tử. Thiên
tử nói với thừa tướng. Thừa tướng Công Tôn Hoằng nói:
- Đó không phải là tình cảm tự nhiên của con người, như thế là
ngược đời. Thần không thể vì ông ta mà thay đổi, làm rối loạn pháp luật, xin bệ
hạ đừng nghe ông ta.
Do đó, nhà vua lâu không trả lời Bốc Thức. Được mấy năm nhà vua
lại bãi Thức. Thức trở về nhà, lại lo cày ruộng chăn nuôi được hơn một năm.
Nhân lúc quân nhà Hán mấy lần ra đánh, vua Hồn Gia đầu hàng, quan địa phương
tiêu tốn kém, các kho lúa trống không. Năm sau dân nghèo bị dời đi hàng loạt,
tất cả chỉ nhờ quan địa phương cung cấp nhưng quan địa phương không sao cung
cấp đủ. Bốc Thức mang hai mươi vạn đồng tiền đưa cho quan thái thú Hà Nam để
cấp cho những người dân bị dời đi. Quan thái thú Hà Nam dâng lên cho nhà vua
xem danh sách những người giàu đã giúp đỡ người nghèo. Nhà vua thấy có tên Bốc
Thức sực nhớ lại, nói:
- Đây hẳn là con người trước đây muốn nộp nửa gia sản để giúp vào
việc biên giới.
Bèn thưởng cho Bốc Thức được hưởng số tiền bốn trăm người nạp để
được miễn giao dịch. Thức lại đem tất cả số tiền ấy cho quan địa phương. Lúc
bấy giờ những người giàu có và tai mắt đều đua nhau giấu diếm của cải, chỉ có
Thức đem của mình nộp để giúp vào việc chi tiêu, vì vậy nhà vua cho rằng Thức
trước sau là bậc trưởng giả cho nên đề cao Thức để cho trăm họ bắt chước.
Lúc đầu, Thức không muốn làm quan lang, nhà vua nói:
- Trong vườn Thượng Lâm ta có cừu, ta muốn sai nhà ngươi chăn.
Thức bèn lạy và làm quan lang. Thức mặc áo vải, đi guốc chăn cừu.
Được hơn một năm, cừu béo và sinh đẻ nhiều. Nhà vua đến xem cừu của mình thì
khen.
Thức nói:
- Không phải chỉ riêng việc nuôi cừu mà thôi đâu, việc cai trị dân
cũng như thế. Cho họ dậy làm việc và đi ngủ đúng lúc, người nào xấu hổ thì đuổi
đi, đừng cho họ làm hại cả đoàn.
Nhà vua cho Thức là người kỳ lạ bèn cho làm quan lệnh ở Hầu Thị để
xem thử. Dân Hầu Thị thích Bốc Thức, nhà vua bèn cho Thức làm quan lệnh ở Thành
Cao lo việc vận chuyển đường sông - rất có công trạng. Nhà vua cho Bốc Thức là
người trung bèn cho làm thái phó của Tề Vương.
Sau khi Khổng Cần sai thiên hạ đúc và làm đồ bằng sắt được ba năm,
ông ta được bổ làm đại nông và thuộc vào hàng cửu khanh. Còn Tang Hoằng Dương
thì làm đại nông thừa coi việc tính toán. Hai người dần dần đặt những “quân
thâu” (37) để lưu thông hàng hóa. Lần đầu nhà vua ra lệnh cho quan lại được nộp
lúa để làm quan lang đến chức lương sáu trăm thạch.
Sau khi làm thứ kim khí trắng năm thù được năm năm thì tha những
người quan lại và dân chúng phạm vào tội đúc trộm tiền. Số người chết về việc
đúc tiền đến mấy mươi vạn. Những người giết lẫn nhau không bị phát giác thì
không kể xiết. Từ khi lệnh ân xá ban ra, những người được tha đến hơn trăm vạn,
nhưng con số này chưa đến một nữa những người bị bắt. Hầu hết mọi người trong
thiên hạ đều liều lĩnh đúc tiền. Kẻ phạm tội nhiều quá, quan lại bắt và giết
không hết. Do đó vua sai bọn bác sĩ Chử Đại, Tử Yến chia nhau thành từng đoàn
đi khắp các quận và các nước trừ bỏ những bọn cướp đoạt của cải người khác và
các quan ở các nước, các quận (38) có tội. Ngự sử đại phu Trương Thang lúc bấy
giờ rất được quý trọng và tin dùng. Bọn Giảm Tuyên, Đỗ Chu làm trung thừa, bọn
Nghĩa Tung, Doãn Tề, Vương Ôn Thư dùng hình phạt thảm khốc, độc ác mà được làm
cửu khanh và bọn “trực chỉ” (39) như Hạ Lan lần đầu xuất hiện. Quan đại nông
Nhan Dị bị giết. Trước đấy Nhan Dị làm đình trưởng ở Tế Nam nhờ liêm khiết
chính trực nên được thăng chức đến cửu khanh. Sau khi nhà vua và Trương Thang
làm ra thứ tiền da nai trắng, nhà vua hỏi Nhan Dị. Nhan Dị nói:
- Ngày nay các vua và các hầu đến triều và chúc mừng mang ngọc
bích màu xanh giá nghìn vàng, nhưng cái da để lót ở dưới khi dâng lên giá bốn
mươi vạn. Như thế là gốc và ngọn không cân đối.
Nhà vua không bằng lòng. Trương Khanh lại có hiềm khích với Nhan
Dị. Có người tố cáo Nhan Dị về một việc khác. Nhan Dị nói chuyện với khách,
khách nói:
- Lúc đầu lệnh ban ra có chỗ bất tiện.
Dị không đáp, hơi nhọn môi. Trương Thang tâu lên nói:
- Nhan Dị làm đến chức cửu khanh nhưng thấy lệnh không tiện lại
không vào nói mà phỉ báng trong bụng. Dị bị ghép vào tội chết. Từ đó về sau mới
có đạo luật về tội “phỉ báng trong bụng” (40).
Vì vậy công khanh, đại phu phần lớn siểm nịnh, a dua để được yên
thân. Nhà vua đã ra lệnh về vấn đề tài sản của những người buôn và thợ thủ công
(41) và đề cao Bốc Thức, nhưng trăm họ rốt cuộc chẳng ai chia của cải để giúp
quan địa phương. Do đó nhà vua cho phép tố cáo tài sản của những người buôn bán
(42) theo như lời tâu của Dương Khả. Trong các quận và các nước nhiều người đúc
tiền giả, tiền phần lớn là nhẹ, các công khanh xin để kinh đô đúc thứ tiền
“chung quan” có vành đỏ, mỗi đồng giá bằng năm đồng tiền thường. Việc thuế và
việc công nếu không có thứ tiền vòng đỏ này thì không được. Tiền kim khí trắng
dần dần mất giá, dân không cho là quý và không dùng. Quan địa phương ra lệnh
cấm nhưng không ăn thua. Được hơn một năm thì tiền kim khí trắng bị bỏ không
dùng nữa. Năm ấy (115 trước công nguyên) Trương Thang chết nhưng dân không nghĩ
gì đến ông ta.
Hai năm sau, dân đã nghĩ ra cách đúc tiền có vành đỏ cho nên dùng
không tiện và thứ tiền này lại bị bỏ. Do đó, người ta cấm các quận và các nước
không được đúc tiền mà chỉ giao cho ba ông quan ở Thượng Lâm chuyên trách việc
đúc tiền. Tiền đúc nhiều nên có lệnh ban ra nói: trong thiên hạ không phải thứ
tiền của ba ông quan này thì không được lưu hành, tất cả những thứ tiền đúc
trước đây ở các quận và các nước đều bị bỏ và nấu chảy, đem đồng đưa cho ba vị
quan. Việc dân đúc tiền cũng ít đi, vì xét ra việc phí tổn nhiều không bỏ công
đúc, chỉ co những bọn đại gian và thợ chuyên nghiệp thì mới đúc trộm.
Bốc Thức làm thừa tướng nước Tề trong khi việc tố cáo gia sản của
thương nhân do Dương Khả đề xướng phổ biến khắp thiên hạ. Những gia sản trung
bình trở lên đều bị tố giác. Đỗ Chu xét xử họ. Những người vào ngục, ít người
được tha. Nhà vua lại sai ngự sử, đình úy chính giám chia ra từng ban đến xét
các quận và các nước về những gia tài của thương nhân, được của cải và tiền bạc
của dân kể đến hàng ức, nô và tỳ hàng ngàn, vạn, ruộng ở huyện lớn vài trăm
khoảnh, huyện nhỏ hơn trăm khoảnh, nhà cửa cũng thế. Do đó, bọn buôn bán từ
hạng trung bình trở lên nói chung đều phá sản, dân lo ăn ngon mặc đẹp để qua
ngày chứ không nghĩ đến việc cất giấu gây dựng gia sản nữa. Các quan địa phương
nhờ có muối, sắt và gia sản của thương nhân cho nên của cải tiêu dùng càng
nhiều.
Nhà vua mở rộng thêm Quan Trung đặt thêm hai miền phụ cận ở bên tả
và bên hữu. Lúc đầu quan đại nông cai quản việc muối và sắt, đặt quan nhiều,
đặt chức thủy hành để lo việc muối và sắt, đến khi Dương Khả đưa ra việc tố
giác gia sản thương nhân thì của cải và sản vật ở Thượng Lâm rất nhiều, bèn cho
quan thủy hành coi Thượng Lâm. Thượng Lâm cất của đầy tràn cho nên mở nó thêm
rộng.
Lúc bấy giờ, quân Việt muốn dùng thuyền để tranh đua với quân Hán,
nhà vua bèn sai đào rộng thêm và sửa sang ao Côn Minh, xung quanh là những lầu
bao vây để xem, làm những lầu thuyền cao hơn mười trượng ở trên có cờ xí rất là
tráng lệ. Nhà vua cảm thấy thích, bèn sai làm đài Bá Lương cao mấy mươi trượng,
từ đấy cung thất xây càng đẹp. Lại chia số tiền lấy được của thương nhân cho
các quan; các quan thủy hành, thiếu phủ, đại nông, thái bộc đều đặt những nông
quan luôn luôn đến các quận và các huyện, đến những ruộng đất đã tịch thu được
để về cày cấy; còn những nô tỳ tịch thu được thì chia ra các vườn để nuôi chó,
nuôi ngựa, chim và thú vật và cho các quan. Đặt rất nhiều viên quan mới (43).
Người ta sai dời nhiều bọn nô tỳ đi để lo việc vận chuyển trên sông, vận chuyển
được bốn trăm vạn thạch, các quan tự mua thóc và có đủ thóc.
Sở Trung nói:
- Con em các nhà dòng dõi cùng với những người giàu có, có người
chơi chọi gà, cho chó săn chạy, chơi ngựa, săn bắn, đánh bạc, làm rối loạn dân
lành.
Nhà vua bèn cho điều tra những người phạm tội này, họ tố cáo lẫn
nhau đến mấy ngàn người. Người ta gọi họ là “những người mang tội chọi gà”.
Những người nào nộp bạc thì được làm quan lang, việc đề cử người làm quan lang
càng kém sút (44). Năm ấy ở phía đông núi bị nước sông Hoàng Hà gây tai hoạ,
lại thêm mất mùa. Như thế mấy năm, có người ăn thịt lẫn nhau ở trong một miền
một, hai ngàn dặm vuông. Thiên tử thương xót ban chiếu nói:
- Ở Giang Nam người ta đốt rẫy, dùng nước để giết cỏ (45). Cho
phép dân bị đói kém được di cư đến kiếm ăn ở giữa miền Trường Giang và sông
Hoài, ý muốn cho họ ở đấy.
Nhà vua lại sai các sứ giả đến để giúp đỡ cho họ, mũ và lọng của
các sứ giả thấy lố nhố trên đường. Nhà vua sai đem lúa từ đất Ba và đất Thục
xuống để phát chẩn cho họ.
Năm sau (112 trước công nguyên), nhà vua bắt đầu đi tuần các quận
và các nước. Nhà vua vượt sông Hoàng Hà ở phía đông, quan thái thú Hà Đông
không ngờ nhà vua đến, nên không chuẩn bị trước, do đó tự sát. Nhà vua vượt qua
đất Lũng Tây. Quan thái thú Lũng Tây vì việc nhà vua đi vội vàng, không cung
cấp lương thực được cho các quan theo hầu thiên tử, nên cũng tự sát. Nhà vua
bèn đi về phía bắc ra khỏi cửa Tiêu Quan, có mấy vạn quân kỵ đi theo, đi săn ở
đất Tân Tần để khuyến khích binh sĩ đồn thú ở biên giới rồi trở về. Ở Tân Tần
có khi đi nghìn dặm không có nơi canh phòng. Nhà vua vì vậy giết thái thú Bắc
Địa và các thuộc hạ của ông ta rồi ra lệnh cho dân được phép chăn nuôi ở những
huyện biên giới. Các quan cho họ mượn ngựa cái, sau ba năm thì trả ngựa lại, cứ
được mười con ngựa con thì trả lại cho nhà nước một con. Việc tố cáo tài sản
thương nhân bị bãi bỏ và việc tiêu dùng ở Tân Tần được đầy đủ.
Sau khi được cái vạc quý, nhà vua lập nhà thờ ở Thái Nhất để thờ
Hậu Thổ và Thái Nhất. Các công khanh bàn việc phong thiện. Còn các quận và các
nước trong thiên hạ đều chuẩn bị là đường, làm cầu, tu bổ lại những cung cũ. Ở
những huyện xe ngựa nhà vua sẽ đi qua, các quan địa phương chuẩn bị đón tiếp
đầy đủ chờ đợi nhà vua đi đến. Năm sau (111 trước công nguyên), nước Nam Việt
làm phản, Tây Khương xâm phạm cướp bóc ở biên giới. Nhà vua cho phía đông núi
không đầy đủ lương thực, xá tội thiên hạ (46) dùng những thuyền lầu ở phương
nam chở hơn hai mươi vạn quân đánh Nam Việt, đem mấy vạn quân kỵ từ Tam Hà qua
phía tây đánh Tây Khương, lại sai mấy vạn người vượt qua sông Hoàng Hà xây
thành Linh Cư. Lần đầu tiên đặt các quận Trương Dịch, Tửu Tuyền; còn ở Thượng
Quận, Sóc Phương, Tây Hà, Hà Tây thì đặt quan lo việc khai khẩn ruộng đất; đày
sáu mươi vạn binh lính đến làm ruộng và canh phòng ở đấy. Việc đắp đường vận
chuyển cung cấp lương thực nơi xa nhất đến hai ngàn dặm, nơi gần nhất đến hơn
ngàn dặm, tất cả đều nhờ quan đại nông cung cấp. Vì không có đủ binh khí đưa ra
biên giới, nhà vua bèn sai phát những binh khí ở kho vũ khí do những người thợ
nhà vua làm để cung cấp cho họ. Ngựa kéo xe và ngựa cưỡi thiếu thốn, quan địa
phương ít tiền khó lòng mua được ngựa, nhà vua bèn ra lệnh từ các vua có đất
phong trở xuống đến các quan lương ba trăm thạch lúa trở lên đều theo thứ bậc
mà cấp ngựa cái. Trong các đình trong thiên hạ đều nuôi ngựa cái, do đó ngựa
mỗi năm mỗi nhiều và tốt.
Thừa tướng nước Tề là Bốc Thức dâng thư nói:
- Tôi nghe nói nhà vua lo thì bầy tôi nhục, nay Nam Việt làm phản,
cha con tôi xin tình nguyện đến đấy với những người Tề quen sử dụng thuyền
quyết sống chết với họ.
Nhà vua ban chiếu nói:
- Bốc Thức tuy lo cừu và chăn nuôi nhưng không phải để mưu lợi cho
mình, hễ có của thừa là đem giúp cho quan địa phương để tiêu dùng. Nay thiên hạ
không may có việc nguy cấp mà cha con Bốc Thức lại hăng hái tình nguyện xin
chịu chết vì nạn nước. Tuy ông ta chưa ra đánh trận nhưng có thể thấy lòng
trung nghĩa ở trong lời yêu cầu. Ban tước Quan nội hầu, thưởng cho sáu mươi cân
vàng, mười khoảng ruộng.
Tờ chiếu được loan báo trong tất cả thiên hạ, nhưng thiên hạ không
ai hưởng ứng. Liệt hầu có hàng trăm nhưng không ai muốn theo quân nhà vua để
đánh quân Khương và quân Việt. Đến khi làm lễ hiến vàng vào lễ tế rượu, quan
coi kho của nhà vua xét lại số vàng thì thấy các hầu mắc tội thiếu vàng hơn một
trăm người (47). Nhà vua bèn cho Bốc Thức làm ngự sử đại phu. Sau khi Bốc Thức
làm chức này, ông ta nhận thấy các quận và các nước phần lớn không cho quan địa
phương quản lý việc làm muối làm sắt là tiện; đồ sắt thì xấu, giá lại đắt; lại
có người ép dân phải mua và bán muối và sắt; thuyền bị đánh thuế, người buôn ít,
và vật giá đắt; bèn dựa vào lời của Khổng Cần trình bày về việc đánh thuế
thuyền. Do đó nhà vua không thích Bốc Thức.
Nhà Hán đánh nhau trong ba năm liền: diệt Khương, tiêu diệt Nam
Việt, lần đầu tiên đặt 17 quận từ Phiên Ngung tới phía tây đến phía nam đất
Thục. Lại theo tục cũ của họ mà cai trị, không bắt nộp các thứ thuế. Các quận
từ Nam Dương, Hán Trung trở đi cứ theo thứ tự xa gần mà cung cấp cho các quận
mới đặt. Các quan lại và binh sĩ có đủ lương ăn, tiền, đồ vật, xe và ngựa đầy
đủ. Tuy vậy, các quận mới lập vẫn luôn luôn làm phản giết quan lại. Nhà Hán đem
hơn một vạn binh lính và quan lại ở phương nam đến đánh mất một năm, tất cả
việc tiêu dùng đều do quan đại nông cung cấp. Quan đại nông cung cấp đầy đủ là
nhờ các “quân thâu” và nhờ ở chỗ đánh thuế muối và sắt. Nhưng nơi nào binh sĩ
đi qua, các quan địa phương chỉ dám nói không để cho họ thiếu thốn chứ không
dám nói làm theo đúng các đánh thuế như bình thường (48).
--------------------------
28. “Tệ” chỉ bất kỳ vật gì có thể thay tiền mặt.
29. Tư Mã Thiên có những suy nghĩ rất sâu sắc.
30. Cả ba đều là thương nhân.
31. Người ta sợ làm quan vì pháp luật rất nghiêm dễ phạm tội. Bây
giờ phải nộp tiền để khỏi làm quan.
32. Chức quan coi về sắt và muối.
33. Nhận xét thú vị.
34. Hai mươi đồng.
35. Có sự phân biệt về thuế giữa thương nhân và thợ thủ công.
36. Xem chú thích ở Cao Tổ bản ký.
37. Chức quan, nghĩa đen là làm cho đều và chuyên chở nhiệm vụ là
làm bình ổn vật giá.
38. Nguyên văn “thú, tướng”, thú là quan coi một quận, tướng là vị
quan giúp một “vương” coi một nước.
39. Chức quan có nhiệm vụ điều tra các tham quan ô lại.
40. Nhận xét khách quan nhưng rất mỉa mai.
41. Xem ở trên trong đoạn này.
42. Nguyên văn “dẫn tiền”: dẫn là tài sản của thương nhân và thợ
thủ công, không phải do cày và nuôi tằm mà có.
43. Chỉ những viên quan mới đặt ra để quản lý các tài sản lấy được
của thương nhân.
44. Nộp bạc không những khỏi tội mà còn làm quan.
45. Làm cỏ xong, cho nước vào, cỏ chết.
46. Mục đích là để sung những người tù làm lính. Quân đội đời Hán
một phần lớn là tù được tha vì đã chịu đi lính.
47. Năm 112 trước công nguyên, Vũ Đế yêu cầu các hầu phải nộp một
số vàng làm tế lễ (nhưng thật ra để có tiền đánh Nam Việt). Trong số 241 người
có đến 106 người bị tội thiếu vàng.
48. Đoạn 5 – Các biện pháp đưa ra để bổ cứu tình trạng thiếu hụt.
--------------------------
6. Năm sau (110 trước công nguyên) niên hiệu Nguyên Phong năm thứ
I, Bốc Thức bị giáng làm quan thái phó của thái tử; còn Tang Hoằng Dương nhờ
việc làm trị túc đô úy, được làm chức đại nông, thay Khổng Cần quản lý tất cả
muối và sắt trong thiên hạ. Hoằng Dương cho rằng vì các quan tranh nhau buôn
bán theo ý mình cho nên vật giá mới nhảy vọt và việc thuế khóa thu nhập trong
thiên hạ có khi không đủ bù vào các phí tổn chuyên chở bèn xin nhà vua đặt mấy
mươi người thuộc hạ của bộ phận đại nông, chia nhau cai quản các quận và các
nước. Họ luôn luôn đến các huyện đặt các quan “quân thâu” và các quan lo về
muối và sắt, ra lệnh cho các phương xa đều nộp những sản vật của mình và những
vật mà các thương nhân chuyên chở lúc giá đắt để thay thuế. Những người này lại
chuyên chở sản vật cho nhau. Các quan “bình chuẩn” ở kinh đô có trách nhiệm
nhận các hàng hóa trong thiên hạ và đưa đến các nơi, gọi những người thợ của
nhà nước làm xe và các đồ vật cần cho việc vận chuyển và những người này đều do
đại nông nuôi. Các quan ở bộ phận đại nông nắm tất cả vật sản trong thiên hạ,
khi đắt thì bán, khi rẻ thì mua, do đó bọn phú thương và chủ hiệu buôn lớn
không thể lấy được nhiều lời mà phải quay trở về nghề nông, vật giá nhờ vậy
không nhảy vọt và điều hòa được giá cả trong thiên hạ. Công việc đó gọi là
“bình chuẩn”. Nhà vua cho là phải, cho phép thi hành. Sau đó nhà vua đi phía
bắc đến Sóc Phương, phía đông đến Thái Sơn, đi tuần ven biển đến biên giới phía
bắc rồi trở về, đến đâu cũng thưởng. Đồ thưởng đến hơn một trăm vạn tấm lụa,
tiền và vàng đến hằng trăm vạn. Nhưng đều nhờ có quan đại nông cung cấp đầy đủ.
Tang Hoằng Dương lại xin ra lệnh cho phép các thuộc lại được nộp
lúa để làm quan và những người có tội được nộp tiền để chuộc tội. Lệnh ban ra
người nào đưa lúa đến đất Cam Tuyền thì theo thứ tự được miễn giao dịch suốt
đời. Người ta không tố cáo tài sản của thương nhân nữa. Các quận và các nước
đều chở thóc đến những nơi cần có thóc ngay, và những người cày đều nộp thóc. Ở
phía đông núi, việc vận tải bằng sông thêm nhiều, mỗi năm đến 600 vạn thạch.
Trong một năm, kho Thái Thương và kho Cam Tuyền đều đầy tràn, ở biên giới thừa
thóc và mọi vật, một năm số lụa chuyển vận trên một trăm vạn tấm. Dân không bị
tăng thuế mà thiên hạ dùng được dồi dào. Do đó, Tang Hoằng Dương được thưởng
chức tả thứ trưởng lại được thưởng một trăm cân vàng lần hai. Năm ấy có hạn
nhỏ. Nhà vua ra lệnh cho các quận cầu mưa. Bốc Thức nói:
- Các quan địa phương chỉ nên lấy tô và thuế để ăn và mặc thôi,
nay Tang Hoằng Dương lại sai bọn thuộc lại bày hàng ở ngoài chợ, bán các đồ vật
để kiếm lời, cứ nấu Tang Hoằng Dương đi thì trời sẽ mưa (49).
--------------------------
49. Đoạn 6 – Biện pháp của Tăng Hoằng Dương
--------------------------
7. Thái Sử Công nói:
Để giao dịch giữa công, nông, thương xuất hiện các thứ tiền tệ: vỏ
rùa, vỏ sò, vàng, tiền, đao (50), vải. Nguồn gốc các thứ tiền tệ đã có từ lâu.
Kể từ họ Cao Tân trở về trước thì đã xa lắm, không biết gì để chép. Cho nên
Kinh Thư nói đến việc xảy ra trong thời vua Nghiêu vua Thuấn. Kinh thi thuật
lại thời Ân thời Chu. Khi trong nước yên ổn thì đưa người lớn vào học các nhà
tường, nhà tự; trước kia chú trọng đến gốc là nghề nông, bỏ ngọn là nghề
thương; dùng lễ nghĩa để đề phòng cái việc ham lợi. Sự việc biến đổi nhiều cho
nên người ta làm trái với điều phải. Khi nào sự vật đã thịnh rồi cũng đến lúc
suy, thời thế lên đến cùng cực rồi cũng quay trở lại (51). Thời đại trước chất
phác thì thời đại sau văn hoa, đó là sự biến đổi của sự vật. Trong thiên Vũ
cống (những cống vật nộp cho Hạ Vũ - N.D) thì chín châu đều nộp những sản vật
đất mình có và dân tương đối nhiều. Vua Thành Thang và Vũ Vương kế tiếp theo
những thời đại hư hỏng nên dễ thay đổi để cho dân khỏi mỏi mệt. Hai người đều
lo lắng nên dân được trị an. Nhưng tình hình mỗi ngày một kém. Tề Hoàn Công
dùng mưu của Quản Trọng hiểu cái phép nặng nhẹ tìm cách lấy lợi ở núi và ở
sông, làm cho chư hầu phải thần phục, khiến nước Tề nhỏ bé nổi tiếng làm nên
nghiệp bá. Nước Ngụy dùng Lý Khắc làm hết cái sức của đất, làm nhà vua được
mạnh. Từ đó về sau, thiên hạ mắc vào những cuộc tranh giành của thời Chiến
Quốc, chú trọng dối trá và võ lực mà coi thường nhân nghĩa, coi trọng của cải
mà đánh giá thấp sự khiêm tốn nhún nhường; cho nên có những người thương nhân
giàu đến hàng trăm triệu mà lại có những người nghèo cứ phải ăn cám không biết
chán. Có những nước mạnh thôn tính các nước nhỏ bắt chư hầu phải thần phục. Lại
có những nước yếu phải tuyệt tự và tiêu diệt. Đến đời Tần, cuối cùng lấy tất cả
thiên hạ. Trong thời Ngu và Hạ có ba thứ tiền tệ: có thứ vàng, có thứ trắng, có
thứ đỏ. Người ta hoặc dùng tiền hoặc dùng vải, hoặc dùng dao hoặc dùng mai rùa,
vỏ sò. Đến đời Tần thì tiền tệ trong nước chia làm ban hạng: hạng tiền tệ cao
là vàng tính mỗi dật là một đơn vị (52), thứ tiền kém là tiền đồng nửa lạng,
cũng nặng như chữ ghi trong đồng tiền; còn các loại châu ngọc, mai rùa, vỏ sò,
bạc thiếc v. v… thì dùng làm đồ vật và trang sức được giữ làm của quý chứ không
dùng làm tiền tệ. Những thứ này đều theo thời nặng nhẹ khác nhau. Lúc đó bên
ngoài thì đánh Di và Địch, bên trong thì lo thưởng công lao; kẻ sĩ trong thiên
hạ ra sức cày không đủ cung cấp lương thực, đàn bà kéo sợi dệt vải không đủ để
cung cấp áo quần. Không khác gì đời xưa lấy tất cả của cải trong thiên hạ để
cung phụng nhà vua mà nhà vua vẫn không cho là đủ. Sự thể như dòng nước trôi
đi, sóng thúc vào nhau sinh ra như vậy. Có gì là lạ? (53)
--------------------------
50. Đao và vải là tên những thứ tiền giống hình con đao và tấm
vải.
51. Tư Mã Thiên nhận thấy được sự biến đổi của sự vật.
52. Một dật 20 lạng.
53. Đoạn 7 – Lời bàn của tác giả. Nhận xét của tác giả về tiền tệ
rất sâu sắc.
--------------------------
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét