HUYỀN TRANG
VÀ CÔNG CUỘC THỈNH KINH VÔ TIỀN KHOÁNG HẬU CỦA NHÂN LOẠI
Nguyễn Hiến Lê
Tam Tạng Pháp sư Đường Tăng; Thạch thất Đôn Hoàng, thế kỉ 9 |
Ông sinh năm 602 sau Công nguyên, năm
thứ 14 đời Tùy Văn Đế tại huyện Câu Thị (Lộ Châu; hiện là huyện Yêm Sư, tỉnh Hà
Nam), trong một gia đình vọng tộc. Tằng tổ là Trần Khâm được phong tước Khai quốc
quận công đời Bắc Nguỵ, tổ phụ là Trần Khuông làm quốc tử bác sĩ đời Bác Tề;
thân phụ là Trần Tuệ làm chức quan huyện ở Giang Lăng đời Tùy, sau thấy Tùy Dạng
Đế là một hôn quân, chán nản, từ quan về nhà dạy học. Ông tên thật là Trần Vĩ,
đứng hàng con út. Người anh thứ hai, Trần Tố, làm hòa thượng chùa Tịnh Độ (Lạc
Dương). Như vậy gia đình ông là một gia đình nhà nho, phát ở thời Nam Bắc Triều,
mà thời đó là một thời rất thịnh của đạo Phật ở Trung Quốc.
Đạo Phật bắt đầu vào Trung Quốc có lẽ
từ đời Tần, đến đời Hán ảnh hưởng còn ít; qua đời Đông Tấn và Nam Bắc Triều,
nhân xã hội Trung Hoa hủ bại, loạn lạc liên miên, dân chúng khổ sở, không tìm
được nơi an ủi ở đạo Nho, nên quay về đạo Lão, nhất là đạo Phật, mà đạo Phật mới
có cớ phát triển mạnh mẽ. Sử chép đời Bắc Triều đã có non 900 chùa Phật và tại
Lạc Dương, thầy sãi các nước họp nhau lại có trên ba ngàn người. Từ vua quan đến
dân chúng, ai cũng sùng bái đạo Phật. Tăng ni được hưởng nhiều quyền lợi: khỏi
bị đi lính, được miễn thuế, sưu, dịch; cho nên càng loạn lạc, càng nghèo khổ,
dân chúng lại càng chạy vào ẩn náu dưới cửa Phật. Người có của cũng xin đầu Phật,
để đất đai khỏi phải đóng thuế, thành thử đạo Phật bành trướng rất mau; đến đời
Bắc Ngụy, nhà chùa chiếm được một phần ba tổng số diện tích đất đai trong nước.
Cuối thời Nam Bắc Triều, nhà Châu thấy
nguy cơ cho triều đình, chủ trương diệt đạo Phật, bắt ba triệu tăng ni hồi tục
và ra lệnh phá rất nhiều chùa chiền. Nhưng đến cuối thế kỷ thứ VI, đạo Phật lại
phục hưng, rồi nhân chính sách bạo tàn của Tùy Dạng Đế làm cho dân chúng lầm
than, điêu đứng (ba lần chiến tranh với Cao Ly, động viên đến hơn một triệu
tráng đinh mà thua; một lần xuống Giang Nam ngắm quỳnh hoa nở, mà bắt sưu hơn một
triệu dân để đào kinh từ Lạc Dương đến Giang Đô), chùa chiền lại mọc lên rất
nhiều, mở rộng cửa đón những kẻ chán ngán thời cuộc hoặc trốn sưu lậu thuế.
Thân phụ Huyền Trang là một trong hạng
người chán ngán đó. Ông không quy y, vẫn giữ đạo Nho, nhưng ham đọc kinh của đạo
Lão và đạo Phật.
Huyền Trang, hồi tám tuổi đã thích lễ
nghi, tính tình nghiêm cẩn. Ít năm sau, một người anh là Tố quy y, Huyền Trang
được anh thỉnh thoảng giảng đạo Phật cho nghe, đâm mê, cũng muốn theo anh. Năm
13 tuổi ông lại chùa Tịnh Độ ở Lạc Dương, xin quy y. Mới đầu, nhà chùa còn do dự,
chê ông nhỏ tuổi quá, sau thấy ông thành tâm và thông minh lạ thường, nên chấp
thuận. Ông học hết các kinh của tiểu thừa, đại thừa rồi đến kinh Niết Bàn, giáo
lý rất cao siêu; học đến quên ăn quên ngủ.
Hồi đó là cuối đời Tùy, đầu đời Đường,
trong nước loạn lạc. "Kinh đô thành một ổ đạo tặc, mà miền Hồ Nam thành
cái hang mãnh thú, đường phố Lạc Dương đầy thây người".
Phải lánh đi nơi khác, Huyền Trang bàn
với anh qua Thành Đô (Tứ Xuyên), ngụ chùa Không Túc trong hai ba năm, tiếp tục
học hết kinh của các giáo phái.
Năm hai mươi tuổi, nội loạn đã chấm đứt,
ông về Trường An, kinh đô nhà Đường. Trường An là một đất Phật đầu tiên Trung
Hoa. Từ năm thế kỷ trước, những vị tu hành ở Ấn Độ qua cất chùa tại đó và dịch
những kinh tiểu thừa, đại thừa từ Phạn ngữ qua Hoa ngữ. Công việc dịch thuật đó
có thể chia làm hai thời kỳ:
- Từ Đông Hán đến Tây Tấn (khoảng 250
năm) dịch chưa có hệ thống gì cả.
- Từ Đông Tấn đến đầu đời Đường (khoảng
270 năm) đã thấy những dịch phẩm có giá trị, như bộ Pháp Hoa, bộ Đại Phẩm… Tuy
có thú vị về văn chương, nhưng chưa thật sát nghĩa. Dịch giả đại biểu cho thời ấy
là một người Tây Vực tên là Cưu Ma La Thập.
Ở Trường An, Huyền Trang ráng đọc hết
những kinh đã dịch, tìm những hòa thượng có danh tiếng để học đạo, nhưng ông nhận
thấy rằng họ cùng thờ Thích Ca Mâu Ni mà giáo thuyết của họ khác nhau xa quá,
có khi phản nhau nữa. Có bao nhiêu tôn phái là có bấy nhiêu chủ trương, làm cho
ông hoang mang, không nhận được đâu là đạo chính truyền.
Bất mãn, ông xin phép anh đi học đạo ở
khắp miền Bắc tại các vùng Xuyên Đông, (đông bộ tỉnh Tứ Xuyên) qua Hồ Bắc, Hà
Nam, Sơn Đông, Hà Bắc. Càng tìm hiểu, ông càng nảy ra nhiều nghi vấn, đã không
tin được các vị hòa thượng và nay trong những bản dịch kinh Phật ông cũng thấy
nhiều chỗ lờ mờ, mâu thuẫn, hoặc dịch sai. Vậy muốn hiểu rõ đạo thì chỉ còn một
cách là đến nơi phát tích của đạo Phật, tức Ấn Độ, để học tiếng Phạn rồi nghiên
cứu tại chỗ những kinh điển cổ nhất. Ý “Tây du” của ông phát sinh từ đó.
Năm Trinh Quán nguyên niên, năm đầu
triều vua Đường Thái Tôn (627 sau Công nguyên), Huyền Trang cùng với vài vị hòa
thượng nữa dâng biểu lên nhà vua xin phép qua Ấn du học. Truyện Tây du ký chép
rằng Đường Thái Tôn sai Tam Tạng đi thỉnh kinh, lại cho làm ngự đệ, cho lấy họ
nhà Đường, có lẽ để nịnh triều đình mà quy công cho nhà vua, chứ sự thật thì
khác hẳn; vua Thái Tôn không cho phép, vì nước mới được bình trị, vương quyền
chưa được vững, mà sự ngoại giao với các dân tộc ở phía Tây, tại Trung bộ Á
Châu lại chưa được tốt đẹp.
Đợi mãi không được nhép, các vị hòa
thượng cùng dâng biểu với ông, ngã lòng bỏ đi. Ông kiên nhẫn ở lại Tràng An, học
thêm tiếng Ấn Độ. Đêm ngày ông cầu nguyện các vị bồ tát cho ông đủ sáng suốt và
nghị lực thực hành nổi chương trình tây du của ông, mà ông biết là rất khó
khăn, phải qua nhiều nơi hiểm trở, hoang vu, trộm cướp.
Một đêm năm 629, ông nằm mộng thấy một
ngọn linh sơn ở giữa biển, bèn nhảy xuống để lội ra thì vừa lúc đó, một bông
sen xuất hiện, đỡ ông, đưa ông tới chân núi. Núi dựng đứng, leo không được, ông
chưa biết tính sao thì một ngọn cuồng phong bí mật nâng bổng ông lên tới ngọn
núi. Đứng trên núi nhìn chung quanh thấy cảnh bao la, rực rỡ. Ông thích quá, tỉnh
dậy.
Từ đó ông càng quyết tin rằng thế nào
cũng thành công và chính lòng quyết tin, mộ đạo đó đã giúp ông thắng mọi gian
nan sau này. Ít bữa sau, nhân miền chung quanh Tràng An bị nạn mưa đá mất mùa,
triều đình xuống chiếu cho phép dân ở kinh đô được đi nơi khác làm ăn, ông theo
nhóm người di cư, tiền về phương Tây, mở đầu cuộc du hành vạn lý.
Năm 629, ông 28 tuổi (tính theo phương
Đông), đến năm 44 tuổi mới trở về, tính ra xa quê luôn trong 16 năm.
Tuổi đó là tuổi hăng hái, tin tưởng,
mà bẩm tính ông lại nghiêm cẩn, ôn hòa, nên ông rất được nhiều người mến trọng.
"Nước da hơi sạm, mắt sáng. Vẻ mặt uy nghiêm, nét mặt tươi đẹp, rực rỡ. Giọng
nói trong trẻo, rõ ràng, ngôn ngữ cao nhã, hoa mỹ, du dương, ai nghe cũng
mê...". Nhìn ông, người ta nhận ngay thấy sự dung hòa của đạo Phật và đạo
Khổng - lòng từ bi, đại độ của Phật, đức lễ độ, sáng suốt của đạo Khổng. Ông vừa
thương người, vừa cương quyết, "trang nghiêm như đại giang, mà lại bình
tĩnh, rực rỡ như một bông sen nổi trên mặt nước".
Ta sẽ chia cuộc hành trình của ông làm
4 giai đoạn:
- Từ Tràng An tới Ngọc Môn quan, hết địa
phận Trung Quốc.
- Từ Ngọc Môn quan tới Kapica biên giới
địa phận Ấn Độ, qua những nước nhỏ ở Trung bộ châu Á.
- Giai đoạn ở Ấn Độ.
- Giai đoạn trên đường về; như độc giả
sẽ thấy, do một tình cờ mà ông theo một đường khác với lúc đi, thành thử ghi
chép thêm được nhiều nhận xét về một miền lúc đó còn bí mật.
°
Từ Tràng An ông tới Tần Châu (coi trên
bản đồ), Lan Châu, rồi Lương Châu (hiện nay là huyện Vỹ Uy, tỉnh Cam Túc).
Chắc độc giả đã quen với tên đó. Vương
Chi Hoán, một thi sĩ thời Thịnh Đường, được người đương thời tặng cho tên Thi
Thiên tử nhờ bài Lương Châu từ tả cảnh rừng núi hoang vu ở miền biên tái đó:
Hoàng
hà viễn thương bạch vân gian
Nhất
phiến cô thành vạn nhẫn san.
………………………………….
Ngay từ đời Đường, mà có lẽ từ trước nữa,
Lương Châu đã là ngã ba của các con đường mòn đưa những đoàn thương nhân từ
phương Tây hoặc từ Mông Cổ tiến vào Trung Hoa. Các thương nhân đó gồm rất nhiều
giống người, ngôn ngữ, phong tục khác nhau, họp chợ ở Lương Châu để trao đổi
hàng hóa, tin tức và chắc chắn cũng để do thám cho nên sự canh phòng rất nghiêm
mật. Đô đốc Lý Đại Lượng được lệnh phong tỏa, không cho người ngoài vô Trung Quốc
và người Trung Quốc lọt ra ngoài. Huyền Trang phải nấn ná chờ cơ hội, nhân dịp
đó ông thuyết pháp cho các thương nhân, người ta tạ ơn ông vật gì thì ông đem
cúng vào chùa hết. Hơn một tháng sau, nhân lúc lính canh trễ nải, ông trốn
thoát. Lý Đại Lượng sai vệ binh đuổi bắt; nhờ Pháp sư Tuệ Uy phái hai môn đệ là
Tuệ Lâm và Đạo Chỉnh đi theo bảo hộ, Huyền Trang mới thoát được. Họ đêm đi,
ngày trốn, lần mò đến Qua Châu (hiện là huyện Tây An, tỉnh Cam Túc) .
Thứ sử Qua Châu là Độc Cô Khai theo đạo
Phật, tuy biết lệnh của triều đình, nhưng làm lơ cho ông, lại chỉ dẫn đường đi
cho ông nữa. Từ Qua Châu tiến lên phía Bắc ít chục dặm tới Ngọc Môn quan, một cửa
ải nằm trên biên giới và ở bờ sông Hồ Lô, nước chảy xiết, gió rộng suốt ngày
đêm vì lòng sông rất lạ lùng; trên hẹp dưới rộng.
Cảnh ở đây thực làm rợn tóc du khách.
Một thế kỷ sau, nhà Đường đã bình phục những dân tộc ở phía Tây, vậy mà các thi
sĩ triều Minh Hoàng, chỉ nghĩ tới miền biên tái hoang vu, hiểm trở này cũng nổi
lên những giọng ai oán, mà thương cho những chinh phu phải đi thú ở đó và cho
những người vợ trẻ của họ ở nhà đăm đăm trông chồng:
QUAN
SƠN NGUYỆT
Minh
nguyệt xuất Thiên San,
Thương
mang vân hải gian,
Trường
phong kỷ vạn lý,
Xuy
độ Ngọc Môn quan,
Hán
há Bạch Đăng đạo,
Hồ
khuy Thanh Hải loan,
Do
lai chính chiến địa,
Bất
kiến hữu nhân hoàn,
Thú
khách vọng biên sắc,
Tư
quy đa khổ nhan,
Cao
lâu đương thử dạ,
Thán
tức vị ưng nhàn.
Lý
Bạch
DỊCH
Vừng trắng ra núi Thiên San,
Mênh mang nước bể mây ngàn đang soi.
Gió đây muôn dặm chạy dài,
Thổi đưa trăng sáng ra ngoài Ngọc Môn
Bạch đăng quân Hán đóng đồn,
Vùng kia Thanh Hải dòm luôn mắt Hồ.
Từ xưa bao kẻ chinh phu,
Đã ra đất chiến, về du mấy nguời?
Buồn trông cảnh sắc bên trời,
Giục lòng khách thú nhớ nơi quê nhà,
Lầu cao, đêm vắng, ai mà,
Đêm nay than thở ắt là chưa nguôi.
Tản
Đà dịch
Qua sông Hồ Lô, ra khỏi Ngọc Môn quan
rồi, lại phải tránh năm tòa phong hỏa đài, tức những đài báo hiệu bằng cách đốt
lửa lên khi có giặc tới, để cho người canh ngọn đài kế đó trông thấy, cũng đốt
lửa lên, như vậy truyền tin lần lần cho Ngọc Môn quan.
Mỗi đài cách nhau khoảng trăm dặm và đều
có lính canh, đều xây giữa một vùng hoang vu, thành thử ai muốn kiếm thức ăn,
nước uống phải đến chân phong hỏa đài, để rồi sẽ bị giam cầm, tra hỏi.
Thấy đường đi khó khăn, Huyền Trang lo
lắng. Ngựa ông bị bệnh, mới chết. Hai người mà pháp sư Tuệ Uy cho theo ông thì
một người sợ lệnh triều đình truy nã, đòi lộn về; còn một người ốm yếu quá,
không sao chịu nổi gian lao trên đường, ông cũng cho về nốt, thế là ông lại cô
độc. Ông mua một con ngựa khác, sửa soạn lên đường thì một người trong miền,
tên là Thạch Bàn Đà, xin theo làm đồ đệ.
Đêm đó hai thầy trò khởi hành, gặp một
ông già. Nghe Huyền Trang kể mục đích thỉnh kinh, ông già thán phục, nhưng
khuyên: “Thầy nên trở về đi, không tới nơi được đâu vì đường về phương Tây nguy
hiểm lắm; nếu gặp những đám cát di động hoặc những cơn gió lửa thì không thể
nào thoát được. Đã nhiều đoàn thương nhân bỏ mạng trên đường rồi."
Ông không nghe, cứ tiến, đốn cây ngô đồng
bắc cầu qua sông Hồ Lô. Qua bờ bên kia sông, mệt quá ông chợp mắt được một lúc
thì thấy người đưa đường nằm cách xa ông khoảng trăm bước, rút kiếm ra, rón rén
tiến lại khi cách ông độ mươi bước thì ngừng, ra vẻ do dự một chút rồi trở lui.
Gần sáng, tỉnh dậy, ông không nhắc gì
đến việc ban đêm cả, lẳng lặng bảo hắn đi lấy nước. Hắn miễn cưỡng vâng lời,
nhưng một lát sau thưa: "Con đường này dài và nguy hiểm. Ở chân phong hỏa
đài thứ năm mới có nước, muốn kiếm nước thì phải lẻn tới ban đêm nếu đi ban
ngày thì bị chúng bắn chết mất. Thầy trò mình trở về thôi." Ông vẫn không
nghe, cứ tiến tới. Thình lình hắn rút gươm ra, bắt ông đi trước. Ông không chịu,
thấy ông can đảm, bình tĩnh lạ thường, hắn không dám hạ thủ, bỏ ông, trốn mất.
Ông lại thui thủi một mình trên sa mạc.
Gần tới phong hỏa đài thứ nhất, ông nép trong lòng một con kinh khô, đợi đến tối
mới ló ra, kiếm nước uống. Đúng lúc ông múc nước, hai mũi tên bay vèo bên tai,
ông la lên: "Tôi là hòa thượng ở Tràng An đây, đừng bắn nữa", rồi ông
lại nạp mình cho lính. Người chỉ huy đài đó là hiệu úy Vương Tường, một tín đồ
đạo Phật. Vương Tường khuyên ông đừng đi nữa, ông cũng không nghe, nói:
- Bần tăng đau lòng thấy rằng kinh Phật
thiếu sót mà mỗi người hiểu một lối, không biết đâu là đạo chân truyền, nên đã
nguyện qua Ấn Độ học đạo. Nếu hiệu úy ngăn cản bần tăng thì giết bần tăng đi,
chứ nhất định bần tăng không chịu trở gót đâu.
Thấy lòng cương quyết đó, Vương Tường
đành để ông đi, sau khi tặng ông ít vật thực và viết thư giới thiệu với người
chỉ huy đài thứ nhì. Riêng đài thứ năm thì họ Vương khuyên ông nên tránh, vì
viên chỉ huy không theo đạo Phật, mà tính tình hung bạo.
Ông nghe lời, qua khỏi đài thứ tư rồi,
đi về hướng Tây, tiến vào sa mạc Mạc Hạ Diên Tích và từ đây, ông rời xử sở của
tổ tiên, không biết bao giờ mới lại trở về.
Nhìn lại một lần cuối cùng phong hỏa
đài thứ tư, ông bùi ngùi, rồi buông cương, cho ngựa bước tới.
°
Đường qua sa mạc dài tám trăm dặm, tức
non 500 cây số có tên là Sa Hà (con sông cát). Người xưa đã tả sa mạc đó như vầy:
"Không có loài cầm, không có loài thú, chẳng có nước mà cũng chẳng có cỏ.
Muốn tìm phương hướng thì khách bộ hành phải nhận bóng của mình và tụng kinh Phật."
Huyền Trang chắc là làm theo đúng câu
đó. Các nhà thám hiểm như Christophe Colomb, Magellan, vượt đại dương, tuy gặp
những cảnh dông tố, hoặc đói khát nhưng còn có bầu bạn, thủy thủ. Ngay như Alain
Gerbault, tuy một mình lênh đênh trên một chiếc thuyền buồm đi vòng quanh thế
giới, nhưng cũng không đến nỗi cô độc vì còn tin tưởng khắp thế giới theo dõi
hành trình của mình, mà tới hải cảng nào cũng có người chờ đón để hoan hô. Còn
Huyền Trang thì thui thủi trong sa mạc mênh mông, ngày chỉ có ánh nắng gay gắt
của mặt trời, đêm thì có ánh sáng mờ mờ của các vì sao, cảnh cô độc thực ghê gớm
mà đức mạo hiểm của ông cổ kim chưa ai bì kịp.
Ông tìm suối nước mà không thấy, chỉ
thấy những đội binh mã nhung phục bằng nỉ và da thú, cưỡi lạc đà, giáo mác sáng
ngời, ẩn rồi hiện, tới rồi lui, biến đổi kỳ dị ở chân trời. Ông thúc ngựa lại gần
thì mọi vật biến đâu mất hết. Thì ra đó chỉ là ảo ảnh trong sa mạc.
Khát quá ông lấy bầu nước ra, nhưng
tay ông lóng cóng mà bầu nặng, rớt xuống cát, nước chảy ra hết, chán nản, ông định
quay trở về phía biên giới Trung Hoa. Chỉ có lúc đó là ông nghi ngờ. Nhưng sau
khi đi được mười cây số ông nghĩ lại: "Hồi đầu ta đã thề là không tới Tây
Trúc thì không khi nào trở về quê hương. Thà đi về phương Tây mà chết còn hơn
là trở về hướng Đông mà sống." Rồi ông thúc ngựa, hướng về tây bắc mà đi.
Cát bay mù mịt, chạm vào da thịt chỗ
nào thì muốn cháy chỗ đó. Ông khát quá, lưỡi sưng, môi nứt, mắt mờ, sức kiệt,
không tiến được nữa. Đã năm ngày và bốn đêm rồi, không có một giọt nước thấm
môi. Ông té xỉu trên cát nhưng chưa đến nỗi mê man, còn hăng hái tụng kinh niệm
Phật, tới nửa đêm thứ năm thì một cơn gió mát thổi qua, cơ thể tỉnh tảo lại,
như mới được tắm xong. ông vỗ về con ngựa, nó đứng dậy, hí hí mấy tiếng nhỏ rối
đi. Được khoảng sáu cây số thì tự nhiên nó đổi hướng, không làm sao bắt nó theo
hướng cũ được nữa. Ông ngạc nhiên, nhưng nghĩ nên đề cho nó theo bản năng của
nó, vì chắc có cái gì lạ đây. Quả nhiên, đi được một quãng đường nữa thì ông mừng
quýnh: một đám cỏ xanh hiện ra ở trước mặt. Vậy ngựa đã biết đánh hơi cỏ từ xa.
Bên đám cỏ là một đầm nước trong, sáng như gương. Nghỉ ngơi cho hết mệt, ông cắt
cỏ cho ngựa và múc đầy bầu nước rồi tiếp tục hành trình.
Hai hôm sau ông tới nước I Ngô. Ông đã
vượt quãng đường khó khăn nhất, tính ra mất 8, 9 ngày mới qua được sa mạc.
°
I Ngô là một ốc đảo, xưa có quân đội
Trung Hoa đóng, nhưng lúc đó thành một thuộc địa của Thổ. Huyền Trang ngừng bước
trong một ngôi chùa và gặp ba vị hòa thượng Trung Hoa. Họ mừng mừng tủi tủi chạy
ra tiếp đón ông, ôm ông mà khóc, không ngờ tha phương còn gặp được người cố quận.
Vua nước Cao Xương ở phía Tây I Ngô,
nghe tin ông tới, sai sứ lại đón. Ông nhận lời, đương đêm tới nơi thì vua Cao
Xương là Khúc Văn Thái sai đốt đuốc rồi thân hành ra khỏi hoàng cung để nghinh
tiếp, còn Vương phi và đại thần thì quỳ lạy. Khúc Văn Thái rất mộ đạo, nhưng
tính tình vẫn là tính tình hung hãn của một dân tộc kém văn minh. Ông ta tiếp
Huyền Trang rất long trọng, tôn kính như trò tôn kính thầy, nhưng nhất định năn
nỉ Huyền Trang ở lại làm chức giáo chủ trong nước, năn nỉ không được thì dọa nạt,
Huyền Trang dùng lời tha thiết để từ chối mà không được, phải cương quyết:
- Bần tăng đến đây không vì danh vọng
mà chỉ vì muốn qua Tây Trúc nghiên cứu kinh điển tại chỗ để hiểu rõ đạo Phật rồi
về nước giảng lại cho mọi người. Bệ hạ không nên ngăn cản bần tăng. Mà ngăn cản
cũng không được. Bệ hạ chỉ có thể giữ một nắm xương tàn ở lại đây thôi còn ý
chí cùng tinh thần của bần tăng thì không thể giữ được.
Khúc Văn Thái cũng không nghe, lại
càng chiều chuộng hơn trước, đích thân dọn cơm, đứng hầu. Huyền Trang phải dùng
đến chính sách tuyệt thực, ngồi ngay ngắn, không nhúc nhích luôn ba ngày, không
uống một giọt nước. Qua ngày thứ tư, Khúc Vãn Thái thấy hơi thở của ông suy rồi,
vừa tủi vừa sợ, quỳ xuống xin lỗi ông, thề trước tượng Phật là không dám ngăn cản
ông nữa, nhưng xin ông lại Cao Xương thêm một tháng nữa thôi để giảng Đạo cho
thần dân. Ông nhận lời, ăn uống trở lại.
Khúc Văn Thái sai dựng một cái lều
mênh mông che được 300 người. Mỗi ngày, hoàng gia, các vị hòa thượng và các
quan trong triều tới lều nghe Huyền Trang giảng kinh.
Khi Huyền Trang lên đường, Khúc tặng
ông đủ các đồ ngự hàn cùng vật dụng, vàng bạc, gấm vóc, cùng với 30 con ngựa và
25 người tùy tùng, đưa ông hai mươi bốn bức thư giới thiệu với các quốc vương ở
trung bộ Á Châu, lại sai một viên tướng đưa đường ông nữa.
Để đáp ơn vua Cao Xương, ông dâng lên
một bức khải:
(… ) Nép thấy đạo vương bẩm thụ các
khí thuận hòa của nhị nghi trời đất; rủ áo làm vua, vỗ nuôi dân chúng, phía
đông ví bằng phong đại quốc, phía tây yên vỗ tục bách nhung (…) Lại hay kính hiền
yê sĩ, hiếu thiện lưu từ; thương xót kẻ xa xuôi đi lại, ân cần cho tiếp đãi đến
nơi, đã được vào hầu, nhuần ơn càng hậu, tiếp đãi chuyện trò, phát dương pháp
nghĩa. Lại được nhờ ngài giáng kết làm nghĩa anh em, dốc một tấm lòng yêu thuận.
Và lại đưa thư cho hơn hai mươi phiên cõi Tây Vực, giới sức ân cần, sai bảo tiễn
tống. Lại thương tôi tây du và võ, đường tuyết lạnh lùng; bèn xuống lời minh sắc,
độ cho bốn chú tiểu sa đi để làm người hầu hạ. Nào là pháp phục mũ bông, đệm cừu
giầy miệt, hơn năm mưoi thứ, và lĩnh lụa vàng bạc tiền nong, để khiến cho sung
cái phi vãng hoàn trong hai mươi năm. Nép trông thẹn thùng sợ hãi, không biết xử
trí cách nào. Dẫu khơi dòng nước Giao Hà ví ơn kia chẳng ít kém; cân hòn non
Thông Lĩnh, đọ nghĩa nọ còn nặng hơn. (…)
Sau này xin bái yết chúng sư, bẩm vâng
chính pháp, đem về phiên dịch truyền bá những điều chưa từng nghe. Phá tan cái
rừng rậm rạp của những kẻ tà kiến, tuyệt hẳn cái ý xuyên tạc của những mối dị
đoan (…) May ra cái công nhỏ ấy, ngõ đáp được cái ơn sâu kia. Nay tiền đồ còn
xa, không thể lưu ở lâu được, ngày mai từ biệt, thêm thiết bùi ngùi, không xiết
đội ơn, cẩn dâng khải lên kính tạ”.
Đông Châu dịch (Ông Đường tăng Huyền
Trang, Nam Phong số 142, tháng 9, năm 1929)
--------------------
Ngày khởi hành, cả triều đình, các
tăng lữ và bá tánh đưa ông ra tới cửa thành Tây. Huyền Trang cảm tấm lòng của
nhà vua, hứa trên đường về sẽ ghé Cao Xương ở lại ba năm, rồi bùi ngùi lên ngựa.
Nhưng sau này ông không giữ được lời hứa vì lúc đó, bộ lạc Khúc Vãn Thái đã bị
diệt vong.
Từ đây danh tiếng ông được mọi người
biết, cuộc hành trình dễ dàng hơn trước nhiều, tới đâu cũng được đón đưa long
trọng. Khúc Văn Thái đã có công lớn trong chuyến thỉnh kinh của ông.
°
Qua một miền rừng núi hiểm trở nổi tiếng
là có nhiều mỏ bạc, Huyền Trang tới A Kì Ni, một nơi nghỉ ngơi của các đoàn
thương nhân tá túc một đêm, rồi tới Khố Xa. Miền này rất trù phú. Vì lúc đó tuyết
phủ đầy dãy Thiên Sơn, không thể tiếp tục hành trình ngay được, ông phải ở lại
đó 2 tháng và có dịp nhận xét, ghi chép phong tục cùng văn minh của Khố Xa, lưu
lại những tài liệu quý cho các nhà khảo cổ sau này: Vương quốc đó rộng khoảng
ngàn dặm từ đông qua tây, và sáu trăm dặm từ nam tới bắc. Chu vi kinh đô được
17, 18 dặm. Đất trồng kê đỏ, lúa mạch, nho, lựu, lê, mận, đào. Có mỏ vàng, đồng,
sắt, chì, thiếc. Khí hậu ấm áp, dân thuần lương. Văn tự phỏng theo của Ấn Độ.
Âm nhạc tiến hơn các nước làng giềng nhiều. Chính nhờ Khố Xa mà đạo Phật truyền
qua Trung Hoa. Vì nằm trên đường chở lụa từ La Mã qua Trung Hoa, nên Khố Xa
buôn bán rất thịnh, hạng phú gia bận những đồ gốm vóc rực rỡ.
Tại đó, ông gặp một nhà tu hành học thức
uyên bác là Mộc Xa Cúc Đa, đã qua Ấn Độ nghiên cửu kinh điển trên hai chục năm.
Nhờ sự gặp gỡ đó, ông biết thêm được nhiều về đạo Phật và Ấn Độ, nhưng đôi khi
cuộc thảo luận về Phật pháp có giọng hơi gay gắt vì Mộc Xa Cúc Đa theo tiểu thừa
như hầu hết các hòa thượng Trung bộ Á Châu, còn ông thì thiên về đại thừa. Rốt
cuộc, Mộc Xa Cúc Đa phải nhận rằng ngay tại Ấn Độ cũng có ít học giả uyên bác
như ông.
Khi tuyết bắt đầu tan, ông lại tiếp tục
hành trình, tới Ô Hắc Quốc rồi leo núi Thông Lãnh cao 7.200 thước trong dây
Thiên Sơn. Ông tả núi đó rất kỹ: "Nó rất nguy hiềm, ngọn đụng trời. Từ hồi
khai thiên lập địa, tuyết phủ, đóng lại thành những đống băng quanh năm không
tan. Băng trải thành từng lớp cứng và rực rỡ, liên tiếp tới chân trời, lẫn với
mây. Nhìn vào chói mắt (...) Leo trèo thực khó khăn, nguy hiểm. Lại thêm lúc
nào cũng có thể có những cơn dông tuyết, thành thử dù đi giày có hai lớp da, dù
bận áo cừu, cũng vẫn run lên cầm cập. Muốn ăn hoặc ngủ thì không có một chỗ nào
khô đề nghỉ chân. Chỉ có cách là treo nồi lên chỗ nào đó mà nấu ăn và trải chiếu
ra để nằm. "Leo núi đó, đoàn của Huyền Trang chết mất hơn chục người vì
đói, lạnh (không kể một số lớn bò và ngựa), chỉ còn lơ thơ ít người.
Xuống tới chân núi, ông theo một con
sông rồi tới Nhiệt hồ (cũng gọi là hồ I Tây Khắc): "Hồ này chu vi khoảng
1000 dặm, nằm dài từ đông qua tây, phía nam rộng mà phía bắc hẹp. Bốn bề là
núi, vô số sông chảy vào. Nước màu đen phơn phới xanh, vị mặn và chát". Hồ
không bao giờ đóng băng, khí hậu tương đối ấm áp, nên các vua chúa trong miền tới
đó để tị hàn. Chính ở gần hổ tại Tô Điệp Thành mà Huyền Trang gặp Diệp Hộ Khắc
Hàn của xứ Đột Quyết.
Khắc Hàn ở trong một cái lều lớn thêu
hoa bằng vàng rực rỡ chói mắt, tuy là man rợ mà có vẻ uy nghi đáng kính. Khắc
Hàn vốn là bà con của Khúc Vãn Thái nên tiếp đãi Huyền Trang long trọng, nghe
ông giảng kinh xong, ngưỡng mộ ông lắm, muốn giữ lại: "Bạch sư phụ, sư phụ
đừng qua Tây Trúc. Xứ đó nóng lắm, đông cũng như hè. Tôi ngại rằng sư phụ mới
qua đó thì mặt mũi sẽ chảy ra như sáp hết. Dân chúng thì đen thui, đa số lõa lồ,
không biết lễ nghi gì cả, không đáng cho sư phụ tới thăm."
Ông không nghe, Khắc Hàn phải để ông
đi. Ông tiến về phương Tây, tới nước Xá Thời, qua một bãi sa mạc rộng khoảng
hai trăm rưỡi cây số, cát đỏ, rồi đến nước Phong Mạc Kiện, một nơi có thành lũy
rất cổ, vì chín thế kỷ trước Huyền Trang, A Lịch Sơn Đại Đế đã qua đó để vô Ấn
Độ.
Nơi đó, ở một ngã ba trên đường chở lụa
nên có vô số hàng hóa quý giá. Đất cát lại phì nhiêu, trồng loại cây gì cũng được.
Dân tộc khác hẳn những miền ông đã qua. Đây bắt đầu là khu vực ảnh hưởng của Ba
Tư, không chịu ảnh hưởng của văn minh Trung Hoa. Tuy còn vài ngôi chùa nhưng đều
hoang tàn vì vua và dân không theo đạo Phật mà thờ thần lửa.
Nhà vua tiếp Huyền Trang một cách
khinh khỉnh, nhưng sau khi nghe ông thuyết pháp, tỏ ý cảm động, che chở ông. Có
lần dân chúng cầm bó đuốc đuối đánh ông, nhà vua hay tin bắt họ, xử tội chặt
chân chặt tay, ông xin giảm tội cho, và sau đó, dân chúng vừa kính vừa sợ, xin
theo đạo Phật rất đông. Năm sau, nhà vua lại sai sứ qua Trung Hoa, tỏ tình thần
phục Đường Thái Tông. Lúc đó Thái Tông mới biết công của ông đối với triều
đình.
Từ Phong Mạc Kiện, Huyền Trang tiến về
phía Nam, khoảng ba bốn trăm dặm, tới Thiết Môn Sơn, một nơi vô cùng hiểm trở,
rất lợi cho sự dụng võ. "Nó là một con đường hẻm thuộc địa phận A Phú Hãn,
ngòng ngoèo ở dưới chân hai rặng núi cao chót vót, dựng đứng lên như hai bức tường
đen, màu sắt, vì núi có nhiều quặng sát. Vô số ghềnh thức nằm ngang đường. Ở
đâu đường là một cái cửa có hai cánh bằng sắt, trên cửa treo những chuông sắt.
Những khi gió thốc vào, tiếng chuông vang động lên như sấm, hòa với tiếng thác
đổ ào ào mà trời lại u ám, thì thật là cảnh địa ngục. Chỉ mươi tên quân giữ cửa
ải đó là đủ ngăn cản thiên binh vạn mã. Người Thổ nắm được yếu điểm đó mà kiểm
soát hết giao thông và thương mại giữa Ấn Độ và trung bộ Á Châu.
Qua khỏi Thiết Môn Quan, đoàn hộ tống
Điệp Hộ Khắc Hàn từ giã trở về. Ông một mình tiến về phía Đông nam, qua nhiều
nước nhỏ rồi một hôm tình cờ gặp một vị hòa thượng trẻ tuổi xứ Thổ Hòa La tên
là Tuệ Tánh tình nguyện làm đồ đệ, đưa ông sang Ấn Độ. Hai người vòng qua phía
tây Đại Tuyết Sơn, đi trên hai ngàn dặm nữa thì vị hòa thượng được lệnh của vua
Thổ Hòa La, phải từ biệt ông mà trở về.
Miền đó là miền Bactriane hồi xưa, thời
thượng cổ thuộc về dân tộc Ba Tư, sau bị A lịch Sơn Đại Đế chiếm, chịu ảnh hưởng
Hi Lạp trong một thời gian, rồi chịu ảnh hưởng của đạo Phật, có những chùa Phật
chứa ba nghìn tăng đồ.
Đoạn đường vòng Đại Tuyết Sơn khó đi
nhất. Mây như đặc lại, tuyết bay loạn suốt ngày, không bao giờ thấy mặt trời.
Đường cheo leo không có chỗ nào phẳng mà rộng được đến ba thước. Có khi phải nằm
rạp xuống bíu vào đá mà nhích đi từng chút, có khi phải qua những cầu kết bằng
mây đong đưa ở trên không, chỉ vô ý một chút là té xuống vực thẳm thác đổ ào
ào.
°
Một trong những bức Tượng Phật được khai sinh đầu tiên trên thế giới. |
Từ khi Tuệ Tánh trở gót, Huyền Trang lại
thui thủi một mình trong rừng rậm hoang vu, leo đèo Shibar cao ba ngàn thước, tới
Kapica (thung lũng Kâbul, một miền phì nhiêu phong phú, dài 60 cây số và rộng
20 cây số. Đó đã thuộc về Ấn, cho nên ông gặp ở Kapica nhiều nhà tu hành Ấn,
theo thuyết khổ hạnh: Ở trần truồng, ngồi cầu nguyện trong rừng, chịu cảnh đói
lạnh.
Ông nghỉ ở đó hết mùa hè, rồi đến
Lampaka, mà từ khí hậu, cho đến người, vật và phong tục đều khác các miền trước.
Dân thì vui vẻ, thích ca hát, nhảy múa, tuy nhỏ mà nhanh nhẹn, bận áo vải màu rực
rỡ. Đúng là dân tộc Ấn Độ. Khí hậu hơi nóng, cây cối um tùm, và có nhiều khỉ.
Ông qua sông Indus tới Taxila, viếng
nơi mà theo truyền thuyết Đức Phật trong một kiếp trước đã thấy một con cọp cái
đói, không kiếm được mồi để nuôi bảy cọp con, bèn động lòng từ bi, từ trên cao
đâm đầu xuống gần cửa hang cọp, tự hủy thân để nuôi cọp, vì vậy mà đất ở chung
quanh đỏ như máu, mà cây cối cũng có sắc đỏ.
Taxila thuộc về Kâcmvi, một nước rất
sùng đạo, có hàng trăm chùa và năm ngàn sư. Chính nơi đó là đất phát nguyên của
phái Đại thừa. Nhà vua nghe Huyền Trang cũng theo phái đó, nên rất kính trọng,
thân hành ra biên để đón và thỉnh lên ngồi một thớt tượng để cùng song song vô
kinh đô. Vì gặp được một pháp sư bảy chục tuổi, pháp sư Xưng Lão làu thông Tam
Tạng, lại tìm được rất nhiều kinh điển (cộng đến non một triệu chữ), Huyền
Trang ở lại Kâcmvi hai năm (từ 631 đến 633) để học đạo. Trò rất kính thầy, mà
thầy rất mến trò, tương đắc nhau lắm. Khi đã hiểu rõ kinh điển rồi, Huyền Trang
mới từ biệt nhà vua và thầy học để đi thăm đất Phật. Tính ra, ông xa quê đã bốn
năm, trải biết bao gian lao, nhưng đã gần tới đích.
°
Rời Kâcmvi tới Cakala, rồi lại đi được
ít ngày thì một hôm, qua một khu rừng rậm, ông cùng đoàn tùy tùng bị cướp lột hết
hành trang, phải trốn trong một cái hang. Nhờ có một đám nông dân hay tin lại cứu,
đưa tới một chùa Bà La Môn ở đó. Ông chủ chùa này tuy theo đạo Bà La Môn mà
cũng thích nghiên cứu đạo Phật. Huyền Trang xin ở lại một tháng để tìm hiểu
thêm đạo Bà La Môn, rồi mới đi tới Jâlandhara.
Từ đây cuộc du học của ông thích thú
vô cùng. Tới đâu ông cũng gặp những di tích của đạo Phật, tha hồ mà đọc kinh điển,
mà thảo luận với các pháp sư, và thỉnh giáo các vị tu hành uyên bác.
Ấn Độ nổi tiếng là một xứ huyền bí, một
phần vì địa thế, một phần vì tôn giáo. Về địa thế, xứ đó gần như cách biệt hẳn
với các xứ chung quanh: ba phía Đông, Tây và Nam là biển, phía Bắc thì có dãy
Hi Mã Lạp Sơn cao vòi vọi, rất bất tiện cho sự giao thông; về tôn giáo thì mới
đầu có hai đạo chánh, đạo Bà La Môn và đạo Phật và một đạo nữa, đạo Hồi Hồi, từ
Ba Tư truyền vào; riêng hai đạo Bà La Môn và Phật có rất nhiều giáo phái mà lý
thuyết khác nhau xa. Đất đai rộng mênh mông như một lục địa nhỏ, chia ra hàng
trăm nước, có nước nhỏ chỉ bằng một phần trăm nước khác. Vàng bạc châu báu rất
nhiều, đền chùa chỗ nào cũng có. Dân rất mê tín mà chia làm nhiều giai cấp: bọn
quí phái mơ mộng trong cung điện, hết đi săn thì hưởng thanh sắc, bọn tu hành
Bà La Môn chẳng làm việc gì, chỉ tu hành và rất được trọng, hạng thương nhân nhờ
giàu có mà cũng được nể, hạng nông dân bị khinh bỉ gần như hạng nô lệ; cuối
cùng là hạng tiện dân bị các giai cấp khác khinh tởm hơn là ta khinh tởm người
cùi, đến nỗi là không ai dám lại gần họ và cái bóng của họ chiếu vào vật nào
thì vật đó bị coi như dơ bẩn, phải ném đi, chứ không ai chịu mó vào nữa.
Tóm lại từ văn minh đến phong tục,
khác hẳn Trung Hoa. Huyền Trang sống non mười năm ở Ấn, có dịp đi khắp nơi, được
trông thấy bao nhiêu điều lạ, rồi bẩm sinh có óc nhận xét tinh tế, ghi cả lại
trong tập du ký, thành một mớ tài liệu rất quý giá chẳng những giúp người Trung
Hoa thời đó mà còn giúp cả những học giả thời này hiểu Ấn Độ nữa. Chính Re né
Grousset, tác giả cuốn Sur les traces de Bouddha cũng phải thán phục tài nhận
xét của ông, coi ông vào hàng bác học danh tiếng nhất thời cổ.
Từ jâlandhara, ông tiến xuống phía
Đông nam, tới Mâthura, rồi qua phương Đông, tới thượng lưu sông Gange (Hằng
hà). Ông tả con sông đó y như một nhà khoa học: "Gần nguồn, sông rộng ba dặm,
mà gần cửa biển rộng mười dặm. Nước bình thường thì trong xanh nhưng thường
thay màu, mà mặt nước mênh mông. Rất nhiều sinh vật kỳ dị sống trong sông, phần
nhiều không làm hại người. Vị của nước ngọt và dễ chịu, cát mịn vô cùng. Người
bản xứ coi sông đó là một vị thần, kẻ nào tắm nước sông thì gột hết được tội, nếu
uống nước hay chỉ rửa miệng thôi cũng tiêu tan được những khổ não, nếu chết đuổi
trong sông thì được lên trời. Lúc nào trên bờ cũng có vô số người tụ họp, đàn
ông lẫn đàn bà". Ông cho như vậy là dị đoan.
Tới Kanauj, ông không được gặp vua
Harsha, một người rất mộ đạo Phật, mỗi năm thường họp tất cả các vị pháp sư Ấn
Độ tại kinh đô để tranh biện về đạo, lại mời vị nào đức độ cao nhất, học thức
sâu nhất lên ngồi trên ngai vàng của mình mà thuyết pháp.
Khi ngồi thuyền xuôi sông Gange với
hai chục người nữa, để tới Prayâga, ông gặp một tai nạn kinh khủng. Thuyền qua
một khúc sông, hai bên là rừng rậm. Một bọn cướp bơi một chục chiếc thuyền ra
chặn, lôi cả hành khách lên bờ. Bọn họ thờ nữ thần Durgâ và mỗi năm phải kiếm một
người đàn ông đẹp trai, lực lưỡng, giết để tế thần. Thấy Huyền Trang chúng mừng
quá vì nước da ông trắng trẻo mà nét mặt tươi nhã, thông minh, bàn với nhau sẽ
giết ông. Họ dắt ông tới sân đền, rút gươm ra định hạ thủ, thấy ông vẫn bình
tĩnh, họ hơi ngạc nhiên. Ông xin được tụng kinh trước khi chết. Chúng bằng
lòng. Những người đồng hành khóc lóc thảm thiết; còn ông thì càng tụng kinh, mặt
càng tươi tỉnh, sung sướng, không biết gì ở chung quanh cả. Đột nhiên một cơn
dông nổi lên, thuyền nhồi lên nhìn xuống rồi chìm, cây cối gẫy răng rắc. Bọn cướp
hoảng sợ, tưởng là ông có phép thần, quỳ xuống xin ông tha tội. Ông mở mắt ra,
hỏi chúng đã đến giờ chết chưa. Khi hay chúng đã đổi ý ông cũng không lộ nét
vui. Vừa lúc đó, gió ngớt.
Sau Prayâga, ông lại thăm Kaucâmbi, rồi
lên phương Bắc, xứ Népal để viếng các đất thánh của đạo Phật.
Trước sau ông đã làm lễ ở những nơi
này:
1/Nước Cravastis (Xá Vệ) nơi mà xưa Đức
Thích Ca trú ngụ và truyền đạo lâu nhất.
2/ Nước kapilavastu (Ca bỉ la vệ) nơi
Ngài chào đời (hiện là tỉnh Gorakhpur)
3/ Nước Kusinagara (Câu y na kiệt la)
gần Népal, nơi Ngài tịch.
4/ Thành Bénarés (Ba nại la) nơi Ngài
thành đạo.
5/ Nước Vaisali (Phệ xa lý) hiện là tỉnh
Besarh, nơi mà Ngài thích nghỉ chân trong mùa mưa.
6/ Chùa Để-la-già và gốc Bồ đề.
Trong cuộc hành hương đó, lòng ông
rung động, bồi hồi tưởng như lúc nào cũng được nghe những bản nhạc du dương. Đời
hy sinh của đức Thích Ca hiện lên, hồi này tiếp hồi khác, rực rỡ, đủ từng chi
tiết.
Đây là chỗ mà một bà cô của Ngài, cũng
là mẹ nuôi của Ngài nữa, xin Ngài cho phụ nữ được quy y, sau dựng lên một chùa
Phật đầu tiên cho các ni cô.
Đây là nơi chôn nhau cắt rốn của Ngài.
Ôi cảnh vật tang thương. Cung điện xưa kia ở đâu mà nay chỉ còn một vùng cỏ úa
dưới ánh tà dương! Kinh đô của vua cha đã bị tàn phá đến nỗi không còn nhận ra
được chu vi nữa. Cũng may di tích còn lưu lại ít nhiều. Thổ dân còn chỉ được chỗ
mà Hoàng tử đấu kiếm và thắng được đối thủ, chỗ mà lần đầu tiên Ngài thấy cảnh
lão, bệnh, tử; con đường mà Ngài theo cái đêm bỏ cha mẹ vợ con, phú quý vinh
hoa, rũ sạch bụi trần để đi tìm đạo. Nhớ lại những truyện đó, Huyền Trang rưng
rưng nước mắt mà thấy sự hy sinh của mình còn kém xa sự hy sinh của đức Phật.
Người ta dắt ông lại thăm một cánh đồng nơi mà Ngài sụt sùi, thấy nông phu bừa
đất, nhổ cỏ và giết sâu và trứng sâu, đau lòng tưởng như người thân của mình bị
hại vậy. Ôi! Lòng nhân của Ngài mênh mông như vũ trụ! Và ngôi chùa ở mép khu rừng
kia, phải là nơi Ngài cởi bỏ áo đẹp, lấy gươm cắt tóc, đưa cho Xá Vệ, bảo y trở
về không? Kinh truyền còn chép Xá Vệ khóc ròng mà con ngựa của Ngài cũng cảm động,
liếm chân Ngài trước khi từ biệt.
Đây là chỗ Ngài tịch. Đã hơn 11 thế kỷ
rồi. Ngôi nhà của người thợ rèn đã mời Ngài dùng bữa cơm cuối cùng còn đó. Mà
chỗ kia là nơi Ngài nằm nghỉ, nơi người ta cắt hỏa đàn để thiêu Ngài.
Ở Bénarès ông đi thăm Lộc viên, nơi
Ngài thuyết pháp lần đầu cho năm đệ tử đầu tiên, Huyền Trang còn nghe văng vẳng
lới Ngài dạy:
"Hỡi các tì kheo, có hai thái cực
mà ta phải tránh: Một cái là đời hoan lạc, nó thấp hèn, phù phiếm; một cái là đời
khổ hạnh, nó thê thảm, xấu xa và vô ích...
Hỡi các tì kheo, đây là chân lý về đau
khổ: sinh, lão bệnh, tử, phải xa cách cái gì mình yêu, đó là khổ. Và đây là nguồn
gốc của khổ: lòng dục (...) Và đây là chân lý về phép diệt khổ: diệt được lòng
dục đó đi thì diệt được khổ".
Ông ngừng lại lâu ở gốc Bồ đề. Đây mới
là đất thánh của đạo Phật, nơi đức Thích Ca nhập định và giác đạo. Hiện nay gốc
Bồ đề cũ không còn, nhưng lúc ông tới thì nó vẫn tươi tốt: “Thân cây trồng
vàng, lá xanh và láng, mùa hè cũng như mùa đông đều tươi tốt. Nhưng tới ngày lễ
Niết Bàn (?) thì rụng hết một lượt rồi hôm sau mọc ra mơn mởn. Ngày đó các vị
vua chúa lại tưới sữa vào gốc cây, đốt đèn, trưng bông, lượm ít lá rồi về."
Sau này người ta xây một bức tường gạch
chung quanh và cất một ngôi chùa ở gần cửa bắc vòng thành.
Cạnh gốc cây có một tượng Phật. Người
ta đồn có lời sấm rằng khi nào tượng đó bị đất lấp kín thì đạo Phật thất truyền
ở Ấn Độ. Huyền Trang thấy tượng đã bị vùi tới ngực, đoàn chỉ độ hai trăm năm
sau là bị vùi trọn. Lạ lùng thay, tới thế kỷ thứ 9, đạo Phật cực suy ở Ấn, trừ
vài miền như Magadha và Bengale, không còn mấy người theo nữa.
Ông quỳ ở gốc cây, than thở, cầu nguyện
rồi đi thăm cái hồ xưa đức Thích Ca hay lại tắm, giặt, trước khi lại chùa
Nâlandâ (nước Mayadha) lưu học.
°
Tu Viện Rawlian thành lập khoảng 46 BC từng là một trung tâm lớn giảng dạy Phật Pháp. |
Ấn Độ có hàng vạn ngôi chùa, mà
Nâlandâ lớn nhất, đẹp nhất, cũng là trường đại học cổ nhất. Gần như một thành
thị riêng biệt. Chung quanh là một bức tường gạch, ở trong đó có hàng chục ngôi
chùa, vô số nhà ở và phòng hội họp, phòng tụng kinh. Đứng ở các hành lang nhìn
ra: nóc chùa như "bay lên trên khói", "phong vân nổi ở chung
quanh" mà "sen xanh" rực rỡ trên dòng nước trong. Giọng văn ông
khi tả cảnh đó bóng bảy như giọng thi sĩ Trường An.
Chùa có một thư viện rất cổ và rất đủ:
kinh Đại thừa, Tiểu thừa, Phệ đà (trên 150 bộ), rồi sách thuốc, thiên văn, địa
lý, toán, kỹ thuật... Luôn luôn lúc nào cũng có mười ngàn tăng lữ lại học thuyết
Đại thừa. Kỷ luật rất nghiêm, từ khi chùa dựng lên tới lúc đó, trên bảy trăm
năm, chẳng những thường dân mà các vua chúa cũng kính trọng tinh thần của tăng
lữ trong chùa, chu cấp cho rất nhiều: mỗi ngày hai trăm gia đình đem gạo, sữa,
bơ, trái cây lại cúng.
Vị sư chủ trì là Giới Hiền pháp sư
(Cilabhađra), một nhà học giả uyên bác nhất thời đó, năm ấy đã 106 tuổi mà óc vẫn
sáng suốt. Hay tin Huyền Trang tới, pháp sư sai hai trăm tăng lữ và hàng ngàn
tín đồ cầm cờ phương, dù, đem hương hoa đi đón rước. Tới chùa, Huyền Trang lại
chào pháp sư: Theo tục trong miền, cũng quỳ gối, đập đầu vào sàn, lạy, xin nhận
làm môn đệ. Giới Hiền pháp sư cảm động đến sa lệ, bảo: "ít tháng trước, ta
đau nặng, chỉ mong được mau giải thoát. Một đêm ta nằm mộng thấy ba vị thần ra
lệnh cho ta phải sống để đợi một hòa thượng Trung Hoa tới mà truyền đạo cho.
Bây giờ con tới đây, hợp với mộng đó lắm."
Vì quá già, từ lâu Giới Hiền pháp sư
không giảng kinh nữa, lần này mới rán giảng cho Huyền Trang bộ kinh trọng yếu
nhất là bộ Du Già luận. Ngày khai giảng, tăng lữ và tín đồ các miền chung quanh
họp lại đông như ngày hội. Huyền Trang học rất tấn tới, trong số vạn sư đồ ở
chùa, may lắm được mười người theo nổi ông.
Ông ở chùa 15 tháng (634 sau Công
nguyên) học hết bộ Du Già luận, và học thêm triết lý Bà La Môn và Phạn ngữ, soạn
được một cuốn ngữ pháp tiếng Phạn giản lược mà rất đúng.
°
Ông xin phép Giới Hiền pháp sư đi chu
du Ấn Độ để tìm hiểu thêm các giáo phái khác, nhất là tình hình Phật giáo ở mỗi
nơi.
Ông thăm xứ Bengale, xuống hải cảng
Tâmralipi, trên vịnh Bengale, định đón ghe ra đảo Tích Lan, trung tâm của phái
Tiểu thừa. Nhưng có kẻ khuyên ông đừng đi đường biển vì sóng gió, ông bèn theo
đường bộ, men biển mà trên xuống Tây Nam tới ngang đảo Tích Lan rồi sẽ đón ghe,
như vậy chỉ mất ba ngày liền.
Trên đường, ông thăm xứ Odradeca,
Kalinga, Andhra, Pailava (ông tới đây năm 640).
Theo René Grousset, Huyền Trang không
qua đảo Tích Lan vì trong đảo đương có nội loạn và nạn đói, nhưng theo ông Trần
Hà trong bài "Trần Huyền Trang và chuyến thỉnh kinh lịch sử" (Bách
khoa số 57, 58 và 60) thì Huyền Trang có vượt biển qua Tích Lan, chưa rõ thuyết
nào đúng.
Tới cực nam Ấn, ông theo bờ biển phía
Tây, mà lên tới gần ranh Ấn Độ - Ba Tư, qua nhưng xứ Mahârâshtra, Nasik,
Bharukacha. Nhận xét được điều gì, ông cũng ghi chép kỹ lưỡng. Mà những nhận
xét đó thường rất đúng, chẳng hạn tính tình của dân Mahratte ở nước Mahârâshtra
(Calukya), hồi ông đi qua ra sao, thì bây giờ cũng vậy: bình dị, ngay thẳng,
nhưng tự ái và nóng tính, trọng nghĩa mà khinh chết, hy sinh để báo ân mà mạo
hiểm để báo oán, và rất đàng hoàng, báo trước cho kẻ thù biết rồi mới ra tay.
Tướng của họ mà bị cầm tù thì thà chịu chết chứ không chịu cái nhục để kẻ thắng
bắt mình phải bận quấn áo đàn bà. Giống người đó là giống thượng võ nhất ở Ấn.
Những ghi chép của ông về công việc dẫn
thủy nhập điền và những tơ lụa của Ba Tư cũng rất đúng, mặc dầu ông không qua xứ
đó mà chỉ nghe người ta kể lại.
Đến cực tây Ấn Độ sau khi khảo sát
phong tục, tôn giáo, kinh điển trong các chùa khắp nơi (có chỗ ông ở lại học đạo
một, hai năm), ông băng qua trung bộ Ấn mà qua phía Đông, tới xứ Magadha và trở
lại chùa Nâlandâ. Lần này ông ôn lại tất cả những điều đã học được rồi suy nghĩ
để tìm chân lý.
Giới Hiền pháp sư vẫn còn sống, sai
ông chủ trì cuộc diễn giảng về Nhiếp đại thừa luật. Ông Trần Hà, trong bài đã dẫn,
chép rằng:
"Bây giờ nhà sư Tử Quang, cùng một
đệ tử hữu danh của Giới Hiền pháp sư, không phục sự chủ trì của Huyền Trang...
nhưng khi Huyền Trang viết ra ngàn câu tụng "Hội tông luận" thì cả
chùa tăng chúng đều phục, cả Giới Hiền pháp sư cũng khen nức nở. Tử Quang thấy
sự học của mình còn non kém, xấu hổ bỏ chùa ra đi hơn năm sau mới trở lại.
"Cũng lúc ấy, có một người Bà La
Môn viết bốn chục điều lý luận đem dán trước cửa chùa Na Lan Đà, thách rằng:
- Nếu ai bác được một điều của ta, ta
sẽ tự cắt đầu tạ lỗi.
Mấy ngày sau, vẫn chưa ai dám biện
bác. Huyền Trang bèn thỉnh Giới Hiền pháp sư đến chứng kiến để ông tranh luận với
người Bà La Môn ấy. Rốt cuộc, người Bà La Môn đuối lý và yêu cầu được làm theo
lời hứa. Huyền Trang đáp:
- Hòa thượng không được sát sanh.
Những truyện đó không chắc đã đúng
nhưng có thể tin được. Một người đã từng trải, học rộng, bẩm tính lại ôn hòa,
nhã nhặn như ông tất không hiếu thắng, nhưng trong một xứ giáo phái lộn xộn như
Ấn Độ, lại được mục kích những cuộc tranh biện rất thường giữa các giáo phái,
thì thế nào ông cũng phải đưa ý kiến, có khi để hòa giải, cũng có khi vạch chỗ
sai lầm. Ta đã biết, ông cũng như đa số các hòa thượng uyên bác của Trung Hoa,
thiên về Đại thừa. Ông đứng ra hòa giải các tiểu phái trong giới theo Đại thừa ở
Ấn, bảo rằng cái hại là do người trước chú thích kinh điền theo ý riêng của
mình, nhưng cái hại đó không lớn, chẳng qua chỉ là đại đồng tiểu dị, vậy ta nên
bỏ tiểu dị đi mà theo đại đồng cho khỏi xung đột nhau.
Đối với Tiểu thừa, ông nghiêm khắc
hơn. Ông chỉ trích mạnh nhất là đạo Bà La Môn, và những giáo phái chủ trương khổ
hạnh, theo những tục kỳ cục, dã man. Có bọn lấy tro cọ vào người tới khi da trắng
bệch ra, cho như vậy mới đắc đạo. Có kẻ không bận quần áo, tóc lông đều nhổ hết,
trần như con nhộng. Có tinh thần Khổng học, có óc lương tri, ông không chịu được
những xuẩn động đó. Ông bực mình thấy những "tu sĩ" đeo vào cổ một
chuỗi mảnh sọ người, hoặc bận những quần áo dính đủ các chất dơ, tin những thịt
thối để cho "tâm hồn được giải thoát".
Vua một nước láng giềng, nước
Kamarũpa, (hiện nay là tỉnh Assam) hâm mộ tài ông, mời ông tới kinh đô giảng
kinh. Nhưng đồng thời, vua Harsha, một vị quân chủ hùng cường nhất Ấn Độ thời
đó, cai trị gần hết bắc bộ Ấn, lại có tài văn thơ, rất sùng đạo Phật, cũng muốn
rước ông tại kinh đô là Kanauj. Vua Kamarữpa phải phục tùng vua Harsha, bỏ
chương trình của mình, rồi dùng hai vạn thớt voi, ba vạn thuyền, dẫn cả binh
lính hộ tống Huyền Trang tới Kajughira, chỗ vua Harsha đương cắm trại. Huyền
Trang tới vào lúc tối. Nóng lòng, vua Harsha không chịu đợi đến sáng hôm sau,
sai đốt đuốc rồi cùng các tướng tá đi đón. Gặp Huyền Trang, nhà vua quỳ xuống đất,
hôn chân ông, đeo hoa đầy người ông. Ít bữa sau nhà vua rước ông và vua
Kamarũpa về kinh đô là Kanauj (năm 643). Quân đội của hai nước lần đó họp lại,
thành một cuộc rước long trọng chưa từng thấy. Tiếng chuông, tiếng trống, tiếng
đờn, tiếng sáo vang lừng trên sông. Tiểu vương các ngả chư hầu cũng lại tiếp rước.
Tiếp ra có 18 quốc vương trung bộ Ấn Độ, ba ngàn tăng lữ Đại thừa, và Tiểu thừa,
hai ngàn Bà La Môn và một ngàn tăng lữ ở chùa Nâlandâ tụ họp tại Kanauj để nghe
ông thuyết pháp.
Đàn dựng lên rồi, tượng Phật bằng vàng
đã rước lại. Tượng Phật tới đâu thì vua Harsha cho rắc vàng bạc, châu báu tới
đó. Rồi tiệc dọn cho mọi người, bảo vật tặng cho tăng lữ.
Huyền Trang ngồi ghế luận chủ, giảng về
phá ác kiến luận và nhiều nguyên lý Đại thừa khác. Vua Harsha lại cho chép bài
giảng của ông, đem dán ở cửa để mọi người coi, dưới bài thêm rằng hễ ai vạch được
một chỗ sai thì để đền ơn, nhà vua sẽ cho người đó được chặt đầu mình. Huyền
Trang đâu có muốn như vậy! Được mười tám ngày mà vẫn không có ai dám lại biện
luận với ông cả. Vua Harsha cả mừng, tuyên bố là phái Đại thừa đã toàn thắng và
tặng Huyền Trang một vạn đồng tiền vàng, ba vạn đồng tiền bạc, một trăm bộ quần
áo bằng vải tốt, một thớt voi, để ông lên ngồi trên bành, dạo khắp kinh đô.
Tăng lữ phái Tiểu thừa và Bà La Môn oán lắm, nhưng không dám bạo động. Vua Harsha
đem hết cả châu báu, của cải trong kho phân phát cho dân chúng, chỉ giữ một bộ
đồ vải thô. Nhưng mười tám vua chư hầu của ông ta vội vàng thu nhặt của cải
trong dân gian để mua lại những bảo vật mà vua Harsha đã phân phải rồi tặng lại
nhà vua. Thế là Châu lại về hợp Phố mà vua Harsha được tiếng khen là theo đúng
bài học từ bỏ phú quý của đức Thích Ca.
Huyền Trang không phục nhưng cũng
không dám chỉ trích, xin phép về Trung Quốc. Nhà vua giữ lại, các tăng lữ chùa
Nâlandâ cũng khuyên ở lại. Ông đáp:
- Trưng Hoa ở xa Tây Trúc, đường đi lại
hiểm trở cho nên đạo Phật truyền tới trễ mà ít người hiểu được kỹ lời dạy của đức
Thích Ca. Chính vì vậy nên bần tăng mới lặn lội đến đây để cầu đạo, nay đã học
xong, xin được về nước để chỉ lại cho những người không được may mắn lại đất Phật
như bần tăng. Bần tăng đâu dám quên lời khuyên tự giác rồi giác tha của thầy.
Vua Harsha nghe vậy không dám cản nữa,
nhưng xin cho sứ giả đưa ông về đường biển để có dịp trình quốc thư lên vua
Thái Tông. Ông cũng từ chối vì đã hứa với vua Cao Xương là khi về ghé nước đó ở
lại ít năm: món nợ danh dự đó không thể không trả.
Vua Harsha tặng ông nhiều bảo vật, một
thớt voi, sai một đoàn hộ tống ông tới biên giới Ấn, lại viết nhiều bức thư giới
thiệu ông với vua các miền ông sẽ qua. Còn kinh điển và tượng Phật thì sai người
chở theo. Vua Kămarũpa (Assam) cũng tặng ông một chiếc áo ngự hàn, và cùng với
vua Harsha đưa ông mấy chục dặm ra khỏi thành. Lúc từ biệt ai nấy đều sa lệ.
Lòng quyến luyến của hai quốc vương đó
thực cảm động. Ba ngày sau, Huyền Trang ngạc nhiên thấy một đoàn kị binh đuổi
theo, đi đầu là hai vua. Lại tiễn thêm một đoạn đường nữa, rồi lại bùi ngùi lúc
chia tay. Lần này thì vĩnh biệt. Bốn năm sau vua Harsha bị giết và một đoạn sử
rực rỡ của Ấn Độ kết thúc.
Huyền Trang nghỉ ở Bilsar (phía bắc
Kanauj) hai tháng trong mùa mưa năm 643, rồi đi ngược con đường cũ, qua
Jălandhara Taxila. Miền đó đầy kẻ cướp, nhưng ông được yên ồn vì họ hiểu công
việc thỉnh kinh của ông.
Đầu năm 644, ông qua sông Indus. Tới
giữa sông, sóng nổi lên dữ dội, một chiếc thuyền nghiêng ngả, người giữ kinh té
xuống nước, cứu được, nhưng mất nhiều cuốn kinh chép tay và nhiều hạt giống.
Vua nước Kapica hay tin ông tới, lại đón
ông ở bờ sông, thấy vậy sai người đi chép ngay những kinh đã mất. Nhiều vua
khác cũng đi xa hàng chục dặm đề tiễn biệt ông và tới đâu dân chúng cũng tiếp
ông long trọng. Tính ra ông ở Ấn Độ 10 năm.
°
Coi trên bản đồ, độc giả thấy tới
Badakhsan ông không theo con đường cũ đưa tới Thiết Môn Quan mà rẽ qua hướng
đông.
Vua Kapica đã dự bị cho ông đủ vật thực,
y phục, lại sai trăm người đưa ông qua Đại Tuyết Sơn vì biết rằng quãng đường
leo núi đó khó khăn nhất. Ông leo lên mất mười bốn ngày. Cảnh vô cùng lạnh leo,
hoang vu: không có một ngọn cây, chỉ toàn đá chồng chất lên nhau tới hút mật.
Núi cao và gió mạnh đến nỗi chim không dám bay qua.
Hết Đại Tuyết Sơn rồi đến Thông Lãnh.
Người trong miền vì lạnh quá, sống trong hang như thú vật, kể chuyện có lần
hàng ngàn thương nhân và lạc đà qua đó gặp cơn bão tuyết bị vùi trọn trong tuyết.
Họ lại kể có hai vị Phật sống, ngồi tham thiền, không ăn uống không cử động,
trong một cái hang từ bảy trăm năm rồị mà da thịt chỉ khô chứ không rã. Và còn
nhiều chuyện quái đản hơn nữa.
Ông tới Kashgar, Yarkand, Vu Điền
(Kotan). Vu Điền là một tiểu quốc phong phú, nhờ đất tốt, trồng dâu được. Hồi
xưa Trung Hoa giữ kín cách trồng dâu và nuôi tằm vì đó là nguồn lợi rất lớn. Chắc
độc giả đã biết thời Trung cổ lụa Trung Hoa chở qua châu Âu đắt tới nỗi cứ bắc
lên cân mà đổi lấy vàng. Tương truyền vua Vu Điền cưới được một công chúa Trung
Hoa và công chúa đã đem lén theo được ít hột dâu và ít con tằm, làm giàu cho nước
của chồng mà bí mật của Trung Hoa từ đó bị tiết lậu, truyền qua Byzance rồi
châu Âu.
Vua Vu Điền lưu ông lại bảy tháng để
giảng đạo cho dân chúng nghe. Ông nhờ một đoàn thương nhân bản xứ đem giúp một
tờ biểu về Trường An để xin phép triều đình được nhập cảnh (vì trước ông lẻn
đi).
Cuối tờ biểu có đoạn:
… (Huyền Trang tôi) chu du lịch lãm đến
mười bảy năm (tính theo Trung Hoa), nay đã từ nước Bát la gia già, qua cõi Già
tất thí, vượt núi Thông Lĩnh qua sông Ba mê, đi về đến nước Vu Điền. Vì có đem
theo con voi lớn đi, nó chết đuối mất, kinh bản đem về rất nhiều, chưa mướn được
xe chở, vậy phải tạm đình ở lại. Chưa kíp ruổi về để sớm yết kiến chốn hiên bê.
Khôn xiết ngóng trông. Cẩn sai người tục nước Cao Xương tên là Mã Huyền Trí
theo bọn thương lữ đi về trước dâng biểu tâu lên vua nghe”…
Đông Châu dịch (Ông Đường Tăng Huyền
Trang, Nam Phong số 143, tháng 10, năm 1929)
---------------------
Trong thời gian đó, ông cũng sai người
đi lấy những bản kinh mà vua Kapica sai chép lại cho ông.
Tới địa phận Trung Quốc, ông ngừng lại
ở Sa Châu (huyện Đôn Hoàng) để đợi chiếu chỉ của vua Đường. Triều đình mới đầu
cũng bất bình vì ông dám vi lệnh, nhưng trên mười năm đã qua, danh tiếng của
ông đã lên, công của ông lại lớn, làm vẻ vang cho nước nhà ở những nơi xa lạ,
nên vua Thái Tông được thư ông, rất vui, xá tội cho ông và bắt các quan địa
phương phải tiếp đón, giúp đỡ ông trên đường về.
Một ngày đầu xuân năm 645, đường phố
Trường An tưng bừng. Già trẻ, trai gái dắt díu nhau đi đón ông, hoan hô ông nhiệt
liệt. Cờ phướn, vóng lọng phất phới, tiếng chuông tiếng khánh vang lừng, hương
khói nghi ngút, cảnh náo nhiệt còn hơn ngày thượng nguyên. Các hòa thượng ở
kinh đô hợp nhau lại khiêng kinh điển, tượng Phật về chùa Hoằng Phúc.
Ông đã xa quê 16 năm, đi gần ba vạn
cây số qua 128 nước và đem về được.
- Một trăm rưỡi xá lợi tử.
- Bảy tượng Phật gỗ quý cao từ 2 thước
tới ba thước rưỡi.
- Và 657 bộ kinh.
Ít bữa sau, ông đến thành Lạc Dương yết
kiến vua ở cung Phụng Lâu. Vua Thái Tông hỏi ông sao đi Tây Trúc mà không tâu
trước. Ông đáp:
- Kẻ hạ thần đã có tâu, nhưng việc nhỏ
quá cho nên không được đệ lên. Rồi vì quá mộ đạo, nên phải lẻn đi, thực mang tội
lớn.
Vua chỉ mỉm cười, hỏi thăm về những nước
Huyền Trang đã qua. Vua lại khuyên ông làm quan, ông từ chối.
°
Các nhà thám hiểm phương Tây, mười người
như một, hễ về tới nước rồi thì xin triều đình hoặc chính phủ được đi nữa, mà
người ta cũng khuyến khích họ đi, vì lần thứ nhất chỉ là để dò đường, nhưng lần
sau mới là để đặt cơ sở và mưu lợi. Huyền Trang rất có thể kể tình muốn giao hiếu
với Trung Quốc của các vua Cao Xương, vua Harsha, vua Kapica..., và xin Đường
Thái tông cho mình trở lại các nước đó với một bọn thương nhân, rồi sau với một
số quân đội để khuếch trương đế quốc Trung Hoa như chính sách của Bồ, Ý, Hòa,
Anh, Pháp sau này.
Nhưng không. Lòng ông đâu có ti tiểu
như vậy! Từ chối hết tất cả danh vọng, ông chỉ nghĩ đến việc dịch những kinh ông
đã thỉnh ở Ấn Độ về để phổ biến trong quần chúng. Ta quý ông ở chỗ đó, ông được
ngồi riêng một chiếu trong hạng vĩ nhân thế giới cũng ở chỗ đó. Mà công việc dịch
kinh của ông cũng vĩ đại như chuyến thỉnh kinh, đã làm cho đạo Phật truyền bá rất
mau, rất rộng trong cõi Đông Á, đã làm cho tiếng tăm đời Đường chói lọi trong lịch
sử nhân loại.
Mới về nước được hơn một tháng, ông bắt
đầu ngay công việc dịch kinh đại quy mô và mải miết làm luôn mười chín năm cho
tới khi chết.
Ta đã phục óc khoa học của ông khi đọc
những trang du ký trong đó ông ghi chép rất đúng và rất tỉ mỉ từ địa thế, khí hậu,
tới dân tình, phong tục... các miền ông đã đi qua. Ta lại càng thán phục ông
hơn nữa khi thấy ông tổ chức công việc dịch thuật: rất có phương pháp, rất chu
đáo, tưởng như ngày nay, trong thời đại khoa học này, cũng chưa chắc đã có cơ
quan văn hóa nào làm hơn được.
Ông về chùa Hoằng Phúc ở Trường An, mời
các vị cao tăng thông cả Hoa ngữ lẫn Phạn ngữ lại hợp tác. Bắt đầu là phiên âm
những từ ngữ Phạn về triết lý ra tiếng Hán, ghi nghĩa từng từ ngữ, rồi tìm
trong Hoa ngữ những từ ngữ để dịch cho đồng, nếu không có thì tạo ra.
Sau đó là chia nhau ra dịch, nếu ai gặp
một chỗ nghi vấn thì hỏi những vị "dịch chủ”, tức những vị đóng vai chủ yếu,
học thức uyên thâm.
Dịch xong cuốn nào, thì một người đọc
bản chữ Phạn một người dò trong bản Hoa văn xem có chỗ nào dịch chưa sát không;
nếu có thì bàn bạc lại với dịch chủ để sửa chữa.
Rồi coi lại một lần nữa về cách chia
tiết, chương, đoạn và cách chấm câu xem có đúng không. Công việc này có thể làm
ngay sau công việc dịch, trước công việc dò nghĩa.
Tiếp tới việc đẽo gọt lại câu văn.
Sau cùng lại so sánh cả hai bản nguyên
văn và dịch văn một lần nữa, xem đã thật đúng và điêu luyện chưa.
Huyền Trang lãnh việc dịch những kinh
khó nhất và chỉ huy công việc dịch những kinh khác. Trong ba năm đầu, ông dịch
được chín loại kinh (trong số đó có hai bộ Đại Bồ Tát Tạng Kinh và Phật địa
kinh); năm 648 ông đem dâng vua Thái Tông ở Ngọc Hoa Cung.
Nhà vua ngự chế bài tựa "Đại Đường
Tam Tạng thánh giáo tự”, rồi sai một vị hòa thượng dùng lối chữ Vương Hi Chi
chép lại để khắc lên bia. Một nhà đại thư pháp là Chữ Toại Lương cũng sao lại
hai bản, một bản khắc lên Nhạn Tháp của chùa Từ ân, một bản tại Đồng Châu. Hiện
hai bia đá đỏ vẫn còn (theo Trần Hà).
Đây là một đoạn trong bài tự:
"Nay có thầy Huyền Trang pháp sư
là kẻ lĩnh tụ chốn pháp môn. Nhỏ đã linh mẫn, tâm tam không sớm tỉnh ngộ từ
xưa, lớn lại thần tình, hạnh tứ nhẫn trước bao hàm đủ cả (...) Lưu tâm cõi Nội,
từng thương chính pháp suy vi, để ý cửa Huyền, lại khái thâm văn sai suyễn.
Nghĩ muôn chia điều tách lẽ, thêm rộng
tiền văn; tiệt ngụy tục chân, khai cho hậu học. Vậy nên ngóng trông đất Tĩnh
qua chơi cõi Tây; mạo hiểm xa đi, một mình vò võ (…) Chu du Tây Vực, mười lẻ bảy
năm, duyệt lịch nước người, hỏi tìm chính giáo (…) Những nước kinh lịch đi qua,
tóm thu được Tam Tạng kinh văn, phàm sáu trăm năm mươi bảy bộ, đem về dịch ra
tuyên bá nơi Trung Quốc, để tuyên dương thắng nghiệp. Thánh giáo khuyết mà lại
toàn, thương sinh tội mà lại phúc. Tưới tắt ngọn lửa nồng Hỏa trạch, tót ra khỏi
đường mê, lắng trong luồng sóng đục Ái hà, cùng bước lên bờ giác. Thế mới biết
ác nhân nghiệp ngụy, thiện bởi duyên thăng, cái cớ thăng hay trụy đều bởi tại
người cả (…) Những mong kinh này thí khắp, trải bao nhật nguyệt vô cùng phúc nọ
nhuần xa, cùng với kiền khôn rộng khắp”.
Đông Châu dịch (tài liệu dẫn trên)
--------------
Tháng 10 năm đó, Hoàng thái tử cho xây
chùa Từ ân ở Trường An, và một viện dịch kinh trong sân chùa, mời Huyền Trang dời
ban phiên dịch về đó.
Năm năm sau ông dịch được mười bộ nữa.
Năm 660 ông bắt đầu dịch bộ kinh lớn nhất và khó nhất, bộ Đại Bát nhã kinh. Môn
đệ thấy sức ông đã yếu mà kinh lại dài, đề nghị dịch tóm lại, ông không chịu,
cho như vậy là cẩu thả làm hại đến nguyên ý. Ông quyết tâm dịch sát không thêm
bớt. Tốn công nhất là phải tham khảo trước khi dịch: vì có ba bản: Đại Bát nhã
kinh khác nhau đều mang ở Ấn Độ về. Gặp mỗi chỗ đáng nghi, ông suy nghĩ, so
sánh rồi mới dám hạ bút. Tới cuối năm 663, ông đã dịch được sáu trăm quyển.
Ngoài ra, ông còn để lại cho hậu thế
được ba công trình này nữa:
- Bản dịch Đạo Đức kinh ra chữ Phạn để
giới thiệu triết học Trung Hoa với Ấn Độ.
- Viết bộ Đại Đường Tây Vực Ký, gồm 12
quyển chép hết những điều mắt thấy tai nghe trong chuyến thỉnh kinh qua 128 nước.
Bộ này chứa những tài liệu rất quý cho các nhà khảo cổ Ấn Độ và Trung Á sau
này, được dịch ra nhiều thứ tiếng: Anh, Pháp, Nga, Nhật, Đức… và đã giúp các học
giả Ấn sửa lại nhiều điều sai lầm trong lịch sử của họ về thế kỷ thứ bảy.
- Đặc biệt nhất là bản dịch Đại thừa
khởi tín luận từ Hoa ngữ ngược về Phạn ngữ. Nguyên bản chữ Phạn của Ấn Độ đã thất
lạc từ lâu, nhưng ở Trung Hoa còn giữ được bản dịch ra chữ Hán; bây giờ ông dịch
ngược lại để đền ơn những tôn sư và bạn thân Ấn đã niềm nở dạy bảo hoặc tiếp
đón ông (Theo Trần Hà) .
Để thực hành sự nghiệp vĩ đại đó, ông
tổ chức đời sống một cách nghiêm khắc. Mỗi buổi sáng ông lập chương trình phải
dịch bao nhiêu tờ, nếu ngày làm không xong thì đêm phải thức để làm nốt, không
được chậm trễ. Thường canh ba ông mới đi nghỉ, canh năm đã dậy, thuyết pháp cho
trên 100 môn đệ, rồi lại dịch; ngày nào như ngày nấy, năm này qua năm khác,
luôn mười chín năm. Nghị lực cùng sức làm việc của ông thực kinh thiên.
Như tôi đã nói, trước Huyền Trang, đã
có vài người như Cứu Ma La Thập dịch kinh Phật. Sau ông, Nghĩa Tĩnh qua Ấn thỉnh
thêm được bốn năm bộ kinh nữa, nhưng dịch không được mấy. Ta có thể nói trước
sau, hai phần ba công dịch kinh Phật là về ông.
Theo Lương Khải Siêu, công việc đó chẳng
những làm cho đạo Phật phát triển mạnh ở khắp Đông Á, mà còn ảnh hưởng lớn đến
ngôn ngữ và văn học Trung Hoa.
- Từ ngữ Trung Hoa đã giàu thêm được
ba vạn rưỡi tiếng, căn cứ vào bộ Phật giáo đại từ điển. Có những tiếng dịch âm
tiếng Phạn như Nát Bàn, Sát Na (một thời gian rất ngắn), phù đồ (chùa Phật); có
tiếng dịch nghĩa tiếng Phạn như: vô minh, chúng sinh, nhân duyên, chân như...
Mà thêm được 35.000 tiếng là thêm được 35.000 ý niệm.
- Văn bạch thoại phát đạt vì lẽ khi dịch,
người ta lựa những tiếng bình dị cho dễ hiểu, do đó, bỏ cố văn, dùng bạch thoại.
- Văn thể thay đổi. Phạn ngữ và Hoa ngữ
khác nhau. Nhờ công việc dịch mà có sự tiếp xúc, dung hòa giữa hai ngôn ngữ. Chẳng
hạn trong kinh Phật, không dùng hư từ, đối ngẫu mà rất hay đảo trang... đặc điểm
đó ảnh hưởng một phần đến văn học đờii Đường, nhất là phương diện âm vận.
- Văn nhân Trung Hoa vốn ít tưởng tượng
mà hay thuyết lý, nhờ đọc những truyện tân kỳ trong kinh Phật mà bắt chước viết
những tiểu thuyết thần quái. Như bộ Sưu thần ký, và những truyện Thủy hử, Hồng
Lâu mộng sau này đều chịu ảnh hưởng của các kinh Đại trang nghiêm, Hoa nghiêm,
Niết bàn.
Có văn nhân, thi sĩ nào ở đời Đường và
cả những đời sau này nữa mà ảnh hưởng lớn đến bực đó không?
°
Nhưng đã đến lúc Huyền Trang thấy sức
suy lần, tự biết không còn sống được bao lâu nữa. Ông nhớ họ hàng, làng mạc.
Các ông anh đã quy tiên cả, chỉ còn một bà em. Ông về quê, mừng mừng tủi tủi
cùng với em đi tảo mộ tổ tiên. Vẫn còn cái tinh thần của một nhà Nho, mặc dầu
đã trên bốn mươi năm hy sinh cho đạo Phật. Tâm hồn ấy đẹp quá.
Một hôm, ông dặn dò đệ tử "Đời thầy
sắp hết. Thầy nằm xuống thì đừng bày vẽ gì cả đấy nhé. Quấn thây trong một chiếc
chiếu rồi chôn trong một thung lũng, chỗ nào vắng vẻ, tinh mịch nhé?" Trước
khi tịch, ông như bừng tỉnh, nói: “Ta thấy một bông sen lớn ở trước mặt tươi đẹp
lạ lùng". Ba mươi lăm năm trước ông thấy một bông sen đưa ông qua biển cả
đến ngọn núi Phật, bông sen lần này sẽ đưa ông lên cõi Phật.
Ông tịch ngày mùng 5 tháng 2 năm Lân Đức
nguyên niên (664). Ngày 14 tháng Tư, một triệu người ở Tràng An và tứ xứ lại
đưa linh cữu ông tới an táng ở Bạch Lộc Nguyên. Vua Thái Tông lúc đó đã băng;
vua Cao Tông khóc ông và ra lệnh cho đám táng cử hành rất long trọng. Sau đó,
ba vạn người đến cất nhà cư tang ở bên mộ. Trong lịch sử nhân loại, từ xưa tới
nay, chưa ai được cái vinh dự ấy.