Thứ Sáu, 10 tháng 3, 2023

'Chùa Đàn' - một Nguyễn Tuân ma mị và duy mỹ

 

'Chùa Đàn' - một Nguyễn Tuân ma mị và duy mỹ


Nam Thi

Quái dị và tuyệt mỹ là hai tính từ dành cho "Chùa Đàn", tác phẩm hội tụ tinh hoa trong văn chương của Nguyễn Tuân.

Đa phần người đọc, đặc biệt là người đọc trẻ, biết đến Nguyễn Tuân nhiều hơn với thể loại tùy bút hay truyện ngắn như Vang bóng một thờiTùy bút sông Đà…Tuy nhiên, trong giai đoạn 1943 - 1945, Nguyễn Tuân còn theo dòng văn học ma mị bởi sự ảnh hưởng sâu sắc từ các truyện ngắn trong Liêu trai chí dị của Bố Tùng Linh.

Những “đoản thiên ma quái” như Khóa thi cuối cùngTrên đỉnh non Tản, Đới roiXác ngọc lam, Rượu bệnh, Lửa nến trong tranh, Loạn âm hay Tâm sự của nước độc (tức là Chùa Đàm) đã được tập hợp vào tập Yêu ngôn in năm 1999.

Chùa Đàn được viết vào năm 1945, tuy nhiên, sau khi Việt Minh giành được chính quyền tại Hà Nội, Nguyễn Tuân đã mau chóng giác ngộ Cách mạng và viết thêm phần đầu mang tên Dựng và phần kết mang tên Mưỡu cuối cho tác phẩm xuất bản năm 1946. Phần gốc của Chùa Đàn được đặt ở vị trí thứ hai với tên gọi Tâm sự của nước độc.

Vẫn là phong cách duy mỹ thường thấy ở Nguyễn Tuân, ngòi bút của ông trong tác phẩm này hướng đến việc đi tìm cái đẹp, nhưng không còn là cái đẹp hoài vọng, phảng phất u buồn về một thời xa vắng, về những thú chơi trong Vang bóng một thời. Cái đẹp của Chùa Đàn kỳ quái, bi thương và đau đớn hơn rất nhiều khi con người ta sẵn sàng hy sinh thân mình để dùng nghệ thuật mà tái sinh cho một người khác.

Tác phẩm Chùa Đàn.


Đọc Chùa Đàn, ta bắt gặp một Lãnh Út ngày ngày chìm đắm trong đau thương và rượu bởi cái chết của vợ sau vụ tai nạn tàu hỏa. Từ đó, anh thù ghét máy móc, anh cấm tất cả mọi người trong ấp Mê Thảo không được sử dụng vật dụng liên quan đến khoa học hiện đại.

Ta gặp cả một Bá Nhỡ, người quản gia trung tín vốn nhờ vợ chồng Lãnh Út mà thoát khỏi án tử hình vì tội giết người, thế nên hết lòng cung phụng chủ ấp. Đến một ngày, Lãnh Út bỗng thèm được nghe tiếng hát ả đào, Bá Nhỡ đáp ơn tri ngộ, dày công luyện tập để có thể so dây cây đàn kỳ bí được làm từ ván nắp cỗ quan tài một gái đồng trinh của Chánh Thú mà rước cô đầu Tơ về hát.

Bất chấp lời nguyền oan nghiệt của Chánh Thú, Bá Nhỡ khao khát được “sóng tơ mình với trúc người” hầu mong tiếng hát có thể khiến Lãnh Út “có dịp đầu thai lại vào đời sống”. Bá Nhỡ - Lãnh Út – đầu Tơ đã hợp thành “tam vị nhất thể” để tạo nên một buổi đàn ca vô tiền khoáng hậu. Bá Nhỡ đã chết để Lãnh Út hồi sinh.

Một năm sau, ấp Mê Thảo mọc lên chùa Đàn, cô Tơ là người coi kinh kệ ở đó, chùa chưa có pho tượng Phật nào, mà sau bát hương là một cây đàn đáy với những nét chính của nhạc khí được tạc chìm vào gỗ mộc.

Bản nguyên của Chùa Đàn mang đậm tinh thần vị nghệ thuật vốn có trong bút pháp của Nguyễn Tuân, nhưng nhờ sự tài tình trong cách khai thác nội dung, trong ngôn từ đa dạng mà nó hòa hợp với cả vị nhân sinh nữa.

Ta thấy được trong tác phẩm khía cạnh nhân sinh với những con người mang trong mình nỗi khổ đau khác nhau, nhưng họ đều tha thiết với nghệ thuật. Lãnh Út khao khát muốn được thưởng thức, Bá Nhỡ bất chấp cái chết để đánh lên một bản đàn mong thức tỉnh cậu Lãnh, còn đầu Tơ thực sự mong được cất tiếng hát sau nhiều năm mà cầu xin vong linh của chồng cho phép được sánh cùng ngón đàn tài hoa của Bá Nhỡ.

Để rồi người đọc cùng hòa vào đêm nhạc tuyệt mỹ mà hồi hộp, đau xót từng hồi cùng với sự chết dần chết mòn của Bá Nhỡ giữa tiếng nhạc, tiếng trúc, tiếng tơ và giọng hát xúc động của đầu Tơ.


Nhà văn Nguyễn Tuân

Bàn đến khía cạnh nghệ thuật của Nguyễn Tuân, nhà biên khảo Nguyễn Mạnh Đăng có viết: “Những đoạn văn như thế, phi Nguyễn Tuân, chắc không ai viết được. Bởi vì trong giới cầm bút, ai sành sỏi được như Nguyễn Tuân về các ngón nghề của hát ả đào, của cây đàn đáy, của chiếc trống chầu…”. Nguyễn Tuân đã đưa toàn bộ kiến thức uyên bác về nghệ thuật hát theo lối ả của mình vào trong tác phẩm khiến nó đậm chất thơ trong từng câu chữ. Ngay cả khi ông điều chỉnh lại kết cấu của tác phẩm thì ba phần Dựng – Tâm sự cùng nước độc – Mưỡu cuối cũng là một ngụ ý của tác giả để thể hiện đúng cấu trúc ba phần của ca trù.

Có ý kiến đánh giá việc thêm hai phần đầu cuối khiến Chùa Đàn mất đi ít nhiều vẻ đẹp tự thân của nó. Tuy nhiên, không thể phủ định đây là một trong những tác phẩm thể hiện hết phong cách văn chương đặc sắc của Nguyễn Tuân.

Xin được kết lại bài viết bằng nhận định của Giáo sư Hoàng Như Mai: “Trong các sáng tác của mình, nhà văn Nguyễn Tuân biểu lộ một tài năng sáng tạo đặc biệt. Mỗi công trình nghệ thuật đều in đậm dấu ấn đỏ chói của ông, không thể lẫn với một ai khác, không một người nào khác mô phỏng được. Với 'Chùa Đàn', tài năng sáng tạo của nhà văn đã vươn tới thượng đỉnh”.

 

 Đọc thêm.

CHẦU VĂN – TỐNG BIỆT (NSND THANH HOÀI)

Khoảng hơn 10 năm trước mình có dịp xem phim Mê Thảo thời vang bóng trên youtube và có ấn tượng rất tốt với cuốn phim. Nhưng có lẽ cảnh nằm trong đầu mình rõ nhất là NSND Thanh Hoài hát bài chầu văn với NS Thao Giang chơi đàn nguyệt, hát bài Tống Biệt lấy ý từ bài thơ Tống Biệt của Tản Đà.

Đây có lẽ là một clip dân ca VN có một không hai, tiếng ca nức nở và tiếng đàn dồn đập hỗ trợ, cộng với lời bài hát, làm cho trái tim người nghe khóc lóc.

 

Tống biệt

Tác giả: Tản Đà


Lá đào rơi rắc lối thiên thai

Suối tiễn oanh đưa luống ngậm ngùi

Nửa năm tiên cảnh

Một bước trần ai

Ước cũ duyên thừa có thế thôi

Đá mòn rêu nhạt

Nước chảy huê trôi

Cái hạc bay lên vút tận trời!

Trời đất từ đây xa cách mãi

Cửa động

Đầu non

Đường lối cũ

Ngàn năm thơ thẩn bóng trăng chơi…

 

Tống biệt

Bài chầu văn trong phim Mê Thảo thời vang bóng, dựa theo bài thơ Tống biệt của Tản Đà

Đạo diễn: Việt Linh

Diễn viên: Đơn Dương, Thúy Nga

Nghệ sĩ thể hiện: NSND Thanh Hoài hát, NS Thao Giang đàn nguyệt

Tác giả lời: Ẩn danh

 

Hoa đào rơi rắc lối thiên thai

Suối tiễn oanh đưa luống ngậm ngùi

Ngõ hạnh suối đào xa cách mãi

Ngàn năm thơ thẩn bóng giăng soi

Trần ai tri kỷ

Luống ngậm ngùi

Đôi lứa sắp phân ly

Cõi nhân tâm dan díu nghiệp tơ tằm

Say cũng lụy, không say thời cũng lụy

Ơ à ơ … Nhị Hà ơi nước tự lưng trời tuôn ra biển rộng Không vời được đâu Ấy con thuyền ai kia bến nước sâu thăm thẳm Giữa chập chùng bao con sóng ngoài xa Ngẩn ngơ một bóng thông già chơ vơ sườn núi mơ xa mây ngàn Đàn ai gảy như mưa rơi gió cuốn Nợ nhân tình càng vướng càng đau Yêu nhau yêu mấy nhau càng tan nát Chờ ai biển rộng sông dài tang tính tình tang Ai ơi có biết đêm tàn Ai ơi có biết đêm tàn.

Ai ơi có biết đêm tàn lòng yêu càng nặng trái ngang càng nhiều

Dù tan nát cũng liều thân cỏ

Xin nhận về sóng gió muôn nơi

Lênh đênh góc bể cuối trời

Lênh đênh góc bể cuối trời

Tình như ngọn lửa ngoài khơi bão bùng

Ngày tận cùng so giùm khúc hát

Điệu càng đau như hạt mưa bay

Thì giòng sông trôi lấp lửng chân mây

(ới a ới a…)

Thôi xin, xin chàng về nơi núi mờ xa

Nhận em một lạy cho qua một đời

Đường khúc khuỷu khung trời rạn vỡ

Mùi yêu thương nặng nợ ấm êm

Thôi anh về đi chân cứng đá mềm

Xin đừng nhìn chi đau thắt lòng nhau

Xin đừng lưu luyến nát tan lòng nhau

Tình hãy hẹn trùng hoan trong gió

Xin hẹn tình trùng vút trong mây

(í a ới a ới a)……

Tống Biệt – NSND Thanh Hoài hát – NS Thao Giang đàn nguyệt – phim Mê Thảo thời vang bóng. 

Đây là clip trong phim, diễn viên nam (giả đánh đàn) là Đơn Dương, diễn viên nữ (giả hát) là Thúy Nga


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét