Lê Phong Phóng Viên
I.
LÊ PHONG
PHÓNG VIÊN
Một cách xin việc kỳ
khôi
Ngày nào cũng vậy, cứ
đúng mười một giờ sáng là anh ta đã có mặt trong phòng khách tòa báo. Anh ta
nói là muốn giáp mặt ông chủ nhiệm để hỏi về một việc cần lắm. Việc cần ấy, chúng
tôi đã biết: anh ta muốn xin làm một phóng viên.
Ông chủ nhiệm tiếp anh
ta có một lần, rồi bảo tôi:
- Ít ra họ cũng phải hiểu
rằng ở đây có thừa người rồi, phóng viên không phải là người khó kiếm đến thế.
Hôm sau, anh ta lại đến,
rồi hôm sau nữa: lần nào ông chủ nhiệm cũng không có nhà. Nghĩa là ông chủ nhiệm
vẫn có nhà, nhưng không muốn anh ta quấy rầy mãi.
Chúng tôi hễ cứ thấy đồng
hồ đánh mười một tiếng lại nhìn nhau cười. Xuống phòng khách ngó xem thì tôi đã
thấy anh ta ngồi vẫn cái mũ trong tay, hỏi tôi một cách lo ngại:
- Hôm nay hẳn ông chủ lại
đi vắng?
- Vâng, ông ấy vừa mới
ra xong.
Anh ta mím một bên mép
rồi đứng lên thong thả bước ra, ngừng lại toan hỏi tôi một câu, nhưng bỗng đội
mũ đi thẳng.
Sau cùng anh ta không đợi
ở phòng khách nữa, lên đứng ngay ngoài cửa tòa soạn, đợi có người vào là vào
theo liền. Anh ta vừa mới nói:
- Thưa ông...
Thì ông chủ nhiệm ngắt
lời:
- Thưa ông, người ta
không bao giờ nên tự tiện quá đến thế. Ở đây không phải là một cửa hàng.
- Nhưng đây là một tòa
báo.
- Nhà báo không phải để
mở cửa cho hết thảy mọi người.
Anh ta khẩn khoản:
- Vâng, tôi biết thế là
đường đột quá, nhưng xin ông biết cho rằng tôi muốn làm phóng viên, mà nhất là
trong tòa báo ông. Người ta cần phải chọn mặt mà gửi vàng. Tôi muốn đem tài của
tôi dùng cho báo ông trước nhất...
- Nhưng tôi biết tài
ông to đến bực nào?
- Ông cứ dùng thử xem.
- Dùng thử xem!... (ông
chủ nhiệm đã thấy nóng tai). Không, chúng tôi không thiếu người, ông có lòng muốn
giúp, xin cảm ơn. Nhưng tôi không... tôi chưa thể nhận ông được.
Trong lúc ông chủ nhiệm
cau mày cúi xuống đọc những bản thảo trên bàn thì anh ta lại nói:
- Tôi chắc ông sẽ vừa
lòng khi thấy những việc tôi làm sau này... Ông cứ giao việc cho tôi xem... Mà
nếu ông cần biết ngay học thức của tôi...
Không nhịn nữa, ông chủ
nhiệm nói gọn một câu:
- Thưa ông... tôi đi vắng.
Chàng thiếu niên sẽ mỉm
một nụ cười mai mỉa, nét mặt vẫn tươi tỉnh, cúi chào chúng tôi, rồi quay ra.
Ông chủ nhiệm lắc đầu:
- Con người kỳ khôi đến
thế là cùng. Nhưng thôi, thoát nợ.
* * * * *
Sáng hôm sau, chúng tôi
không thấy anh chàng đến nữa. Bị cự tuyệt một cách rõ ràng như thế, tất nhiên
anh ta biết không còn hy vọng gì.
Chiều hôm ấy, đáng nhẽ
không còn việc gì phải làm ngay, chúng tôi lại bận hơn các buổi khác. Bài vở của
số báo sau đã đưa sắp chữ cả, bỗng được tin bị bỏ gần hết những mục quan trọng
(hồi ấy, ty kiểm duyệt vẫn còn).
Ông chủ nhiệm vừa càu
nhàu vừa lục những bài dự phòng ra coi lại. Nhưng vẫn không đủ. Đang lúc chia
tay mỗi người một việc cùng nhau cặm cụi viết lấy viết để, thì cửa tòa soạn bật
mở, chàng thiếu niên hôm qua bước nhanh vào.
Ông chủ nhiệm giơ hai
tay lên một cách chán nản toan sừng sộ hỏi thì người kia nhoẻn miệng cười. Tức
mình, ông để mặc chàng ta đó, đứng dậy gọi người thư ký vào toan cự, thì chàng
ta can:
- Lỗi đó ở cả tôi. Tôi
xin ra ngay. Nhưng xem chừng ông bận lắm thì phải.
- Tôi chẳng bận gì hết.
Nhưng...
- Không hề gì. Nêu ông
vội, xin cứ cho tôi biết... Hay để cho tôi cùng viết đỡ các ông này cho chóng
xong.
Chàng ta nói rất dịu
dàng, miệng tươi cười rất thực thà, khiến ông chủ nhiệm cũng phải nguôi giận.
- Nếu vậy, ông ngồi xuống
đó, viết cho tôi ba cột về việc chủ hiệu cầm đồ lừa đảo... Ông biết việc ấy chứ?
- Biết.
- Nhưng ông có biết tôn
chỉ của báo tôi không đã?
- Định làm cho một tờ
báo lại không biết tôn chỉ báo ấy sao!
- Được, ông thuật về việc
này qua loa thôi, còn thì phải công kích dữ.
- Tôi hiểu.
- Một giờ nữa phải viết
xong.
Bốn mươi phút sau, người
thiếu niên đã đưa cho ông chủ nhiệm ba tờ giấy đặc chữ.
Ông chủ nhiệm cầm lấy đọc
một lần, hơi gật đầu. Đó là triệu chứng hay.
Ông ký bức điện tín người
ta vừa đem vào, đọc nốt trang sau cùng, sửa qua mấy chữ viết không được rõ.
Đọc xong, ông lấy bút
chì xanh viết mấy chữ lên cạnh trang nhất, đứng nhìn người thiếu niên bằng đôi
mẳt gườm gườm, nhưng không có vẻ ác cảm.
Anh ta se sẽ hỏi:
- Thưa ông, bài tôi viết...
- Không tồi lắm. Nhưng
ông nhất định làm phóng viên cho báo tôi?
- Vâng... Sao?
- Vậy ngay bây giờ ông
có thể đi Bắc Ninh được không?
- Đi điều tra?
- Phải, mà phải đi rất
nhanh. Người ta mới bắt được một tụi buôn thuốc phiện lậu rất quan trọng.
Vẻ mặt người thiếu niên
bỗng sáng lên, đôi mắt long lanh như con chó săn thấy con chim vừa rơi xuống.
Anh ta nói một cách sung sướng cảm động:
- Buôn thuốc phiện lậu?
Một bài tường thuật bất kỳ ai cũng phải chú ý! Ồ! Ông cho tôi đi nhé, làm phóng
viên là nghề của tôi.
Lập tức anh ta nhận tiền,
xem giờ xe chạy Bắc Ninh, biên mấy chữ vào sổ tay, rồi nhảy ra ngoài không kịp
chào chúng tôi. Tám giờ tối hôm ấy anh ta cũng có mặt ở tòa báo.
- Trời! Tôi ngốc quá,
không bảo các ông đưa máy ảnh. Nhưng không hề gì!
Chúng tôi hỏi:
- Thế nào? Cuộc phóng sự?
- Ghê gớm lắm, có thể
hay lắm được. Đây là những notes 1 còn đây là những ảnh vẽ phác mấy người phải
bắt. (Vừa nói anh vừa đưa cho chúng tôi xem mấy cái mặt người vẽ rất linh hoạt
trong quyển sổ tay). Phải, thật là một bài phóng sự rất "cừ". Tôi cảm
ơn ông phúc tinh phóng viên của tôi, cảm ơn cả ông chủ nhiệm. Tôi sẽ cho lên
báo những cái ẩn tình mà ít người biết đến.
Rồi ngay lúc ấy, anh ngồi
vào bàn, rút một tập giấy, nói mấy câu chuyện phiếm, rồi chăm chú viết như người
đã quen việc với chúng tôi.
Từ đó, anh là một tay
giúp việc lanh lợi của tờ báo Thời thế về phần phóng sự. Anh
làm một cách rất chăm chỉ, rất chu đáo, lương tâm nhà nghề là một điều thiêng
liêng nhất đối với người con trai này. Anh ta lại nhanh nhẹn, vui vẻ ít ai bằng.
Nói chuyện có duyên, rất hay pha trò. Cách nói chắc chắn, gọn gàng, ngọt ngào
khiến anh dễ làm cho người ta tin, người ta nghe theo, và khi luận bàn thì cả đến
những điều ngụy biện của anh, người ta cũng cho là phải.
° ° °
Phương sách Sherlock Holmès
Người thiếu niên ấy tên
là Lê Đình Phong. Anh ta bỏ chữ Đình đi để gọi cho tiện. Người
tầm thước, ăn mặc thường, nhưng gọn ghẽ; giá chải chuốt thêm ít nữa thì ra dáng
lịch sự ngay. Nét mặt đều, tự nhiên, thường tươi. Trán cao, tóc để dài đằng
sau, đôi mắt to, sáng, linh động, khiến người ta cứ trông đôi mắt anh cũng nhận
được ngay trong đám đông người.
Anh có một cách nhìn
người rất lạ lùng. Nhìn không lâu, nhưng đôi mẳt sắc sảo như hai luồng quang
tuyến soi tận vào trong tầm trí người ta. Khi anh mỉm cười, đôi mắt dịu dàng,
thì anh có một vẻ nhã, thiệp, đáng mến, khiến cho những người lãnh đạm nhất
cũng có cảm tình với anh.
Ngoài ra, Lê Phong còn
hai đặc tính rất đáng chú ý: là tài quan sát tỉ mỉ và cách làm việc khác thường.
Anh đi tới đâu, hoặc
qua chỗ nào cũng vậy, bao giờ cũng đưa mắt nhìn khắp một lượt. Thế là đủ cho
anh ta thu được các cảnh, vật, cử chỉ, dáng điệu một cách rất rõ ràng.
Một hôm đi chơi với tôi
ở gần chùa Láng, anh bỗng nói:
- Hai anh chị đứng đây
nói chuyện thực nên thơ. Nhưng biết nhau chưa được lâu lắm.
Tôi hỏi:
- Anh chị nào?
- Một "công tử"
với một "tiểu thư" đứng bên cái bụi cây này chứ ai?
Nhưng tôi trông quanh
quẩn không thấy bóng người nào hết. Phong nói:
- Họ đưa nhau đi chỗ
khác rồi.
- Nhưng sao anh biết?
Anh cười:
- Vì tôi cùng một trường
với Sherlock Holmès.
Rồi vừa chỉ xuống chân
vừa nói tiếp:
- Ở chỗ này trông ra cảnh
chiều đẹp đẽ, tôi với anh cũng thích đứng ngắm, nữa là người đa tình. Tôi có ý
tưởng ấy, lại trông thấy dưới cỏ một chút tàn với gần đó một mẩu thuốc lá
thơm... hẳn có một người đứng đây, một anh con trai... một chàng "công tử"
với một cô con gái. Vì chàng "công tử" đứng một mình thì không bao giờ
chịu táy máy ngắt những lá dâm bụt kia vứt bừa bãi xuống như thế: đó là thói
quen của một người con gái, một người con gái không được bạo dạn lắm đứng ở bên
cạnh tình nhân. Anh để ý chút nữa thì thấy cả vết gót giày đàn bà in lên lối đi
vào trong chùa... chỗ ấy đất hơi ẩm.
Chúng tôi theo con đường
nhỏ, lững thững rẽ vào chùa thì quả nhiên thấy một người thiếu niên đứng nói
chuyện với một người thiếu nữ đang vẩn vơ nhìn cái cung bát giác ở giữa sân
chùa.
Một lần khác ở tòa soạn,
Phong hỏi một người chạy giấy:
- Bác ở nhà báo Khoa
học đến đây hẳn?
- Vâng.
- Mà vừa rồi, bác suýt
bị nạn phải không? Bác suýt đâm vào một cái xe nứa?
- Vâng. Ông cũng ở đấy
vừa rồi ư?
- Không.
Phong mỉm cười, thu hưởng
lấy cái kính phục của người chạy giấy và của chúng tôi.
Lúc hắn bước ra, anh đủng
đỉnh nói:
- Tôi đã bảo tôi hay
theo phương pháp phân đoán của Sherlock Holmès.
"Phương pháp ấy thần
tình lắm, nhưng cắt nghĩa ra rồi, thì ai cũng cho là chẳng có gì. Đây này: trước
hết, tôi biết anh ta có đến báo Khoa học, là vì anh ta là người chạy
giấy của một nhà báo mà có qua đường Ngọc Hà. Đường Ngọc Hà là một con đường đất
hơi đo đỏ, mà trận mưa buổi sáng làm lầy lội lên. Anh này đi xe đạp qua, thế
nào chẳng có mấy giọt bùn đỏ bắn lên quần áo? Vả trông giày anh ta cũng đủ biết
ít ra có một lần anh ta xuống xe ở giữa đường Ngọc Hà. Anh ta gần đến đây thì
suýt bị nạn xe. Cái đó cũng không khó đoán. Mặt anh ta lúc mới vào đây trông
xanh xám, nhưng đứng một lúc thấy tươi lên dần, đôi mắt vẫn còn có ý hốt hoảng.
Tôi chắc anh ta vừa gặp một sự nguy kịch, chẳng hạn suýt bị nạn xe. Trông vai
áo anh ta thấy một vết đất thẳng, nhìn xuống vành mũ cũng thế, tôi chắc hẳn anh
ta đạp vội, lại đãng trí, tránh không kịp một cái xe bò chở nứa đi trước mặt
(vì nứa thì hay có đất bám và chất lên rất cao) nhưng hú vía không đâm thẳng
vào xe, anh ta chỉ bị sướt qua một cái mạnh".
Những điều chúng tôi
cho là kỳ dị, không ai ngờ, khi anh phân giải ra đều tầm thường lắm. Tuy thế,
chúng tôi vẫn phục anh là một người có kỳ tài. Còn Phong cũng như nhà trinh
thám nước Anh, thường cũng lấy lời khen của người khác làm một sự vinh hạnh.
Tuy nó nhỏ nhưng đủ làm cho người ta vui lòng. Vì thế, có dịp nào trổ tài, anh
cũng không bỏ.
Nhưng một chuyện làm
cho chúng tôi phục anh nhất hồi anh mới vào Thời thế, là một chuyện
mất tiền ly kỳ xảy ra ở tòa báo mà chính anh khám phá ra.
° ° °
Một bài tính rất dễ
Mười giờ tối hôm ấy, Lê
Phong nhảy ba bực thang một, sầm sầm chạy lên nhà báo, đẩy cửa tòa soạn reo
lên:
- Chào mọi người! Các
anh nên mừng đi!
Anh ta đặt máy ảnh lên
một chỗ, thu gọn đám giấy trên bàn chủ nhiệm, ngồi ghé lên đó, vừa cười vừa
nói:
- Tôi được một tin quan
trọng lắm. Tôi liền đi ngay lập tức, một giờ đi, nửa giờ điều tra, một giờ về.
Thế là bài của tôi xong. Đây này (anh giở mấy trang sổ tay chữ viết nguệch ngoạc
đưa ra). Tôi viết ngay tại trận, rồi ngồi trên ô-tô lượt về lại viết nữa. Các
anh cho "sắp" ngay đi!
Bỗng anh ngừng lại,
nhìn từ ông chủ nhiệm Trần Đăng đến ông chủ bút Văn Bình, rồi đến ông trợ bút ở
phòng bên cạnh bấy giờ cũng có mặt ở đó. Anh giương mắt hỏi:
- Có việc gì mà các anh
trông có vẻ nghiêm trọng quá thế?
Trần Đăng trỏ xuống tập
giấy bạc để trên những giấy má:
- Việc này.
- Lành hay dữ?
- Không lành lắm...
Nhưng cái tin quan trọng của anh có báo nào biết nữa không?
Phong cười:
- Có. Nhưng chưa biết
ngay, sớm ra cũng đến mai, nghĩa là biết vì Thời thế cho họ biết.
Ông chủ nhiệm xem qua
"bài" của Phong rồi đưa cho ông trợ bút:
- Anh làm ơn bảo người
thư ký đánh máy ngay làm ba bản, cho họ xếp chữ ngay một, sáng mai đưa kiểm duyệt
sớm, độ chín giờ thì cho lên khuôn...
Rồi ngảnh lại nói với
Phong:
- Còn việc không lành vừa
xảy ra là việc mất hai chục bạc.
"Trước khi anh vào
đây không đầy năm phút tôi đem soạn lại số tiền 300 bạc dưới trị sự đưa lên chiều
hôm nay. Sực nhớ ra một việc cần, tôi phải sang phòng bên với Văn Bình, lúc trở
lại thì thấy mất hẳn một tờ giấy bạc hai chục tôi chặn dưới cái thước này cùng
với những tờ khác. Cửa tòa soạn không khóa, nhưng vẫn đóng. Tôi chỉ vắng đây có
hơn một phút, mà quyết rằng lúc đó, trong này không có ai".
Lê Phong chau mày hỏi:
- Việc mất tiền này, những
thợ in dưới nhà biết chưa?
- Chưa. Vì tôi vừa thấy
mất thì anh đến.
- Bọn thợ in có ai hay
lên đây không?
- Ai cũng lên được đây,
nhưng thường thì chỉ một vài người thợ chính xếp chữ xong đưa bản in thử lên
cho chúng tôi chữa.
- Thế còn những người
chạy giấy?
- Họ về cả rồi, duy có
ít thợ in phải ở lại đến nửa đêm để làm cho xong những việc cần kíp.
- Anh làm ơn cho gọi mấy
người vẫn lên đây cho tôi hỏi.
Ông chủ nhiệm vừa sắp mở
cửa thì Lê Phong cản lại ngay. Anh đưa mắt trông đây đó một lượt, nhìn thẳng về
một phía như để tìm ý kiến, răng cắn hết môi dưới lại cắn lên môi trên. Anh đứng
lên giơ tay đưa về phía giữa bàn làm như muốn với một vật gì, cúi xuống cạnh
bàn xem xét rất kỹ một hồi lâu, rồi lại lom khom đi từ chân bàn ra phía cửa. Tới
đó, anh ngừng lại, vặn cái vặn cửa mấy cái, gật đầu lẩm bẩm như nói một mình:
- Tiếc rằng chỉ mất có
hai chục bạc thôi! Giá là một cái án mạng thì thú quá.
Anh mỉm cười, lấy thuốc
lá hút, thọc tay vào túi quần, đi đi lại lại trong phòng, chốc chốc lại đứng
nhìn cái địa đồ, cái bảng giấy hay bức tranh, rồi sau cùng đến đọc những chữ nhỏ
trên quyển lịch treo trên tường một cách chăm chú.
Chúng tôi chưa hiểu những
trò ấy có kết quả gì, thì bỗng Phong mở cửa ra ngoài, đến ba phút sau mới trở lại.
Anh xoa hai tay vào nhau, đủng đỉnh lại gần bảo chúng tôi:
- Tìm thấy hai chục bạc
không khó một li nào, vì tôi đã thấy rồi; nhưng tôi muốn cho người ăn cắp phải
thú nhận nữa kia. Vậy anh làm ơn xuống nhà in, đừng cho ai biết chi hết, trông
người nào thấp bé, nhanh nhẹn, ngón tay nhỏ, ngắn và bẩn nhất thì gọi riêng lên
đây.
Một chốc, ông chủ nhiệm
lên cùng với hai người thợ in trẻ tuổi:
- Người thấp bé nhanh
nhẹn thì tôi thấy có hai người này...
- Không hề gì. Nãy tôi
quên không nói rõ rằng hắn đi giày cao su, tóc rẽ bên... mặt mũi sáng sủa, lông
mày hơi thưa.
Anh vừa nói vừa nhìn trừng
trừng vào mặt một người thợ in mà anh vừa mô tả.
- Người ấy chính là người
lấy hai chục bạc đó. Anh có nhận là đã lấy hai chục bạc trên bàn này không?
Người thiếu niên cãi:
- Thưa ông, quả tôi
không biết gì về việc tiền nong trên này. Từ lúc đến sở, tôi có lên đây bao giờ
đâu?
- Được lắm, anh không cần
phải thú nhận vì tôi, tôi biết cả rồi. Để tôi nói cho anh nghe xem có đúng
không.
"Hồi gần mười giờ,
anh xếp xong một bát chữ rồi đưa bản in thử lên đây. Trước khi mở cửa, anh nhìn
qua bức màn the căng ở cửa kính này, không thấy có ai, anh cứ lẳng lặng vào
không gõ cửa. Anh toan để bản in lên đó rồi xuống thì trông thấy tập giấy bạc
giữa bàn. Trông trước, trông sau thấy vẳng người, anh liền đứng sát cạnh bàn,
đưa tay trái ra rút lấy một tờ giấy hai chục. Anh sợ ra gặp người nhận được anh
thì sợ bại lộ mất, nên anh giấu tiền đi một chỗ không được kín lắm, nhưng nghĩ
ra được chỗ ấy cũng đáng khen đấy. Anh định việc xong xuôi anh sẽ lên lấy sau.
"Anh ra ngoài, sắp
xuống thang thì anh nghe thấy người chạy lên, anh vội vàng tắt cái đèn trước
kho giấy đi, rồi đứng ẩn vào bên trong cửa kho giấy. Người chạy lên là tôi. Tôi
cũng vô tình không để ý đến ngọn đèn tắt ở trên lối đi... mà ai cũng có thể vô
tình như tôi được.
"Nhưng không may
cho anh là tôi chỉ vô tình có một chút thôi. Tôi vào đây chỉ trong mười phút đồng
hồ là biết rõ được cái cử chỉ của anh... Vậy bây giờ, anh chỉ có việc lại chỗ
giấu tiền ấy đưa ra đây là xong".
Người thợ in như bị đôi
mắt của Lê Phong thôi miên, mặt tái mét đi, hai tay nhem nhuốc những mực in nắm
cái mép áo the để cho khỏi run. Hắn ta tỏ ra vẻ hối hận lắm, vừa mới bắt đầu
nói:
- Thưa ông, tôi thực lấy
làm...
Thì Phong ngắt lời:
- Vô ích. Tôi hiểu rồi,
anh cứ lấy tiền ra đây là êm chuyện.
Người thợ in liền thong
thả đi tới quyển lịch treo gần cửa, ngảnh nhìn chúng tôi một cái và rút tờ giấy
bạc gap tư giắt vào đó đưa cho Phong.
Phong cười:
- Từ nay, nếu anh muốn
ăn cắp tiền thì phải rửa hết những mực in ở tay kia đi. Anh cũng là người mau
trí khôn, nhưng anh chưa phải tay ăn cắp thực thụ.
* * * * *
Sau đó 15 phút, khi
chúng tôi phải hỏi Phong tại sao anh khám phá việc vừa rồi nhanh chóng đến thế,
thì anh hơi nhún vai:
- "Khám phá"
là một tiếng to quá, vì việc này có gì là khó đâu? Những vết tay bẩn trên bàn,
trên nắm cửa, trên quyển lịch kia rõ ràng như những lời tố cáo. Các anh chỉ để
ý một chút cũng thấy được như tôi. Còn như biết được người thợ in đứng nấp
trong kho giấy cũng dễ lắm. Các anh ra đây mà xem.
Chúng tôi theo anh ra,
đến gần cái kho giấy, xế trước cửa tòa soạn và ở về bên kia lối đi. Cái kho giấy
này nhỏ, hẹp gần bằng cái cửa kho, không có cánh, trong đó chỉ để lọt một cái tủ
lớn chia làm nhiều ngăn; tủ này dùng để xếp những báo chí cũ và những bản thảo
không đăng hoặc đăng rồi.
Ngọn đèn mà anh bảo người
thợ in tắt đi lúc trước bây giờ đã sáng. Anh chỉ vào một góc tủ nói:
- Các anh hãy nhìn kỹ
những tấm bìa lớn để chìa ra ngoài mấy ngăn giấy này... Mép bìa riêng một phía
ngăn bên kia, trông nhàu gãy một cách khác thường, nhất là ở hai ngăn giữa. Thể
nghĩa là tất phải có một người đứng nép vào đó. Mà người đó không được cao lớn
lắm, vì cái vết tay hắn áp vào tường kia không cao quá nửa thước tây. Thường
thường thì một người vội vàng sợ hãi đứng nép vào một nơi, cánh tay bao giờ
cũng duỗi thẳng, áp bên mình, như để tìm cách thu nhỏ mình lại.
Thấy chúng tôi khen cái
tài xét đoán của anh thì Lê Phong chỉ bĩu môi, nói đùa:
- Đã có gì gọi là tài,
tôi mong còn có những việc ly kỳ bí mật hơn để bắt cái trí cỏn con của tôi phải
làm việc hơn một chút nữa. Chứ những việc tầm thường như việc vừa rồi, bất kỳ
ai cũng tìm ra được. Làm một cái tính cộng có nhẽ còn khó hơn thế. Lúc nãy tôi
làm bộ nghĩ ngợi, dò xét, chỉ là để cho câu chuyện có vẻ to tát và để
"lòe" các anh một tí đấy thôi.
° ° °
Lê Phong làm việc
Lê Phong thường bảo
tôi:
- Ở cái nước Nam thái
bình này, làm phóng viên thực là một nghề nhàn hạ. Những chuyện rắc rối, kịch
liệt xảy ra ở đâu kia, chứ ở đây thì không. Tôi vẫn thiết tha mong ước có một
ngày tốt kia, đeo máy ảnh bên mình, chạy hết từ chỗ nguy hiểm nọ đến chỗ nguy
hiểm kia, tìm biết được những việc bí ẩn phi thường, lật được những mặt trái
"chưa xuất bản bao giờ" để phô lên mặt báo.
Bởi vì anh ưa điều bí mật,
nguy hiểm, không phải riêng vì lòng ham mạo hiểm. Anh ta chỉ nghĩ đến công
chúng của tờ báo anh ta giúp việc thôi. Cho nên, về phương diện nhà nghề, Lê
Phong có đủ các điều tranh giành, ganh tị. Một tin gì lạ mới xảy ra mà có một
phóng viên báo khác biết trước cũng đủ làm cho anh ta buồn bực mất mấy giờ đồng
hồ. Anh ta sẽ cầm tờ báo kia lên, nhắc đi nhắc lại luôn mồm:
- Quái, một việc như thế
này mà sao mình chưa biết!
Rồi một lát nữa:
- Họ biết trước, nhưng
họ viết tồi lắm. Giá ở tay mình thì... Ồ! Nhưng không can! Bây giờ cũng chưa muộn
lắm, ta vẫn có thì giờ chuộc lại cái tội ghê gớm của ta.
Thế là anh ta đứng ngay
lên, lấy sổ tay, lấy xe đạp, cắm cổ phóng đi như người đi báo tin nhà cháy; rồi
sau đó một giờ hay nửa buổi, hay cả một ngày, tùy theo việc điều tra lâu hay
chóng, anh ta lại về tòa báo viết một bài tường tận về cái việc đã qua. Cố
nhiên là một việc quan trọng.
Hồi nhà báo chưa nhất định
giao những việc điều tra quan trọng và phái anh đi các nơi xa, Phong chỉ đi làm
những việc nhỏ ở Hà Nội và chung quanh đấy.
Phong tự đặt cho mình
cái tên giản dị là "người ngoài phố", vì suốt ngày, trừ những lúc rất
chóng, khi năm phút, khi nửa giờ, anh cắm cúi ngồi viết ở tòa soạn, còn thì anh
lang thang ở các vỉa hè Hà Nội, hoặc ngồi trong tòa án, hoặc đọc những tờ trình
ở một vài Sở Cảnh sát, hoặc ngồi ăn lạc rang hay dí dỏm hỏi chuyện mấy đứa trẻ
bán báo bên hồ Gươm. Quyển sổ tay nhét trong túi rút ra luôn, và cái bút chì
không mấy khi được nghỉ việc.
Cảnh sát, trẻ bán báo,
trẻ bán các quà vặt với phu xe là mấy hạng người phần nhiều quen biết anh. Có lần,
tôi lại thấy anh chào hỏi cả mấy tay đón bạc cho các sòng ở các ngõ hẻm. Phong
nói:
- Tôi quen họ cũng chưa
đủ. Trong bọn họ lại có người coi tôi là bạn thân nữa kia. Đối với hạng nào,
tôi cũng dùng một cử chỉ, một thái độ thích hợp. Có điều tôi kiêng kỹ nhất là
không để họ biết mình làm báo bao giờ. Họ là những nguồn tin tức rất nhanh
chóng cho tôi, giao tiếp với họ có ích không biết là chừng nào, nhưng phải khéo
coi chừng không thì rất nguy hiểm.
Anh lại kể cho chúng
tôi nghe những lúc len lỏi trong những tiệm thuốc phiện lậu, những sòng bạc rất
kín đáo và nhiều phen suýt bị bắt cùng bọn tay chơi. Một lần, anh đã bị người
ta nhầm là có tùng đảng với du côn. Lại một lần khác, trong một hàng cơm rất bẩn
ở phố Hàng Buồm, một bọn phu xe uống rượu say gây chuyện đánh nhau với anh, anh
phải nhảy đập vỡ ngọn đèn treo mới thoát nạn.
Anh có cách cải trang rất
khéo và rất nhanh chóng để dễ đi quan sát các chỗ tối tăm bí hiểm ở Hà Nội, có
đủ các thứ tiếng sống sượng, tục tĩu của đủ các hạng người hạ lưu.
Một buổi tối kia, muốn
làm chúng tôi ngạc nhiên, anh để cả bộ quần áo thợ nguội đi vào tòa soạn. Anh vụng
về bỏ cái mũ "cát kết" xuống, hỏi một cách đột ngột:
- Tôi muốn hỏi ai là chủ
nhiệm với ai là chủ bút ở đây?
Chúng tôi lấy làm lạ
toan trả lời thì anh ta lẳng lặng đi vào, ngồi xuống ghế giở một tờ báo ra coi
và nói:
- Báo của các ông xoàng
lắm! Toàn những tin chó chết là tin chó chết. Nhưng không hề gì.
Nói đến ba tiếng
"không hề gì" thì anh ta phì ra cười và chúng tôi cũng vừa nhận được
mặt. Ông chủ nhiệm Trằn Đăng cau mày hỏi:
- Làm gì mà phải giở những
trò ấy ra thế?
- Làm gì à? Làm một bài
phóng sự mới mẻ chứ làm gì. Các anh phải biết, hơn nửa tháng nay, ngày nào tôi
cũng thắng bộ này ở lẫn với các ông "nhọ đít" trong các sở máy... Kết
quả được một mớ tài liệu trong túi này. Từ số báo sau, anh có thể báo trước bài
phóng sự về thợ thuyên của "bản báo phóng viên Lê Phong" và đặt ngay ở
trang đầu, cho sang trọng.
- Nhưng anh còn đợi gì
mà chưa viết đi?
- Xong hai phần ba rồi,
vì tôi đã có đủ tài liệu...
Sau mấy bài ngắn, Lê
Phong bắt đầu được nhiều người chú ý, độc giả Thời thế càng
ngày càng ham đọc phóng sự của anh ta. Đến lúc anh được phái đi phóng sự các
nơi để làm những cuộc điều tra dài, thì Lê Phong sung sướng như con cá gặp nước.
Hôm anh mang máy ảnh với
va-li lên đường tìm cách theo dò bọn buôn thuốc phiện lậu và súng lậu ở Phủ Lạng
Thương, anh có vẻ cảm động và trịnh trọng như một chiến sĩ sắp ra trận.
Chúng tôi bắt tay chúc
anh "thượng lộ bình an", thì anh xua tay:
- Một người phóng viên
mà "thượng lộ bình an" là một người phóng viên không may. Các anh muốn
tôi đi chuyến này không đem được chuyện gì về nói hẳn? Tôi thích các anh chúc
cho gặp toàn những sự khó khăn rắc rối, bị bắt cóc nữa càng hay.
Theo lời hẹn thì sau đó
hai mươi ngày anh phải về, hoặc gửi bài về trước. Chúng tôi đợi đến ngót bốn tuần
lễ cũng không thấy tin tức gì về anh cả.
Rồi một tháng nữa cũng
vậy. Đánh ba, bốn cái điện tín hỏi, chúng tôi cũng không thấy trả lời. Có lẽ sự
mong mỏi gặp nạn của Lê Phong đã thành sự thực rồi chăng? Có lẽ anh đau yếu
chăng? Càng ngày chúng tôi càng lấy làm lo ngại.
Chưa biết tìm cách gì
thông tin với anh được, thì bỗng chúng tôi nhận được bức điện tín:
"Thời Thế Hà Nội.
- Lập tức gửi phái viên lên Phủ Lạng Thương. Án mạng. Quan trọng lắm. Phóng sự
tiến hành. Lê Phong".
Án mạng? Mà ở đâu?
Còn phóng sự tiến hành?
Về vụ điều tra buôn lậu hay về án mạng?
Bức điện văn ấy vắn tắt
quá, không thể cho chúng tôi biết rõ được. Thì nửa giờ sau, lại một bức điện
văn thứ hai:
"Phái viên lên
ngay. Cần lắm. Cần lắm lắm. Lê Phong, Phủ Lạng Thương".
Ông chủ nhiệm đọc xong,
nhìn tôi không nói gì. Ông cúi xuống viết một cái biên lai giao cho tôi:
- Anh xuống két lấy tiền
rồi đi ngay lên Phủ Lạng.
- Thể còn bài cua tôi
viết dở?
- Viết trên xe lửa,
trên ô-tô, đâu cũng được, nhưng anh phải đi.
Tôi gật đầu, cầm lấy
biên lai rồi xuống.
° ° °
Bắt đầu câu chuyện
Bức điện tín thứ hai của
Lê Phong, chúng tôi nhận được hồi chín giờ sáng. Mười một giờ trưa hôm ấy tôi tới
Bắc Giang.
Vừa qua khỏi cầu sông
Thao thì một đứa con trai chạy theo xe hơi của tôi gọi rối gọi rít:
- Này đứng lại! Đứng lại
đã!
Đứa bé chừng 13, 14 tuổi,
ăn mặc như một trẻ bán báo. Xe tôi đứng lại, nó chạy đến vừa thở, vừa hỏi:
- Ông có phải là ông
Văn Bình ở Hà Nội lên không?
- Phải. Sao?
- Tôi chờ xe ông từ lúc
gần mười giờ. Ông theo tôi ngay, có việc cần lắm.
- Nhưng theo đi đâu? Mà
sao anh lại chờ tôi?
Đứa trẻ không nói gì,
tìm trong túi một mảnh giấy rồi đưa cho tôi. Tôi đọc thì chỉ có mấy dòng viết
bút chì:
"Đừng hỏi lôi
thôi. Bảo đứa bé ngồi lên xe đưa đến đây ngay tức khắc. Lê Phong".
Tôi bảo đứa bé ngồi bên
người sốp phơ để chỉ đường. Nó thấy tôi chau mày đọc lại mảnh giấy của Lê Phong
thì nhìn tôi một cách tò mò tinh quái. Tôi ngửng lên thì nó nhoẻn miệng cười:
- Ông ấy cho tôi một
hào, viết cái giấy này bảo tôi đợi ở đầu cầu, hễ thấy cái xe nào nhỏ, sơn mùi
mát tít, số xe 7777 (bốn số bảy) thì gọi lại hỏi ông Văn Bình. Tôi đợi đã lâu,
gặp hai cái xe gần giống xe ông, rồi cái của ông mới đến...
Vừa ngảnh nói chuyện với
tôi nó vừa luôn mồm bảo người sốp phơ:
- Sắp đến chỗ rẽ. Rẽ
tay phải... Tay phải nữa... Rẽ tay trái... Tay phải...
Đến một phố đông, qua một
nhà chiếu ảnh, xe dừng lại một hiệu cao lâu khách. Đứa bé nhảy xuống đưa tay mời
tôi:
- Ông vào trong này.
- Ở đây à?
- Vâng.
- Thế sao anh bắt xe đi
quanh quẩn mãi?
Nó lại cười:
- Để bù lại cái công
tôi đứng chờ đợi, trời mưa rét, ngồi trong xe êm ghê, dễ chịu ghê! Kìa, ông ấy
đã ra.
Lê Phong chưa tới cửa
đã mắng tôi:
- Sao anh không ngủ ở
nhà mấy giờ nữa?
Tôi đáp:
- Nhận được dây thép
thì xe còn bận, nửa giờ sau mới về nhà báo.
- Thì thuê xe khác
không được à?
Anh ngảnh lại cho thêm
thằng bé con một hào, kéo tai nó lắc sẽ mấy cái:
- Láu vừa vừa chứ, nhé?
Mày định diện ô-tô với ai?
Lúc thằng bé con cầm tiền
hí hửng đi khỏi, tôi hỏi Phong:
- Đứa nào thế?
- Một đứa trẻ tôi gặp
giữa phố. Dễ thường anh bắt tôi bỏ công việc đợi xe anh hẳn? Tôi phải thuê nó
tiền bảo nó đứng đón anh hộ tôi.
Anh kéo tôi qua gian
ngoài hiệu cao lâu, đến một căn rộng và ẩm thấp, la liệt những bàn ghế không có
người ngồi. Tôi hỏi:
- Anh trọ ở hiệu cao
lâu này à?
- Tởm lắm, phải không? Ở
đây không có khách sạn nào khác. Nhưng cần gì? Việc cần nhất là anh đến đây.
Anh phải giúp tôi.
- Thế còn việc điều tra
buôn súng? Sao anh đi lâu thế? Mà sao anh không gửi bài về trước?
Phong không đáp, chỉ mỉm
cười và hỏi lại tôi:
- Anh trông tôi thế
nào?
- Vẫn như trước, có lẽ
hơi sút đi chút đỉnh.
- Thế thì tôi chóng lại
người thật. Ba hôm trước anh trông thấy tôi chắc anh phải ngạc nhiên.
- Anh ốm?
- Không! Hơn thế. Tôi
suýt bị giết. Nhưng không hề gì, vì bây giờ tôi đang nói chuyện với anh. Tôi đi
vào rừng, theo được vết bọn buôn ngang, tìm cách làm quen được với chúng, rồi
được cùng với chúng qua các lối bí hiểm từ Lạng Sơn sang Tàu. Nhiều cái hay lẳm,
lạ lắm. Nhưng cũng nguy lắm, ba lần suýt bị lính đoan bắt. Chúng nó có người tố
cáo. Tôi bị chúng nó ngờ là mật thám, rồi sau cùng, chúng bàn nhau trừ tôi. Tôi
trốn được: 15 ngày lẩn lút ở các rừng. Đói, khát, lo, sợ: đủ. Nhưng cũng không
hề gì. Phải chịu bằng ấy cái khổ mà đem về được một mớ tài liệu quý thế là tôi
hài lòng. Về đến đây, tôi được tin một nửa bọn chúng bị bắt ở Kép, tôi định ở lại
xem xét thêm rồi về Hà Nội thì gặp được cái may ghê gớm: một cái án mạng kỳ
quái mới xảy ra hồi mười một giờ đêm hôm qua.
Lê Phong châm thuốc lá
hút, rồi cùng tôi lại ngồi bên cái bàn vuông bừa bãi những giấy má và bảo tôi:
- Tôi đã đánh bức điện
tín thứ ba thông tin vắn tắt cho Thời thế rồi. Trừ báo mình, không báo nào biết
chóng được thế. Cả buổi sáng hôm nay cũng chưa có một phóng viên nào đến lấy
tin. Phóng viên ở đây làm việc hay tệ. Trưa hôm nay Thời thế phát
hành thì Hà Nội đã biết việc này, đến mai thì có bài tường thuật rất kỹ lưỡng.
Tôi sướng lắm, vì cái án mạng này rắc rối không biết chừng nào mà kể, Sở Liêm
phóng ở đây, có lẽ ở cả Hà Nội lên đầy cũng chưa chắc đã tìm ngay được manh mối.
Vậy thì tôi, tôi sẽ tìm. Để tôi kể tường tận cho anh nghe, anh sẽ viết hộ tôi,
để tôi có thì giờ tra xét thêm... Anh cũng sẽ giúp thêm tôi nhiều việc khác nữa.
Nhưng hãy gượm, tôi đói dữ lắm, để bảo họ đem cơm đã. Anh chưa ăn cơm phải
không?
- Chưa.
Lê Phong ăn rất nhanh
và rất khỏe, mặt mày hớn hở như đứa trẻ được quà. Nước da hơi xanh của anh hồng
dần lên. Mỗi lần hầu sáng đem một món khác vào, đôi mắt lấp lánh và cánh mũi phập
phồng ra vẻ thích chí. Anh bảo:
- Cứ nuôi thần xác mười
hôm bằng những bữa cơm ông hoàng này là thừa bù lại những ngày nhịn đói ở trong
rừng.
Tôi bảo anh kể những
chuyện mạo hiểm ấy cho nghe thì anh lắc đầu:
- Không có thì giờ. Anh
đọc những bài phóng sự sau sẽ biết. Đọc bằng con mắt độc giả để xem bài tôi có
làm họ vui lòng được không. Ồ, nhiều đoạn ly kỳ khiếp lắm. Đây tôi đã viết được
một ít có thể đăng được trong bốn, năm kỳ...
Rồi anh lại đưa tôi xem
mấy quyển sổ tay lớn và dày, bìa ngoài với giấy trong bị nhàu nát nhiều chỗ. Chữ
viết khi bẳng bút chì, khi bẳng bút máy và rất khó đọc. Tôi chỉ nhận được dưới
mỗi đoạn lại có ghi ngày tháng và chỗ anh viết: 12 giờ trưa, 8 janvier,
trên đường Tuần Muội. - 12 giờ ở nhà người Thổ H, đêm... - 10 giờ, 20 Janvier,
viết trong rừng, bên một khóm lửa, vân vân.
- Rồi lại còn những ảnh
chụp nữa, Văn Bình ạ. Nhiều lắm, nhiều cái tuyệt lắm. Mà chụp được họ thực khó
khăn chẳng kém gì lên cung trăng... Tôi sẽ nói những nỗi khó khăn ấy với những
mưu mẹo tôi dùng ở những bài sau này. Bây giờ nói chuyện đến cái án mạng đã.
Lúc ấy, hầu sáng đã
mang cà phê tới. Tôi chăm chú ngồi đợi Lê Phong thuật chuyện, thì anh ta lại lẳng
lặng, ngả người trên chiếc ghế, gác hai chân lên bàn, lim dim mắt nhìn tôi...
Anh có dáng mơ màng của một người nhớ đến những chuyện vui xưa và đang sung sướng
hưởng cái thú êm đêm ấy. Tôi giục hai, ba lần, anh mới bỏ chân xuống, ngồi thẳng
dậy nhích ghế lại gần chỗ tôi, kéo nốt một hơi thuốc lá cuối cùng, rồi anh bắt
đầu nói:
- Cái án mạng này có đủ
các điều bí mật của một vụ án mạng lạ lùng ở Âu châu. Thực tôi không thể ngờ được
rằng ở nước Nam này lại còn có một chuyện kỳ thú về nghệ thuật giết người đến
thế... Bước đầu của tôi trong nghề phóng viên thực là có nhiều cái may không biết
ngần nào. Tôi quyết rằng tôi sẽ là người phóng viên thứ nhất để khám phá một
cái án mạng kỳ dị nhất.
"Bao nhiêu tâm lực
tôi, lý trí tôi, tình cảm, thị hiếu, bản năng, trực giác của tôi đều sôi nổi
lên... đều ‘thức tỉnh’ để chăm chú đến việc này.
"Phen này tôi đánh
một ván cờ rất lạ với quân giết người mà tôi biết rất là tài tình. Tôi phải thắng,
mà thắng một cách... rực rỡ. Nếu không, Văn Bình ạ, nếu không thì tôi không
đáng là một phóng viên nữa, tôi sẽ không làm phóng viên nữa, mà không làm phóng
viên nữa thì thôi! Đời tôi không còn có nghĩa lý gì!"
Đôi mắt Lê Phong có những
tia sáng bất thường. Giọng nói của anh mỗi lúc một nồng nàn thêm nhiều câu rung
động bên tai tôi, nghe thiết tha và quả quyết như những lời thề nguyền. Anh yên
lặng một lát, nét mặt dịu dần, rồi cười nhìn thẳng vào mặt tôi như để dò xét
tình cảm tôi sau khi nghe những lời khẳng khái ấy.
- Đoạn "văn mở đầu"
ấy là chỉ nói cho chúng mình nghe với nhau thôi. Nói cho anh rõ tâm sự và lòng
mong mỏi của tôi trong khi tìm khám phá cái án mạng này. Bây giờ mới vào bài,
anh lắng tai mà nghe.
Rồi Lê Phong bắt đầu kể.
° ° °
Cái may ghê gớm của Lê
Phong
Ăn xong bữa cơm tối hôm
trước, Lê Phong xem lại và thu gọn giấy má trên cái buồng nhỏ ở hàng cao lâu An
Wing, rồi điếu thuốc lá ngậm bên mép, quyển sổ nhét trong túi, anh lững thững
đi trong mấy phố vắng, nghĩ đến bài phóng sự sắp làm sôi nổi "dư luận"
nay mai. Phong chưa đi Hà Nội ngay là vì anh còn muốn phỏng vấn mấy người mới bị
bắt. Mấy người này là những tay buôn súng đã từng chuyện trò với Phong trong
khi anh giả làm một người buôn gỗ trái phép và nhập bọn với họ trong rừng. Anh
ngẫm lại những phen mạo hiểm đã qua và cười một mình:
- Bây giờ họ gặp mặt
ta, nếu nhận ra được thì cũng khá buồn cười.
Vì họ có lần ngờ cho
anh, nhưng chỉ tưởng là người của nhà đoan, chứ không biết anh là một phóng
viên nhà báo.
Mưa vẫn lót phớt bay từ
buổi sáng, bấy giờ tuy đã tạnh, nhưng mỗi cơn gió thổi lại làm rụng xuống những
hạt nước đọng trên các đầu cây. Lê Phong hít thử cái không khí lạnh lùng ban
đêm một cách khoan khoái. Dưới ánh đèn điện thưa, mặt đường lấp loáng ở giữa
hai dãy nhà im lặng. Tiếng giày của Lê Phong thong thả nện trên bờ hè... Qua mấy
phố cùng vẳng tẻ như nhau, anh ta rẽ sang con đường chạy qua nhà ga. Lúc đi tới
trước cửa Sở Cảnh sát thì đã quá mười giờ.
Phong chú ý nhìn chiếc
đồng hồ đeo tay của anh. Cái mặt kính rạn ra mấy đường cong queo nhắc cho anh
nhớ tới những phút nguy kịch anh chạy trốn trong rừng... Bỗng một chiếc xe hơi
sấn sổ chạy đến, bùn nước bắn tóe ra làm Phong phải nhảy lánh vào một phía.
Phong đang lẩm bẩm mắng anh tài xế thì xe rít lên một tiếng, đứng im lại, rồi cửa
xe mở, một người ăn mặc âu phục nhảy ra.
- Không phải chuyện thường.
Phong tự nghĩ thế, rồi
mặc kệ hai ống quần bùn bắn, lẻn đứng bên gốc cây gần đó, và nghe.
Người đàn ông kia chạy
như một thằng điên vào đập cửa Sở Cảnh sát. Lúc hắn quay trông ra thì ánh điện
soi vào một cái đầu không đội mũ. Phong nhận được một bộ mặt bơ phờ, nhớn nhác,
nhưng nét đầy đặn, cái miệng hé mở lấp lánh mấy chiếc răng vàng. Phong bước lại
gần. Cửa Sở Cảnh sát mở, người đàn ông liền nắm lấy tay viên cẩm, vừa nói vừa
thở mấy câu tiếng Pháp:
- Thưa ông chánh cẩm,
nhà tôi vừa gặp một sự ghê gớm lắm. Người em họ vợ tôi vừa mới bị giết... Ông đến
mau lên.
Viên chánh cẩm toan càu
nhàu, nhưng khi nhận được ra người vừa đến và nhất là khi nghe người ấy nói thì
vội vàng mời người ấy vào. Cửa Sở Cảnh sát mới đóng lại được nửa chừng, bỗng ngừng
lại. Lê Phong đã đứng đó.
Anh ta thấy vẻ mặt viên
cẩm không được nhã nhặn mấy, liền giả vờ sợ hãi vội vàng như người đàn ông lúc
nãy, rồi lẳng lặng theo người ấy vào.
- Thế nào? Người nhà
ông bị giết thế nào? Lúc mấy giờ?
- Vừa bị giết xong một
nhát dao đâm trúng tim, chết ngay lập tức.
- Mà ai giết?
- Tôi không biết. Tôi vừa
ở Hà Nội về. Đến cổng thì thấy tiếng vợ tôi kêu, lên đến nhà, chạy sang phòng
bên, thì đã thấy Ngung nằm trên vũng máu. Ngung là người em vợ tôi. Cửa ngõ nhà
tôi đóng cả. Cửa sổ đóng, cửa phòng khóa. Ngung vẫn ngồi nói chuyện với vợ tôi ở
phòng giữa. Mười giờ, vợ tôi sang buồng bên cạnh đi ngủ, bỗng thấy tiếng kêu
ghê gớm, chạy sang thì Ngung đã bị giết rồi... Con dao còn cắm ở ngực... Mà
trong nhà không có một người nào khác... Tôi sợ quá, vội chạy lên đây báo ông.
- Ông chắc người kia chết
thực rồi ư?
- Chắc.
- Được, để tôi gọi điện
thoại cho ông dự thẩm với ông thầy thuốc của tòa án, rồi ta đi... À, ông có xe
đấy chứ?
- Vâng, ở ngoài kia.
Ông cẩm chỉ vào Phong:
- Thế còn người này?
Người đàn ông giương mắt
nhìn Phong rồi nhìn viên cẩm:
- Kìa, tôi tưởng ông
này là người trong sở?
Viên cẩm:
- Còn tôi, tôi tưởng là
người đi với ông.
Phong liền cúi đầu chào
cả hai người, mỉm một cái cười có duyên nhất của anh ta và nói một câu rất lễ
phép:
- Thưa các ông, các ông
tưởng nhầm cũng phải, vì tôi chưa tự giới thiệu.
Viên cẩm bỗng đùng đùng
nổi giận:
- Nhưng mà... ai cho
phép ông vào đây?
Lê Phong dịu dàng thưa:
- Ông cẩm có việc bận
thế, ai dám xin phép để mất thì giờ của ông... Nhưng mời ông hãy đi đánh điện
thoại cho ông dự thẩm với ông đốc tờ đi đã. Việc ấy cần hơn.
- Ồ, ông rõ thực là...
Nhưng ông cẩm đi vào, bảo
một người ở bàn giấy trong:
- Ông làm ơn gọi máy
nói đến nhà ông dự thẩm ngay cho, nói rằng có việc rất cần, một cái án mạng ở
phố... (viên cẩm hỏi người đàn ông) ở phố nào nhỉ?
- Phố Châu Giang.
- Ở phố Châu Giang, nhà
ông Léon Yune, chúng tôi đợi ông ở đây để cùng đi. Ông lại báo tin này cho ông
đốc tờ biết nữa.
Rồi ngảnh nhìn Phong bằng
đôi mắt thù hằn, để sắp sửa nói tiếp câu giận dữ lúc nãy:
- Ông là...
Thì Phong liền đỡ lời:
- Tôi là một người rất
kính trọng ông cẩm, đó là một việc. Tôi lại là phóng viên của một nhà báo lớn:
báo Thời thế, đó là một việc thứ hai. (Vừa nói, anh ta vừa lấy tấm
giấy chứng nhận của nhà báo đưa ra cho viên cẩm xem) Tôi bước chân vào đây có cả
hai việc đó, và mong rằng...
- Tôi cũng mong rằng
ông ra khỏi đây ngay tức khắc, tôi không cần đến phóng viên.
Lê Phong vẫn giữ nụ cười
có duyên.
- Vâng, nhưng nếu tôi
không thể có ích cho ông thì xin ông cho phép tôi có ích cho báo của tôi vậy.
Tôi muốn điều tra về...
- Ông muốn điều tra thì
mai lại đây mà hỏi. Còn đến khám xét là công việc của luật pháp, chứ không phải
việc các ông.
- Nhưng chúng tôi muốn
giúp luật pháp một phần...
Viên cẩm không thèm
nghe Phong nói hết đi thẳng vào bàn giấy sắp mấy tờ giấy để vào cặp. Một lúc lâu
ông mới đi ra.
Phong ngảnh lại nói với
người đàn ông đứng đó:
- Thưa ông, chúng tôi
mong biết rõ sự thực, sự thực tường tận, và mong ông sẽ vui lòng cho chúng tôi
được biết rõ về việc này. Tôi sẽ xin hết lòng giúp ông, nếu chúng tôi có thể
giúp được...
Nhưng viên cẩm không
cho Phong nói nữa, ép anh ta lui ra cửa, thì vừa lúc ông dự thẩm và sau đó gần
một phút, ông đốc tờ cũng bước vào.
Viên cẩm thuật qua lời
người đàn ông và không quên nhắc đến sự quấy rầy của người phóng viên nhà báo,
cho hai người mới đến nghe, rồi cùng vội vã ra xe hơi, mặc Lê Phong ở lại.
Lê Phong buồn bã, đứng
nhìn theo họ, còn nghe thấy viên cẩm càu nhàu:
- Ồ, các phóng viên bao
giờ cũng thế, mà ở đâu cũng thế!
* * * * *
Xe chạy trong năm phút
đã đến nhà xảy ra án mạng. Một cái nhà hai tầng rộng lớn, ở lui vào trong sau
những dãy nhà thấp hơn và xa đường chừng hai mươi thước. Chung quanh nhà, tường
cao vây kín. Xe dừng lại bóp còi đợi cho cái cổng sắt mở rồi đi thẳng vào trong
sân.
Ba người Pháp: viên dự
thẩm, viên cẩm, viên đốc tờ và người đàn ông đên báo tin lúc nãy cùng lên gác,
vào trong một phòng ngủ thì thấy một người thiếu phụ đang ngồi ôm mặt khóc, ở
bên giường:
- Người này là vợ tôi.
Chỗ em tôi bị giết ở phòng bên cạnh.
Người đàn ông nói rồi
đưa mấy người Pháp sang căn phòng bên, nửa là phòng khách nửa là phòng đọc
sách. Người chết nẳm trên một cái divan rộng, áp vào một phía tường.
Viên dự thẩm đưa mắt
nhìn quanh một lượt, chưa để ý đến cái tử thi vội. Ông đi lại bên cái bàn vuông
nhỏ giữa phòng, ngồi xuống, đặt giấy má lên đó rồi nói với người đàn ông:
- Trước hết, chúng tôi
cần biết trong nhà có bao nhiêu người? Có ông là ông Léon Yune... tên ông là
Léon Yune phải không?
- Vâng, như ông đã biết.
- Ông là dân Hoa kiều?
- Tôi là khách lai.
- Bao nhiêu tuổi, và
làm nghề gì?
- Ba mươi sáu tuổi,
buôn bán và chủ đồn điền.
- Vợ ông, tên là gì?
Bao nhiêu tuổi?
- Đào thị Can, hai mươi
chín tuổi.
Ông ta cúi xuống biên
chép mấy chữ rồi lại nói:
- Ông làm ơn cho gọi bà
Léon Yune sang đây.
Lúc ấy viên cẩm bỗng
cau mày xẵng tiếng hỏi một người có mặt đứng ở khung cửa thông sang phòng ngủ.
- Ai cho phép ông vào
đây mới được chứ?
Người ấy là Lê Phong.
Lê Phong cười:
- Xin lỗi các ông! Tôi
quyết không khi nào làm trở ngại việc các ông, các ông cứ cho tôi là một người
khách quan, một người khách quan vô tư, yên lặng như bức tường này là đủ.
Cái cười có duyên của
anh, anh lại đem ra dùng một lần nữa để đưa đẩy câu nói của mình:
- Vả lại, cho công
chúng biết việc án mạng này với biết tài tra xét và quý danh của các ông, chắc
cũng không khiến cho các ông phiên lòng quá.
Ông dự thẩm thấy điệu bộ
nhanh nhẹn và láu lỉnh của Lê Phong, yên lặng nhìn anh ta, nhưng đôi mắt của
ông không tỏ ra vẻ ác cảm với anh lắm.
Viên cẩm vừa bĩu môi vừa
nhún vai; còn viên đốc tờ chỉ nói:
- Mà cho người ta ở đây
cũng không có hại gì.
Lê Phong cúi chào ra ý
cảm ơn ông đốc tờ:
- Vâng, không những
không có hại gì, mà tôi lại giúp thêm các ông được một tay. Trước hết, tôi đã
xem qua giúp các ông cái lối đi qua trước cửa ba gian phòng ở trên gác này, và
tôi thấy có những vết giày từ đầu thang gác đến cửa buồng ta đương đứng đây. Cửa
buồng này khóa. Nên vết giày lại thấy đi từ đó sang cửa phòng ngủ đằng sau
tôi...
- Đó là vết giày của
tôi (lời người khách lai).
- Vâng, tôi hiểu. Nhưng
vết ấy tỏ ra rằng ông nghe thấy tiếng kêu của bà Duỳn đã chực mở cửa phòng giữa,
nhưng không được nên mới chạy sang cửa phòng bà...
Viên cẩm vội ngắt lời:
- Thế nghĩa là ông chẳng
tìm được cái gì lạ hết. Những điều quan sát trẻ con ấy, ông không cần phải dạy
ai. Ông muốn xem thì đứng yên đó, không nói năng, không bàn bạc. Nếu không thì
mời ông ra.
Lê Phong lại cúi chào,
rồi nhích sang một bên để người thiếu phụ bước vào.
Anh ta đem hết sức tinh
tường của đôi mắt trong sáng ra để trông khắp phòng, trông rất nhanh nhưng rất
cẩn thận.
° ° °
Vẫn câu chuyện của Lê
Phong
Tới đoạn chuyện mà tôi
thuật ra trên kia, Lê Phong ngừng lại, lấy điếu thuốc lá khác nối theo điếu trước,
rồi ngửa cổ phun khói lên trần nhà.
Tôi hỏi:
- Anh làm thế nào đến
nhà người khách lai chóng được thế? Bọn kia đi ô-tô kia mà?
- Thì tôi cũng đi ô-tô.
- Ô-tô nào?
- Ô-tô của họ.
Phong cười vì thấy tôi
ngẩn ngơ chưa hiểu. Anh nói:
- Con nhà làm báo ít ra
cũng phải có một nghìn và một mưu kế trong túi, hay nói một cách giản dị hơn,
ít ra cũng phải tinh quái hơn ma. Anh thử nghĩ xem, tôi vì sự tình cờ, trong một
đêm tẻ ngắt ở một tỉnh cũng tẻ ngắt như Phủ Lạng Thương này, bỗng dưng gặp ngay
một việc khác thường, gặp một cái án mạng mà tôi gọi là "cái may ghê gớm"
của tôi, còn cơ hội nào tốt hơn nữa. Tất nhiên là tôi vội vàng nắm lấy cổ nó. Nắm
cổ cái cơ hội, đã đành.
"Cho nên khi bọn
ông dự thẩm ngồi vào xe, tôi buồn rầu vì không được đi theo họ. Chợt nảy ra một
cái ý kiến. Tôi liền nhảy thẳng ba bước, thêm một bước ngang về tay trái: thế
là bạn anh đã bám được cái hòm ở đằng sau xe.
"Đi ô-tô bằng cách
ấy kể cũng không được sang trọng mấy. Nhưng cần quái gì? Cách nào dẫn được đến
chỗ án mạng cũng tốt.
"Tôi rón rén theo
họ lên gác mà họ không biết, đứng lại ở cái lối đi ngang trước ba cửa buồng
trên đó, nhân thể đi quan sát rồi cẩn thận đi vào trong căn phòng thứ nhất là
chỗ vợ người khách lai đương ngồi khóc một mình. Mấy nhà chức trách đang khám
xét phòng giữa ở ngay bên cạnh. Bên này, tôi lại đóng vai kịch lúc ở Sở Cảnh
sát: nghĩa là trước mặt người thiếu phụ tôi giả vờ làm một người theo ‘quan cẩm’
tới đây. Người thiếu phụ cũng không buồn hỏi xem tôi là ai, nên vai kịch cũng dễ
đóng.
"Tôi vừa nghe
ngóng, vừa xem xét gian buồng ngủ này một lát, định hỏi người thiếu phụ mấy câu
thì bên kia ông dự thẩm đã cho gọi cô ta. Tôi liền bước sang, và vì thế mới thấy
bộ mặt ngạc nhiên và khó chịu của viên cẩm.
"Cũng may mà ông dự
thẩm không ghét người một nhà báo, lại thấy tôi là một phóng viên không đụt lắm,
nên cho phép tôi được theo đuổi cuộc điều tra riêng của tôi. Một lần tôi nghe
thấy ông ta nói với viên đốc tờ:
"- Người thiếu
niên ranh mãnh này nhắc tôi nhớ tới mấy tay phóng viên bên Pháp.
"Cái cảm tình ấy
có ích cho tôi lắm: trước hết viên cẩm bắt đầu nhìn tôi một cách ôn hòa hơn...
"Người thiếu phụ,
vợ Lường Duỳn bước vào phòng thì viên cẩm mời cô ta đợi đó. Trong lúc ấy, ông dự
thẩm cùng với ông đốc tờ đến khám xét tử thi. Người bị giết trạc độ ngót ba
mươi, mặc một bộ pyjama màu da trời, đẫm những máu, nhất là ở phía ngực. Mặt
lúc thường có lẽ đều đặn, trắng trẻo, lúc đó trông xanh xám và lộ ra vẻ sợ hãi
không biết chừng nào. Vũng máu ở trên sàn gỗ, gần phía đường trong, tỏ ra rằng
trước khi người ta đặt hắn lên chiếc divan, hắn đã có lẫn ngã gục xuống đất.
"Hắn bị giết bằng
một thứ dao nhọn, chuôi gỗ, mà lúc ấy, ông đốc tờ đã rút ra. Lưỡi dao dài hơn
mười phân tây và cắm ngập vào gần hết. Lúc người thầy thuốc lấy kéo cắt mở cái
áo pyjama ngoài với hai lần áo pullover và sơ-mi trong ra, thì thấy rõ vết đâm
trên ngực người chết. Vết ấy nằm ngang phía dưới vú, rộng chừng hai đốt ngón
tay. Ông đốc tờ xem cẩn thận tử thi một lúc lâu, rồi ngửng lên:
"- Không có vết
thương nào khác. Người chết bị đâm trúng tim, đâm rất mạnh, vì con dao cắm sâu
vào những tám phân. Ông cẩm, ông thử hỏi xem ở trong nhà này có ai biết con dao
này không?
"Mọi người đều trả
lời không và nói thêm rằng chưa từng trông thấy thứ dao như thế bao giờ.
"Nhưng đối với tôi
thì con dao ấy không phải là một vật lạ. Đó là một thứ khí giới nhỏ của người
Thổ, Mán đem theo trong lúc đi rừng. Lưỡi dao những lúc không dùng đến, thường
tra trong vỏ gỗ ngoài bọc da, hoặc bọc mây ken.
"Tôi xin phép cầm
lấy dao xem, bỗng kinh ngạc vô cùng: đằng chuôi dao, tôi đọc thấy bốn chữ nho
khắc nông vào gỗ: ‘thần đao bảo mệnh’. Tôi nhớ lại rõ ràng rằng đã có lần trông
thấy con dao giống như thế ở tay một người buôn lậu. Trông những nét chữ cứng,
tôi lại thấy còn nguyên những vết đất nhét vào. Hai người Pháp thấy tôi có vẻ
suy nghĩ, cũng lấy làm lạ. Một người hỏi:
"- Có việc gì vậy?
"Tôi đáp:
"- Nếu đó là sự
tình cờ, thì thật là một sự tình cờ rất lạ lùng. Con dao này tôi đã từng trông
thấy trong lúc dò theo bọn buôn lậu trong rừng để làm phóng sự... Vậy thì việc
án mạng này hẳn có liên can đến bọn ấy. Vừa rồi, bọn chúng bị tố cáo, và một số
người bị bắt, vậy có lẽ đây là một việc trả thù... Nhưng đó chỉ ý riêng của
tôi, xin các ông cứ tra xét cho cẩn thận".
Mọi người cùng thấy một
cảm giác kỳ dị mới lạ: cái bí mật hình như dần dần ám đến, mỗi lúc một nặng nề
thêm.
"Trên mặt mấy người
Pháp, tôi thấy có vẻ rất trang nghiêm. Còn người khách lai và người thiếu phụ thì
mặt như tái đi, vì lo sợ...
"Khám xét tử thi
thì không có một dấu vết tỏ ra đã phải chống cự với một người trước khi bị giết.
"Vả trong phòng,
bàn, ghế vẫn có thứ tự; một bộ xa lông nhỏ ở giữa, trên có mấy cuốn tạp chí và
hai quyển tiểu thuyết; phía đầu chiếc divan bên tay phải, một cụm hoa tươi cắm
trong một cái bình pha lê. Phía tường trong, một chiếc bàn dài và cao, bằng gỗ
gụ đen và đánh xi bóng loáng. Bàn kê áp vào trước cái cửa sổ có chấn song sắt,
cánh cửa chớp bên ngoài đóng chỉ mở có hai cánh cửa kính bên trong. Đối diện với
cửa sổ là cái cửa vào vẫn khóa, mà chìa khóa ở trong vẫn cắm ở lỗ khóa. Bức tường
phía trái có một cửa ăn thông sang phòng của Đào Ngung, tôi đã có thì giờ xem
qua gian phòng này: cửa sổ cũng đóng và cánh cửa ra ngoài hiên gác cũng khóa. Bức
tường bên phải có cửa thông sang phòng ngủ của hai vợ chồng người khách lai.
"Đây tôi phác về
cái plan (bình diện) ba gian trên gác cho anh dễ thấy".
Rồi Lê Phong lấy bút vừa
vẽ vừa cắt nghĩa cho tôi xem bức bình diện sau này:
"Anh xem đó, thì biết cái án mạng này thực là khác thường. Mà thực là một vụ án mạng, chứ không phải là một vụ quyên sinh. Mấy cuốn tạp chí vui còn mở, để trên mặt cái bàn tròn mà người chết vừa đọc một giờ trước, với hai cốc rượu mùi để trên lò sưởi, tỏ ra rằng người chết không phải là người rắp tâm tự tử. Vả theo lời vợ chồng Lường Duỳn, thì Đào Ngung vẫn là người vui tính, thích sống và không có một điều gì bận lòng qua... Mà nếu muốn tự tử chăng nữa, tất phải chọn những lúc khác.
"Vậy thì con dao
kia tự đâu mà cắm vào ngực Đào Ngung? Tự tay ai, mà ai có thể vào được đây? -
Bí mật!"
° ° °
Cuộc thẩm vấn
(Tiếp theo lời thuật
chuyện của Lê Phong)
Cuộc thẩm vấn làm ngay
tại trận rất kỹ càng chu đáo, nhưng sự bí mật càng thấy dày đặc hơn.
Người khách lai khai rằng
Đào Ngung không quen biết ai ở Phủ Lạng Thương. Về cuộc đời của Ngung, Lường Duỳn
cũng không được biết rõ lắm. Vì tuy Ngung có họ với vợ hắn, nhưng mới biết nhà
chị được có từ đầu tháng Sáu, nghĩa là cách đây tám tháng, nhân một hồi vợ Lường
Duỳn đi Lao Kay thăm bà con. Từ đó Ngung thỉnh thoảng đến Phủ Lạng ở chơi đôi
ba ngày, lần này định ở đó ít lâu để nhờ Duỳn tìm cho một việc. Thấy Ngung là
người nhã nhặn, lịch thiệp, nên Duỳn rất có bụng mến, và muốn giúp trong lúc cơ
nhỡ. Nhân có ít đồn điền ở Kép, người khách lai đang tìm người giao cho việc
coi sóc để khai khẩn thêm, ông ta định rằng trù tính xong mấy việc riêng rồi sẽ
đưa Ngung lên Kép để Ngung ở đó cai quản thay cho mình. Hai giờ chiều hôm đó,
Lường Duỳn phải đi Hà Nội lập thương ước với đại biểu một hội buôn ở Hồng Kông
mới sang: ông ta có giao dịch với những nhà đại thương ngoại quốc. Việc điều
đình xong sớm, ông ta không muốn lưu lại ở Hà Nội đến hôm sau theo như lời đã dặn
ở nhà, nên ngay tối hôm đó một mình đi xe hơi về ngay. Vừa đến cổng nhà thì đã
nghe thấy tiếng vợ kêu, mãi một lát sau, đầy tớ mới thức dậy ra mở cổng. Duỳn
đâm bổ lên gác thì đã thẩy Đào Ngung bị giết rồi. Viên cẩm hỏi:
- Lúc ấy mấy giờ?
- Mười giờ hai mươi.
- Thế ra đầy tớ nhà ông
đã ngủ cả?
- Phải. Tôi thường cho
chúng nó đi nghỉ sớm. Tiếng vợ tôi kêu với tiếng tôi gọi mất đến hai, ba phút mới
thấy chúng nó dậy.
- Họ thường ngủ say đến
thế kia ư?
- Tôi không gọi chúng
nó khuya bao giờ, nên không được biết.
Viên cẩm lại hỏi:
- Lúc ông lên tới đây
thì ông đã thấy đầy tớ ông có đứa nào lên đây trước chưa?
- Chưa. Chỉ thấy vợ tôi
đang kêu khóc bên tử thi Ngung.
- Ông chắc chứ?
- Chắc. Tôi vừa vực
Ngung dậy đặt nẳm lên divan, rồi mới thấy thằng bếp với thằng xe vào. Còn con
sen thì vào sau, vợ tôi phải đi đánh thức nó dậy.
- Con sen ngủ ở đâu?
- Ở cái buồng nhỏ trước
cửa phòng ngủ chúng tôi.
Lê Phong vẫn lẳng lặng
ngồi nghe không bỏ sót lời nào, vừa nghe vừa lấy bút chì ghi chép lấy những chỗ
quan trọng. Lúc ấy anh bỗng ngừng lại len một câu nói:
- Xin phép cho tôi hỏi
một điều cần lắm. Buồng con sen lúc ấy đóng hay mở?
Người khách lai ngảnh lại
hỏi vợ:
- Hình như vẫn đóng, có
phải không mình?
Người thiếu phụ gật đầu.
Lường Duỳn nói:
- Đóng, nhưng vì buồng
ngủ của nó ở trước buồng ngủ của tôi, nên mọi khi gọi đến hai tiếng nó đã tỉnh
dậy. Duy có lần này...
Phong toan hỏi thêm,
nhưng viên cẩm đã hỏi trước:
- Đầy tớ nhà ông có ai
nữa không?
- Không, chỉ có ba người
này. Còn một người sốp phơ thì đã ba hôm nay xin phép tôi về quê thăm người nhà
ốm nặng. Tôi cầm lái lấy được, nên không phải mượn ai thay.
Lê Phong lại hỏi nữa:
- Ông làm ơn cho biết
lúc ông tới vực Ngung thì Ngung còn sống hay đã chết thực rồi?
- Tôi không nhớ rõ.
- Vậy mà đó là điều
quan hệ nhất, là vì...
Viên chánh cẩm tỏ ý khó
chịu về sự can thiệp của người phóng viên. Ông ta nhún vai nói:
- Điều đó hỏi vô ích.
Người chết bị đâm trúng tim, con dao lại đâm rất sâu. Sống thế nào được. Thôi,
ông Léon Yune khai thế cũng tạm đủ. Bây giờ chúng tôi muốn nghe lời khai của bà
Yune.
Người thiếu phụ không
hiểu tiếng Pháp. Lê Phong xin làm thông ngôn hộ và nhân thể để hỏi những điều cần.
Anh ta vừa hỏi vừa ngắm cái nhan sắc "mê hồn" (theo lời Lê Phong) đã
làm cho anh ta chú ý ngay từ lúc đầu.
Vợ Lường Duỳn có một vẻ
đẹp vừa sắc sảo, vừa dịu dàng, đôi mắt sáng ra vẻ rất thông minh, trông lúc nào
cũng như ẩn không biết bao nhiêu nỗi buồn sâu xa mà cái thảm trạng đêm hôm đó
đã làm tăng lên gấp bội. Giọng nói nhỏ nhẻ, trong trẻo, khi nói, hai bên má phấn
hây hây đỏ tuy cái sắc lo sợ đau đớn vẫn chưa phai. Cặp môi thắm, nét môi thanh
tú, màu son tươi hơi long lanh dưới ánh đèn.
Lê Phong, trong lúc dịch
những câu hỏi của viên cẩm và lúc nghe người thiếu phụ trả lời thường bất chợt
thấy lòng anh ta xôn xao lên một cách mới lạ.
Người thiếu phụ thong
thả khai:
- Cái cảnh tượng ghê gớm
đây thực tôi không ngờ có thể xảy đến một chút nào. Cả em tôi cũng thế, vì trước
đó có mấy phút, em tôi vẫn vui vẻ nói chuyện với tôi như thường. Câu chuyện của
chúng tôi xoay về việc buôn bán, làm ăn. Nhưng tỏ ra người sung sướng vì gặp được
nhà tôi là người sẵn lòng trao cho cậu ta coi sóc việc khai khẩn ruộng đất. Tôi
yên lòng vì cậu ta đã biết tu chí, vì trong lúc chị em gặp nhau thì tôi thấy
Ngung hay chơi bời. Cậu ta là con bà dì họ tôi, trước buôn bán ở Lao Kay. Dì
tôi mất đã lâu, mà từ hồi tôi lấy chồng cũng không có lúc nào thăm hỏi đến các
em tôi được.
"Hồi chiều, nhà
tôi xuống Hà Nội tuy có dặn quá chín giờ không về thì sáng hôm sau mới về,
nhưng chúng tôi cũng ngồi nói chuyện tới nửa đêm, có ý đợi gắng xem, tiện dịp
nhắc lại những chuyện cũ... Đến mười giờ tôi thấy mỏi mệt mới đặt rổ khâu đứng
dậy, vì tôi vừa nói chuyện vừa đan cho nhà tôi một cái áo len, Ngung cũng sửa
soạn đi ngủ. Tôi sang phòng bên vừa toan bỏ áo, bỗng thấy Ngung khẽ kêu lên như
thấy một sự kinh ngạc rồi liền đó thét lên một tiêng rất lớn. Tôi run người lên
vì sợ, chạy sang xem thì thấy mặt Ngung tái ngắt, hai mắt hoảng hốt, há miệng
ra toan nói, nhưng vừa bước về phía tôi một bước thì ngã vật xuống, ngực đã bị
con dao đâm tự lúc nào...
"Tôi không còn hồn
vía nào, vừa tìm cách nâng đỡ em vừa thất thanh gọi con sen, nhưng không ai
thưa, thì một lát thấy còi ô-tô nhà tôi về".
Viên cẩm hỏi:
- Trong lúc bà sợ hãi,
có lẽ hung thủ lẻn ra mà bà không biết được.
Vợ Lường Duỳn đáp:
- Thưa ông, nhà chúng
tôi có ai vào được mà bảo rằng lẻn ra... Vả lại tôi biết chắc rằng tôi không thấy
một bóng người nào hết...
"Đèn trong này
sáng, mà lối ra chỉ có cái cửa thông sang phòng ngủ của tôi..."
Hỏi - Bà chạy sang
phòng Ngung có ý ngờ hung thủ ẩn ở đó không?
Đáp - Không, phòng bên ấy
tôi biết cửa vẫn khóa. Lúc nhà tôi vào đỡ Ngung, tôi cũng đã chạy sang xem cẩn
thận.
H - Bà sang một mình?
Đ - Vâng.
H - Bên ấy cũng vẫn để
đèn sáng như bây giờ?
Đ - Vâng.
H - Còn cửa phòng của
bà, lúc trước cũng khóa như cửa gian này với phòng Ngung?
Đ - Vâng, nhưng lúc mười
giờ là lúc tôi sang toan đi ngủ thì tôi mở khóa ra định thay áo xong sẽ sang
phòng rửa mặt. Song cánh cửa vẫn chưa mở ra lần nào. Lúc nhà tôi về thấy khóa cửa
phòng này, nên chạy sang do lối cửa bên ấy vào đây.
Lê Phong không dịch câu
trả lời ra tiếng Tây vội. Anh ta chăm chăm cái bút chì trên quyển sổ tay, se sẽ
len một câu hỏi riêng:
- Lúc ông Duỳn vào đây
vực tử thi ông Ngung lâu hay chóng? Điều này tối quan hệ, xin trả lời cho thật
đúng.
Người thiếu phụ đáp:
- Tôi sang trông qua một
lượt định trở lại ngay thì nhà tôi bảo phải xem cẩn thận các cửa sổ với cánh cửa
- cửa sổ chỉ có cái ở đầu giường là mở, nhưng đã có chấn song sắt, người ngoài
không thể nào lọt vào được, còn cửa lớn thì vẫn khóa chặt. Tôi lại mở tủ áo bên
ấy ra xem cho chắc chắn, nhưng cũng không thấy gì.
Lê Phong - Thế ra chính
bà mở tủ?
Người thiếu phụ - Vâng.
L.P - Và đánh rơi một
cái áo xuống. Bà có đưa tay vào lục soát một lúc?
N.T.P - Vâng, sao ông
biết?
L.P - Vì tôi có xem
qua. Nhưng không hề gì. Để tôi cắt nghĩa câu lúc nãy ra tiếng Tây đã.
Viên cẩm lại hỏi:
- Bà có ngờ cho ai là
hung thủ không?
Nhưng Lê Phong vẫn theo
ý riêng của anh ta dịch câu ấy dài dòng hơn:
- Việc này rắc rối lắm.
Em bà bị giết, mà trong nhà chỉ có một mình bà. Các cửa đóng kín. Hung thủ
không ra được, mà cũng không có lối vào...
Người thiếu phụ vội
nói:
- Thế các ông ngờ tôi
giết em tôi?...
Phong se sẽ lắc đầu
nhìn người thiếu phụ tỏ vẻ yên ủi:
- Không, nhất là tôi
thì không nghĩ thể một tí nào hết... Vì một người như bà có lẽ nào. Song tôi muốn
hỏi bà có ngờ cho ai không?
Buồn rầu, người thiếu
phụ thưa:
- Tôi biết thế nào mà
ngờ cho ai được? Nhưng...
- Xin bà cứ nói, đừng
nên giấu một điều gì hết... Bà có ý kiến gì không?
Lúc đó, người thiếu phụ
đưa mắt như tỏ ý xin lỗi chồng. Lường Duỳn vẫn chú ý nghe lời khai của vợ, lúc ấy
ngồi gần lại và ôn tồn nói:
- Mình có điều gì cứ
nói. Sự thực rất cần cho việc tra xét cái án mạng này.
Người thiếu phụ thở dài
một tiếng rồi ngảnh lại nói với Lê Phong:
- Thưa ông, lúc nãy tôi
thấy ông nói rằng con dao giết em tôi là thứ dao của người đi rừng, nên tôi chợt
nghĩ ra... Trước kia, khi chưa được gặp tôi, em tôi cũng là một người theo bọn
buôn súng lậu, nhưng bây giờ không còn dính dáng đến việc ấy nữa, vì nguy hiểm
nhiều mà cái lợi chia ra không bù lại được với những lúc gian nan. Hẳn bỏ nghề
buôn ấy để tìm cách buôn bán vững vàng như mọi người và yên lòng trông cậy ở vợ
chồng tôi. Nhưng hắn thường áy náy luôn, hắn sợ rằng bạn buôn trước ngờ cho hắn
đem tâm phản trắc. Một vài lần viết thư cho tôi, hắn vẫn nói đến chuyện ấy,
song tôi tưởng không nên cho nhà tôi biết rõ là hơn. Lúc nãy tôi thấy ông nói
con dao này chính là một thứ dao của bọn họ hay dùng, lại vừa rồi ở tỉnh này có
mấy người buôn lậu bị bắt, nên tôi cũng ngờ rằng em tôi bị bọn họ báo thù...
Mọi người đều cho những
lời khai ấy là những lời quan trọng nhất trong cuộc thẩm vấn. Nguyên nhân vụ án
mạng như đã hé thấy. Lê Phong ra vẻ đắc chí lắm, vì anh ta thấy câu đoán thứ nhất
của anh ta không sai.
Hỏi đến bọn tôi tớ nhà
Lường Duỳn thì chúng khai không biết một tí gì trước khi nghe thấy tiếng kêu của
vợ người khách lai và tiếng còi xe hơi ở ngoài cổng. Chúng lên gác cùng với chủ
nhà và quả quyết rằng nếu ở trong phòng có ai chạy ra thì thế nào chúng cũng
trông thấy. Trong lúc Lường Duỳn đi báo sở cẩm thì chúng vẫn đứng canh ở cái cửa
mở độc nhất, là cái cửa phòng ngủ trước lối thang gác lên. Không một phút nào
chúng rời khỏi chỗ đứng canh, mà cũng không thấy qua bóng một người nào lạ.
° ° °
Các nhà chuyên trách mỗi
lúc một thấy vụ án mạng thêm kỳ bí hơn lên. Họ dùng các phương pháp nhà nghề
khám xét mọi nơi: từng cánh cửa, từng mặt bàn, chân ghế, từng cái song sắt cửa
sổ. Họ khiêng cả cái bàn gỗ gụ lớn ra một chỗ để tiện xem xét cái cửa sổ gian
giữa là gian xảy ra án mạng. Ngoài hàng song sắt, hai cánh chớp vẫn đóng, cái
then sắt dọc vẫn ở trong khớp, họ phải vặn cái nắm mới đẩy được ra. Không!
Không có một dấu vết nào của hung thủ để lại. Không những thế, đến cái cách
hung thủ dùng để ám sát Ngung một cách nhanh chóng như thế cũng không thể nào
đoán ra được. Lê Phong, hai tay chắp sau lưng, không để ý gì đến mấy người
Pháp, cứ lò dò nhìn hết xó này đến xó khác, ngắm từ viên gạch lát trên sàn gác
đến cái nắm cửa ở mấy cánh cửa buồng.
Anh ta cũng không ra ý
cần theo bọn đại biểu cho pháp luật xuống khám xét chung quanh nhà. Đợi lúc
trong phòng chỉ còn có ba tên đầy tớ với vợ Lường Duỳn, anh ta liền nhìn vào mặt
con sen cười:
- Chị này đã khỏi rức đầu
chưa?
Con sen ngạc nhiên thì
anh ta đã hỏi luôn:
- Có phải chị rức đầu từ
chập tối không? Tôi trông mặt chị tôi biết.
Rồi liếc nhìn người thiếu
phụ rưng rưng nước mắt bên cái xác chết, anh ta se sẽ nói:
- Cái liều thuốc ngủ ấy
mới công hiệu làm sao!
Thì bỗng thấy người đàn
bà biến sắc mặt đi, ngửng lên nhìn trộm Lê Phong. Anh đủng đỉnh châm thuốc lá
hút và đủng đỉnh đến bên cái bàn gỗ gụ đen, vừa đi vừa thổi sáo.
Sau nhà, phía dưới cửa
sổ, mấy người Pháp đang bàn cãi luôn mồm. Lê Phong mỉm cười đẩy cửa sổ trông ra
cái vườn lá cây cao và rậm, ở ngoài bức tường trên lấp lánh những mảnh chai...
Anh lim dim mắt, vươn hai tay về đằng sau hít một hơi gió mạnh vào ngực ra chiều
khoan khoái lắm.
Bỗng nhiên anh chau mày
lại, trừng mắt nhìn thẳng đến ba, bốn phút, rồi ngoắt quay lại đến gần người vợ
khách lai. Nhưng thấy bọn con sen với hai tên đầy tớ còn đứng đó, anh liền mượn
lấy oai của nhà chuyên trách bảo chúng:
- Thôi, cho cả ba đứa
ra đợi ở ngoài kia.
Đoạn, anh ghé xuống bên
tai người thiếu phụ, nói một cách rất dịu dàng:
- Thưa bà, trong việc
này có rất nhiều ẩn tình... cái ẩn tình thảm đạm... chắc bà cũng như tôi, muốn
cho sự bí mật chóng bị khám phá, để trị kẻ gian ác và để hồn oan kẻ thiệt mệnh
khỏi phải ngậm hờn. Vậy xin bà giúp tôi, vì chỉ bà giúp tôi được... Xin bà nghĩ
kỹ cho.
Lúc ấy, dưới chần thang
gác, mấy người đã sắp bước lên. Lê Phong nói tiếp:
- Bà nghĩ kỹ cho... Tôi
biết bà quả thực không ngờ đến vụ án mạng này, tôi quả quyết như thế... Song, nếu
bà không nói, nói cho riêng tôi biết, thì việc này không thể nào xét ra được...
Tiếng Phong nói rất ôn
tồn nhưng đôi mắt Phong nhìn thẳng người thiếu phụ, không chớp. Sau cùng một
tay cầm sổ, một tay cầm bút chì, anh hỏi một câu nhỏ, nhưng rất rành mạch:
- Có phải chính bà đã
cho con sen uống thuốc ngủ phải không?
Người thiếu phụ giương
mắt kinh dị nhìn Phong, chưa nói được câu nào, thì mấy người Pháp và Lường Duỳn
đã bước lên. Lê Phong giả tảng chăm chú ghi chép lên quyển sổ.
Cuộc xem xét chung
quanh nhà vừa rồi cũng không có kết quả.
Viên cẩm là người quen
thấy những việc án mạng lạ lùng, cũng phải nhắc đi nhắc lại một câu:
- Bí mật! Bí mật lắm!
Không có một dấu tích nào của hung thủ (vừa nói vừa nhìn cái vết đâm trên ngực
người bị giết)... Không có dấu tích nào khác, ngoài con dao với cái vết thương
ghê gớm kia... Sự bí mật gần thành ra một việc phi thường, quái dị!
Ông đốc tờ cũng nói:
- Mà nét mặt của người
chết tỏ ra hắn đã khiếp sợ quá sức: có lẽ trước khi bị giết, mắt hắn đã trông
thấy kẻ thù.
- Nhưng trông thấy ở
đâu? Mà hung thủ là ai? Vào đây và ra khỏi đây bằng cách nào? Các ông hẳn không
quên rằng chỗ này cửa khóa kín bốn bề, như một cái ngục.
Trong câu nói của viên
cẩm, Lê Phong đoán thấy có ý ngờ cho người thiếu phụ. Theo lý luận và những điều
quan sát của anh thì vợ người khách lai không phải và không thể là một kẻ giết
người được. Anh định rằng nếu luật pháp buộc cho cô ta cái tội ác đó, thì anh,
anh sẽ là người phân trần giùm.
Nhưng 15 phút sau, khi
các nhà chuyên trách sắp sửa ra về, anh vui mừng vì không thấy họ bắt ai cả.
Viên cẩm ngảnh lại bảo
Lường Duỳn:
- Đến sáng mai tôi sẽ
cho người đưa tử thi vào cho thầy thuốc khám nghiệm ở nhà thương. Cuộc thẩm vấn
về việc này có thể đến hàng tháng may ra mới kết liễu được. Chúng tôi còn cần hỏi
đến ông và bà Léon Yune nhiều lần.
Người khách lai trả lời:
- Vợ chồng tôi pháp luật
đòi hỏi lúc nào cũng có mặt.
Trước khi bước xuống
thang gác, viên đốc tờ còn hỏi đùa Lê Phong:
- Thế nào, nhà phóng
viên? Có cần phải bám sau ô-tô để ra không?
Lê Phong cười:
- Thưa ông đốc tờ, tôi
còn phải ở lại tra xét riêng cho phần tôi.
- Vậy thì chúc cho ông
tìm được nhiều cái lạ nhé!
- Cảm ơn ông.
° ° °
Lê Phong điều tra
Kể đến đó, Lê Phong lại
ngừng, đôi mắt anh mơ màng nhìn tôi một lát rồi lại nói:
- Quả thực ngôi phúc
tinh của tôi sáng lắm. Tôi gặp toàn những cái may. Không những tôi tốt số hơn
các bạn đồng nghiệp ở nước nhà, tôi lại may hơn các bạn phóng viên bên Pháp hay
bên Anh nữa. Anh đọc sách chắc cũng rõ: mỗi khi xảy ra vụ án mạng, công việc thứ
nhất của nhà chuyên trách là ngăn việc điều tra của phóng viên.
"Việc tra xét
riêng của tôi đã làm gần xong, không phải đợi đến ông đốc tờ hỏi. Mà việc lạ,
thì tôi cũng đã tìm thấy nhiều cái lạ hơn những điều quan sát của họ. Thí dụ:
tôi thấy một vết hằn in trên cái bàn gụ đen. Cái bàn này kê sát cửa sổ, cao, rộng
và dài, mặt bàn vì đánh xi hơi dày, nên vết hằn trông rõ lắm".
Tôi hỏi:
- Mà vết hằn đó thế
nào? Sao anh lại chú ý đến?
- Cần chú ý lắm chứ. Một
phần ba sự bí mật tôi có thể khám phá ra được là nhờ ở vết hằn ấy. Đó là một vết...
(nói thế nào được nhỉ), một thứ vết in xuống bởi một sức nặng của một người khỏe
mạnh: một vết đầu gối của một người quỳ lên - đầu gối của một người đàn ông.
Cái vết ấy cho tôi thấy một tia sáng lạ lùng, nhưng tôi cần phải xét nghiệm lại
cho cẩn thận đã. Vì, trong một việc như việc này, nếu không hợp các điều quan
sát lại để phân đoán, để so sánh thì rất dễ nhầm, mà đã nhầm thì nhầm một cách
thô thiển không biết chừng nào.
- Lúc nãy tôi thấy anh
hỏi vợ người khách lai về việc cho con sen uống thuốc ngủ. Việc ấy có thực
không?
- Thực chứ.
- Nhưng sao anh biết?
- Vì tôi thấy rõ cái vẻ
nhọc mệt trên mặt nó và nhất là cái vẻ ngần ngại ngượng ngùng trên mặt người
thiếu phụ mỗi khi trông thấy nó. Tôi lại nghe thấy Lường Duỳn khai rằng mọi khi
chỉ gọi nó hai tiếng là nó đã dậy. Lần này người thiếu phụ kêu rất lớn, sau lại
phải chạy vào đánh thức nó trong cái phòng chứa đồ... Rồi đến lúc tôi hỏi con
sen để xem ý vợ Lường Duỳn thì cô ta không giấu được sự kinh ngạc...
- Nhưng mà, tại sao? Tại
sao vợ Lường Duỳn lại cần cho con sen ngủ say như thế?
- Tôi cũng đã hỏi người
thiếu phụ câu đó. Người thiếu phụ chưa kịp đáp, nhưng tôi cũng đoán được ra rồi.
Song tôi còn phải tìm, còn phải ráp bao nhiêu trường hợp lại cho có liên lạc với
nhau rồi mới có thể nói quyết được.
"Sáng hôm nay tôi
đã đi xem xét chung quanh nhà cửa người khách lai, dò xét một mình thôi, không
cho ai biết cả. Tôi lại đến sở cẩm hỏi kết quả sự khám nghiệm của thầy thuốc
sau khi mổ tử thi Đào Ngung. Kết quả cũng đúng với lời đoán của tôi: Đào Ngung
chỉ chết vì lưỡi dao đâm trúng tim, chết vào hồi mười giờ đêm, bữa cơm chiều ăn
vào hồi bảy giờ rưỡi tối. Con dao của hung thủ họ gửi ngay về Hà Nội để Sở Liêm
phóng ở đó xem vết tay. Công việc này vừa lâu vừa không có ích cho tôi mấy. Vì
tôi muốn rằng việc tra xét của tôi phải rất chóng xong.
"Ngày hôm
nay Thời thế đã đăng tin này trước các báo. Đến mai có bài tường
thuật rất kỹ lưỡng về vụ án mạng, rồi, chậm lắm, đến chiều ngày kia, trong lúc
nhà chuyên trách còn tra vấn theo cái bước chậm chạp như vẫn theo xưa
nay, Thời thế đã có kết quả hoàn toàn cuộc điều tra riêng của
tôi. Phóng viên Thời thế là người trước nhất biết việc này,
phóng viên Thời thế lại là người tìm ra manh mối trước nhất.
Điều nguyện vọng của tôi là thế đó. Anh giúp tôi một tay".
Tôi giương to hai mắt
nhìn Lê Phong:
- Tôi giúp được anh? Mà
giúp anh để nội trong ba, bốn hôm tìm được ra thủ phạm?
Phong cười:
- Không bắt được thủ phạm,
thì cũng tìm ra được ai là thủ phạm và điều cốt yếu là biết được cách hung thủ
vào nhà Lường Duỳn một cách bí mật như thế. Anh có nhận rằng hung thủ là một
tay giỏi về phép giết người không?
- Ồ, nhưng mà việc bí mật
này tìm ra ngay sao được? Mà người giúp anh lại là tôi... tôi thú thực rằng tôi
kém về khoa "phân đoán" của anh lắm.
Phong liếc tôi tỏ ra vẻ
khinh bỉ một cách khôi hài. Anh vừa cười vừa bảo tôi:
- Anh thú thực cái dốt
của mình một cách tự nhiên quá. Nhưng không hề gì. Anh giúp tôi là thế này: anh
viết bài tường thuật hộ tôi, viết cho thực khéo, vì đó là cái biệt tài của anh.
Còn tôi, tôi chỉ nghĩ, tôi phải nghĩ nhiều lắm, rồi tôi kể cho anh nghe để anh
viết. Như thế, tôi rộng thì giờ để làm việc cho nhanh chóng hơn.
"Bây giờ anh ra Sở
Thương chính hỏi hộ tôi một việc sáng ngày tôi chưa kịp hỏi. Anh hỏi xem người
đến tố cáo bọn buôn súng lậu đến hôm nào, đến lúc mấy giờ, và hình dáng thế
nào? Việc này hơi khó làm, nhưng tôi chắc anh cũng khéo dò, không đến nỗi đụt lắm.
Lúc trở về, anh ra bến tàu thủy, dặn thằng bé dẫn anh đến đây lúc sáng rằng
đúng năm giờ chiều nay phải mua dây chão đến cho tôi theo như lời tôi dặn. Nhà
nó ở số 15 bis, bên ngoài có hàng nước, mà tên nó là thằng Hài.
"Xong rồi, anh về
viết bài ngay đi, viết để kịp gửi chuyến ô-tô ca sau cùng."
Nói rồi anh đẩy tôi ra
cửa, giục tôi đi. Lúc tôi bước lên cái xe hơi bấy giờ vẫn đợi trước cửa hàng An
Wing, anh còn dặn với:
- À quên! Anh qua hiệu ảnh
ở đầu phố giục người ta thế nào trước sáu giờ chiều hôm nay cũng phải rửa xong
cuốn phim của tôi chụp để gửi về tòa soạn kèm theo với bài.
Ngồi trong xe tôi ôn lại
việc án mạng mà Phong đã thuật lại. Từ đầu chí cuối, chỗ nào cũng thấy sự ly kỳ
mỗi lúc một tăng lên hoài. Thế mà đối với Lê Phong thì hình như sự bí mật anh
biết đã được gần hết. Quả nhiên người con trai này là một anh chàng tự phụ, nếu
không thì thực là một người có kỳ tài.
Nghĩ đến việc dò hỏi
xem người nào tố cáo bọn buôn lậu là ai, tôi không khỏi thấy khó chịu. Vì Sở
Thương chính tất nhiên giữ kín không khi nào đem ngỏ cho bất kỳ ai cũng biết được
tính danh người giúp họ. May sao tôi tìm ra được một cách rất chu đáo để hỏi
ngay viên chánh Sở Thương chính: Tôi sẽ xưng là người nhà báo đến phỏng vấn ông
về bọn buôn lậu, sẽ nói đến cái án mạng mà chắc thế nào ông ta cũng biết, và
nhân đó sẽ nói đến Đào Ngung là người bị giết, vì bị nghi là đi tố cáo bọn kia.
Rồi tùy cơ mà hỏi thì chắc thế nào cũng biết được những điều Lê Phong muốn biết.
Đến nơi, tôi đã được một
tin rất kinh ngạc là: ba người quan trọng trong bọn buôn lậu đêm vừa rồi
đã tìm cách trốn được ra.
Tôi hỏi viên chánh đoan
về việc bắt họ hôm xưa, thì ông ta nói rằng: Sở Thương chính nhận được một bức
thư nặc danh gửi đến cách đó bốn hôm, chứ không có người chỉ dẫn tố cáo như
trong mọi việc bắt bớ khác.
Lập tức tôi về chỗ Lê
Phong trọ báo cho anh biết, chắc thế nào những tin mới lạ ấy cũng thay đổi được
nhiều điều đoán định của anh. Tôi vào hiệu An Wing, thì không thấy Lê Phong đâu
cả. Hỏi người khách chủ hiệu thì hắn bảo hình như anh ta lên gác, hoặc ra ngoài
phố lúc nào không biết. Tôi cụt hứng, ngồi đợi đến hai mươi phút cũng không thấy
anh về. Tôi lấy giấy bút ra để viết bài tường thuật theo lời Lê Phong kể và
theo những lời ghi chép trong quyển sổ tay anh đưa cho tôi lúc nãy, nhưng viết
chưa được ba trang đã đặt bút xuống: cái việc mấy người bị bắt mới trốn thoát,
cứ luẩn quẩn mãi trong trí tôi. Bỗng thấy tiếng ngáy giòn đâu đây, tôi lắng tai
nghe, rồi chạy lên gác, mở cửa buồng của Phong thì thấy anh ta đang ngủ một
cách bình tĩnh.
Tôi liền nắm lắc anh ta
dậy:
- Lê Phong! Lê Phong! Dậy!
Dậy mau, một tin quan trọng lắm!
Anh mở một mắt ra nhìn
tôi rồi lại nhắm ngay lại, càu nhàu:
- Để người ta ngủ yên một
lúc không được à?
- Thế mà bảo việc cần,
đùn cho người ta viết rồi đi ngủ. Này, dậy! Một tin quan trọng lắm. Tôi ở nhà
đoan về đây.
Phong vươn vai mỉm cười,
rồi mở cả hai mắt ra uể oải ngồi dậy. Tôi toan gắt:
- Anh...
Thì Phong cản lại:
- Anh tính suốt đêm hôm
qua thức! Phải ngủ chuộc lại mới đủ sức làm việc chứ. Thế nào? Ở sở đoan có hỏi
được gì không?
- Một tin rất cần. Ba
người bị bắt vừa trốn đêm hôm qua. Ba người buôn lậu.
Tôi kinh ngạc hết sức,
vì Phong dửng dưng một cách lạ để đón cái tin của tôi:
- Ừ, thế rồi sao?
- Sao? Việc này hẳn có
liên lạc với vụ ám sát chứ sao?
Phong đưa cho tôi bản
ráp một bức điện tín:
- Tin nay tôi biết rồi.
Tôi đã đánh về tòa báo từ sáng.
- Từ sáng? Thế sao anh
không nói chuyện ấy với tôi?
- Nói làm gì? Vì câu
chuyện không có dính dáng gì đến việc án mạng hết.
Tôi càng lấy làm lạ:
- Thế thì tôi hiểu sao
được. Cái án mạng này ai cũng ngờ cho bọn buôn lậu chủ mưu. Việc lại xảy ra đêm
hôm qua, mà cũng trong đêm hôm qua, ba người buôn lậu vượt ngục... Việc càng
ngày càng rắc rối thêm...
- Phải, rắc rối đối với
anh, đối với cả Sở Cảnh sát nữa. Nhưng đối với tôi thì không! Đó chỉ là một sự
tình cờ, một sự ngẫu nhiên cũng như bao sự ngẫu nhiên khác. Lúc tôi thoạt nghe
thấy tin ấy, tôi cũng hơi lấy làm lạ, song khi xem xét lại thì tôi không lầm
như bọn người chuyên trách và như anh. Bây giờ có lẽ họ hết sức đi lùng bắt ba
người kia, còn chính hung thủ lại được thêm một dịp để ở yên ngoài vòng pháp luật.
Tôi nhìn Phong một cách
soi mói, tự hỏi không biết có phải đó là những lý luận cốt để kinh hoặc tôi
chăng. Nhưng anh vẫn giữ vẻ nghiêm trang, đôi mắt đăm đăm nhìn thẳng, nét mặt
quả quyết, anh bảo tôi:
- Không, Văn Bình ạ,
anh nên tin tôi, cũng như tôi tin ở trực giác tôi, ở bản năng tôi. Hai thứ này
khi cùng đi với lý trí thì giúp ta được nhiều việc khi ta muốn tìm ra sự thực.
Con chó săn có cái mũi thính đánh hơi giỏi, thì người xét việc bí mật cũng thế,
phải có cái giác quan cho tinh tường. Người ta có phải cứ làm việc bằng lý luận
mà thành cả được đâu: người ta phải tưởng tượng, phải cảm xúc nữa. Cái dở của
phần nhiều thám tử là biện luận nhiều quá... mà (Lê Phong cười) cái dở của tôi
cũng là biện luận nhiều quá về vấn đề trực giác với lương năng. Thà cứ nói trắng
ngay rằng tôi biết việc đi trốn với việc ám sát là hai việc khác nhau, có lẽ
anh dễ hiểu hơn. Tôi biết thế, vì Đào Ngung bị giết hồi mười giờ đêm, mà mãi
hai giờ sáng họ mới trốn được.
- Nhưng sao anh biết họ
trốn lúc hai giờ sáng?
- Vì tôi nghĩ ra được một
cái mưu nhỏ.
- Tôi không hiểu.
- Có gì? Tôi giả tảng
làm một người trong bọn "ngoại công" tính việc đi trốn cho bọn kia.
Sáng hôm nay, trong lúc tra hỏi họ, tôi thừa lúc len vào được mấy tiếng lóng
nhà nghề học được trong lúc đi rừng. Tôi hỏi họ, họ trả lời, thế là đủ.
Lê Phong nói thế một
cách thản nhiên, coi như một việc tầm thường, rồi hỏi tôi:
- Thế còn người tố cáo
tôi dặn anh hỏi lúc nãy?
Tôi trả lời:
- Không có người đến tố
cáo. Nhà đoan Phủ Lạng chỉ nhận được một bức thư nặc danh.
- Thư nặc danh?
- Phải. Bức thư không
viết, nhưng cắt từng tiếng ở một tờ báo quốc ngữ.
Lê Phong ngồi thẳng dậy,
đôi mắt sáng quắc:
- Ồ! Hay lắm! Nếu vậy
hay lắm, việc của tôi thành được rồi.
Tôi trông vẻ tinh nhanh
của anh cũng biết anh để tâm đến việc tôi cho là tầm thường này lắm. Hai tay
anh như run lên vì cảm động, tôi hỏi nhưng anh ta không đáp, chỉ nhắc lại câu
lúc nãy:
- Việc của tôi thành rồi,
tôi không ngờ lại được giản dị đến thế... Đâu? Thế anh có chép lại lời trong bức
thư kia không?
Tôi đáp không, vì tôi
cho là việc vô ích.
Phong cau mày xẵng tiếng
nói:
- Thế thì anh còn biết
quái gì nữa. Một điều quan trọng như thế mà không trông thấy. Bức thư ấy sẽ cho
tôi biết ai là hung thủ đó, anh nghe không!
- Nhưng thư nặc danh
kia mà!
- Phải. Nặc danh, nặc
danh, tôi biết lắm! Nhưng cái tên ký không quan hệ gì... Tôi cần biết lời trong
thư kia! Lời trong thư, anh nghe không. Nếu xét việc mà cứ thực thà như anh thì
không đời nào tìm ra manh mối hết.
Anh đứng phắt dậy, lấy
quần áo mặc, vừa mặc vừa lẩm bẩm:
- Ngốc! Mình ngốc thực,
sao không nghĩ đến? Một bức thư nặc danh, lại cắt ở nhật trình!
Rồi anh không bảo tôi nửa
lời, sầm sầm chạy xuống nhà, nhảy lên ô-tô; tôi theo ra đến cửa chỉ nghe thấy
anh dặn người sốp phơ:
- Nhà đoan, mau lên, vội
lắm!
° ° °
Hung thủ bị bắt rồi
Nửa giờ sau thấy ô-tô đỗ
trước khách sạn An Wing, tôi tưởng Lê Phong về, nhưng trên đó chỉ có thằng Hài,
đứa bé đứng đón tôi ở đầu cầu lúc sáng.
Nó mở cửa xe nhảy xuống
tất tả chạy vào đưa cho tôi một bức thư:
"Anh Văn Bình! Anh
nhớ viết ngay bài tường thuật về ‘Cái án mạng ly kỳ ở Phủ Lạng Thương’ đi. Phải
viết cho xong ngay. Việc điều tra của tôi tiến hành mau lắm. Bức thư nặc danh rất
có giá trị, tôi nắm được đâu mối dây rồi.
Một tin buồn: bà Lường
Duỳn vừa bị thổ huyết và ngất đi hồi lâu. Hiện bà đang năm ở nhà thương, bệnh
tình cũng đáng lo. Tôi sẽ đi thăm rồi sẽ đến sở cẩm báo một việc quan trọng.
Thằng bé đưa thư này
giúp tôi được mấy việc khá lắm. Một nhà phóng viên tương lai đấy. Anh thưởng
cho nó năm hào hộ tôi - Lê Phong".
Đứa bé nghếch mắt nhìn
tôi một cách hóm hỉnh trong lúc tôi đọc thư. Thấy tôi đọc xong, nó liền nói:
- Ông Lê Phong bảo tôi
nói với ông rằng, ông phải theo đúng lời ông ý dặn, nhất là câu cuối cùng.
Tôi lườm nó mỉm cười,
đưa cho nó năm hào rồi cho nó ra.
- Ông không trả lời ư?
- Không cần.
- Mà ông cũng không hỏi
xem tôi giúp ông Phong được những việc gì?
- Hỏi làm gì?
- Thế thì ông chả tò mò
tí nào nhỉ?
Tôi bật cười và chú ý đến
vẻ thông minh lanh lợi của đứa bé.
- Ừ, thế mày giúp ông
Phong được những gì?
- Nhiều lắm chứ. Trước
hết, tôi mua hộ ông ấy một cuộn dây chão tốt lạ thường, rồi tôi giúp ông ấy
trèo cây đi rình nhà người ta.
- Nhà ai?
- Nhà chú Duỳn. Sau nhà
chú ấy có cái cây cao lắm. Ông Phong lấy dây quàng lên cây, rút chặp đôi lại,
buộc thòng lọng thắt nút cổ chó, rồi leo lên.
- Lúc nào?
- Lúc ông ấy ở nhà chú
Duỳn ra. Chú Duỳn đi vắng. Ông ấy ở trên cây một hồi lâu lắm, rồi xuống vỗ vai
tôi... Rồi ông ấy viết cái giấy này để tôi cầm đến đây cho ông...
- Được rồi, em đi ra
đi, và đừng nói với ai những chuyện ấy nhé!
- Vâng, ông Phong cũng
dặn tôi thế... Bây giờ tôi lại phải đến nhà thương với ông Phong, còn nhiều việc
cần lắm.
Đứa bé bước ra, mở cửa
ngồi vào ô-tô, nét mặt ra vẻ quan trọng trông đến buồn cười. Nó đi khỏi, tôi đọc
lại bức thư của Lê Phong, rồi ngồi viết cho xong bài tường thuật theo như lời
anh ta dặn.
Bốn giờ chiều hôm ấy
tôi đang viết, bỗng lại thấy đứa bé đến, nó đưa cho tôi một mảnh giấy nhỏ, chữ
viết nguệch ngoạc và nói:
- Ông Lê Phong đợi ông ở
nhà thương.
Trong giấy chỉ có mấy
dòng sau này:
"Dù viết xong hay
không, anh cũng đến nhà thương ngay. Hung thủ đã bị bắt rồi, bị bắt bởi tay
tôi. Tối hôm nay ta về Hà Nội được".
Hung thủ đã bị bắt? Mà
sau việc án mạng không đầy hai mươi bốn giờ. Tôi không hiểu Lê Phong có những
phương pháp thần thánh gì mà khám phá được việc chóng đến thế, hơn nữa, lại bắt
được hung thủ, là một điều mà chính anh ta cũng không thể ngờ làm được ngay.
Đến nhà thương hỏi lại
Lê Phong thì anh cười bảo tôi:
- Anh ạ, tôi cũng không
ngờ chuyện này lại giản dị thế, cái mối bí mật tôi đã gỡ xong cả rồi.
- Xong rồi? Nghĩa là
anh đã tìm ra được người giết Đào Ngung?
- Phải.
- Tìm ra cách nó lẻn
vào cái phòng cửa kín bốn bề để giết người?
- Phải. Nhưng anh đừng
cau mày nhìn tôi một cách dữ dội đến thế?
- Anh lại bắt được hung
thủ?
- Tôi không bắt được,
vì tôi chỉ là một tay phóng viên. Hung thủ hiện ở trong tay luật pháp.
- Thực?
- Thực chứ!
- Thế hung thủ là ai?
Phong kéo tôi bước qua
cổng nhà thương và mắng bỡn tôi:
- Anh khó chịu lắm. Anh
hỏi lục vấn tôi nhiều quá. Hẵng vào đây tôi cho anh thấy mặt một người thiếu phụ
đẹp hiếm có.
- Ai? Bà Lường Duỳn ấy
à?
- Phải, bà Lường Duỳn.
Rồi Lê Phong nhất định
không nói gì nữa.
Đến trước một căn phòng
rộng, anh nhẹ bước đến bên cửa đứng lại vẫy tôi:
- Đi khẽ chứ, cô ta vừa
mới ngủ. Anh trông kia kìa, trên chiếc giường sắt tồi tàn của nhà thương, cô ta
có vẻ một vị Hằng Nga đang "nồng say trong giấc quế". Anh xem, đứng
trước sắc đẹp, ai cũng đâm ra nói văn chương.
Tôi gật đầu vì tôi cũng
nhận ra người thiếu phụ là đẹp. Mặt cô ta rất đều, nét rất thanh, nước da trắng
xanh, nổi trong làn tóc đen lánh ở hai bên gối. Đôi mắt lúc ấy nhắm, không để
cho tôi được thấy cái màu đen sâu xa mà Phong thường ca tụng. Trong cái nhan sắc
nhọc mệt ấy, tôi thấy có vẻ đau đớn còn trên nét mặt, khiến cho vẻ đẹp như cao
quý hơn lên.
Lê Phong se sẽ bảo tôi:
- Có phải không, một
người đàn bà đẹp như thế, ai chẳng phải mê đẳm. Chính tôi, tôi cũng thấy cái
"quả tim bằng đá" trong ngực này nhiều lần chực tê tái hẳn đi...
Không ngờ con người như thế mà mang trong lòng những điều bí mật, với cả một
cái thảm kịch nữa. Lúc nãy đến nhà Lường Duỳn, tôi nghe thấy nói bà ta phải vào
điều trị ở đây vì thổ huyết, tôi cũng không lấy gì làm lạ lắm. Nhưng bệnh tình
xem ra cũng không quá nguy kịch như tôi tưởng, vì tôi đã có dịp phỏng vấn cô ta
ở đây.
Rồi, không có liên lạc
gì, anh nói ngay sang chuyện khác:
- Anh ra đây tôi bảo.
Hiện bây giờ các báo mới biết một phần mười việc án mạng, Sở Liêm phóng cứ theo
bước cẩn thận nhưng chậm chạp mà đi thì không bao giờ xét ra được manh mối, những
trường hợp vụ ám sát đối với hết thảy mọi người đều có vẻ thần bí, bằng ấy điều
đủ làm cho dư luận sôi nổi dẫu việc xảy ra ở một tỉnh nhỏ như đây. Anh phải
tính với tôi làm việc cho rất nhanh, rất nhanh anh nghe chưa, để cho cái bí mật
dày đặc lạ thường ấy đột nhiên rõ được ngay, đột nhiên bị khám phá ra một cách
nhanh chóng cũng lạ thường. Mà khám phá bởi tôi, Lê Phong, phóng viên của Thời
thế. Cái danh diện của tôi vì thế sẽ bắt người ta chú ý đến đã hẳn, nhưng
điều tôi cần cho người ta biết nhất là Thời thế không những có
tin chóng, tin lạ, Thời thế lại còn có những tay làm việc minh
mẫn như tôi nữa.
"Cho nên tôi cần
phải suy nghĩ dò xét rất chóng để tìm thấy kết quả ngay lập tức. Kết quả thấy rồi:
kẻ giết người đã tìm ra rồi, kẻ giết người đã sa vào ‘lưới pháp luật’ như người
ta thường nói. Mà hung thủ là ai? Tôi sẽ cho anh biết sau... Vì tôi muốn cho
anh theo câu chuyện do những đường ngoắt ngoéo của nó. Nếu cứ thấy rõ các tình
thế, các trường hợp như tôi, thời câu chuyện không có chỗ nào hồi hộp cả; mình
không hồi hộp thì độc giả của báo mình cũng không hồi hộp, vì thế cho nên tôi
không muốn tường thuật, để việc ấy phần anh.
Phong nói tới đó bỗng
chăm chú nhìn ra ngoài cổng nhà thương:
- Kìa, ai như ông Lường
Duỳn đã đến. Chính ông ta rồi.
Rồi vui vẻ, anh chạy ra
cười nói vồn vã:
- Chào ông Lường Duỳn!
Người đàn ông bước vào
là một người khỏe mạnh trắng trẻo, nét mặt đầy đặn và tươi, tuy những sự lo âu
có làm sút kém đi một chút.
Lường Duỳn đã 36 tuổi
theo như lời khai hôm trước, nhưng trông ra dáng chỉ độ 31, 32. Ông ta mặc một
bộ âu phục hàng sang cắt rất khéo. Cử chỉ tự nhiên và lịch sự tỏ ra người có học
thức và lịch duyệt. Đôi mắt rất nhanh nhẹn, miệng hơi nhỏ, mỗi khi cười nói lại
để lộ ra hai cái răng vàng lấp lánh ở khóe môi.
Duỳn bẳt tay Phong và
nói:
- Tôi xem ra việc điều
tra riêng của ông tấn tới và chu đáo lắm. Ông thực là một nhà phóng viên hoàn
toàn.
Phong "vâng"
một tiếng nghe rất chướng tai. Anh ta có thói nhận những lời khen một cách
không khiêm tốn chút nào hết.
- Vâng, tôi cũng vui
lòng rằng không thấy việc này khó khăn mấy. Ông có đến qua sở cẩm đó không?
- Không. Sao? Có việc
gì?
- Không. Tôi muốn hỏi
xem có chuyện gì lạ không, ông ở nhà đến đây đó chứ?
- Vâng. Tôi lo quá. Nhà
tôi không bao giờ lại có chứng thổ huyết với ngất đi như thế. Cái nạn xảy ra
đêm vừa rồi thực là một cái khổ lớn cho gia đình tôi.
Thấy người khách lai
nhìn tôi ra dáng hỏi, Phong sực nhớ ra, chép miệng nói:
- Tôi vô ý đến thế đấy,
chưa giới thiệu được người bạn tôi với ông: ông Văn Bình ở báo Thời thế mới
phái lên sáng hôm nay, một người rất chăm chú đến việc này.
Người khách lai bắt tay
tôi và tự xưng tên:
- Léon Yune, buôn bán.
Thưa ông, tôi hâm mộ báo của các ông lắm, và rất lấy làm hân hạnh được gặp ông.
Câu này ông ta nói bẳng
tiếng Pháp, nói đúng âm, nhưng giọng nói hơi văn hoa.
Phong lại nói:
- Chúng tôi vừa đang định
tới nhà ông và xin ông một bức chân dung.
Người khách lai ngần ngừ
rồi đáp:
- Vâng, tôi vui lòng lắm,
song tôi thì không có bức ảnh nào chụp gần đây.
- Không hề gì, vì chúng
tôi xin chụp ngay ông ở đây cũng được.
Nói rồi Phong nhảy ra
xe hơi lấy máy ảnh vào bấm liền.
Đoạn anh ta lễ phép
nói:
- Cảm ơn ông lắm. Bây
giờ ông vào thăm bà Duỳn phải không? Vậy tiện đây xin chào ông, chiều hôm nay
chúng tôi đi Hà Nội.
Người khách lai ngạc
nhiên:
- Tối nay các ông đã
xuôi?
- Vâng. Vì việc chúng
tôi đến đó là hết. Thôi, xin phép ông.
Lúc Phong ngồi trên xe
hơi, tôi hỏi anh:
- Anh bảo hung thủ bị bắt
rồi, sao không đưa tin ấy cho ông Duỳn biết.
Anh không đáp, nhìn ra
bên đường như chăm chú ngắm cảnh vật buồn tẻ một lát, rồi bỗng ngảnh lại nhìn
tôi:
- Anh là đồ gàn! Không
phải là tin nào cũng có thể gào lên cho người ta biết được.
- Tôi không hiểu ý anh
thế nào cả.
- Vì anh là đồ tồi, chứ
sao? Anh đừng hỏi gì tôi nữa, cứ lặng yên lắng tai, mở mắt ra mà nghe, mà xem,
mà làm công việc của cái máy thu thanh với cái máy ảnh.
° ° °
Manh mối
- Việc án mạng này, thực
anh khám phá được rồi ư? Tôi vẫn ngờ là anh có ý gì khác...
Phong như đang nghĩ đi
đâu, chợt tỉnh dậy:
- Tôi có ý gì được? Anh
không tin tài của tôi một tí nào ư?
- Tin. Nhưng lần này
tôi thấy cái tài ấy... "ngoa" quá. Phần tôi, tôi chưa thấy nảy ra tia
sáng nào. Ba gian phòng, từ cửa lớn tới cửa sổ, đều đóng kín. Cửa sổ lại có chấn
song sắt. Đào Ngung ngồi nói chuyện với người chị ở phòng giữa, không có việc
gì xảy ra. Bỗng nhiên, trong có ba, bốn phút đồng hồ sau khi người thiếu phụ về
phòng mình, Đào Ngung bị một con dao cắm sâu vào ngực. Thế mà không phải là một
việc tự sát! Vậy hung thủ vào lối nào để giết người được? Giết rồi, ra lối nào
được? Chỉ có cái cửa thông phòng giữa sang phòng ngủ là mở, nhưng lúc ấy, đèn
sáng như ban ngày, người thiếu phụ dẫu vô ý đến đâu cũng trông thấy bóng hung
thủ chứ. Bảo rằng hung thủ lẻn vào một chỗ trong ba gian phòng rồi thừa lúc Đào
Ngung ở một mình phòng giữa nhảy ra đâm chết, đâm xong lại lẻn ẩn một chỗ?
Nhưng cũng không xuôi. Trước hết, theo cuộc điều tra, hung thủ không để lại một
dấu vết nào, trừ cái vết đầu gối trên cái bàn gần cửa sổ, là một chỗ không ai dại
gì lại đến ẩn ở đó. Sau nữa, hung thủ lẻn ra lối nào? Nghe thấy tiếng vợ người
khách lai kêu, người nhà đầy tớ đều đâm bổ lên cùng với Lường Duỳn vừa ở Hà Nội
về... Hung thủ phải là người có phép biến hóa mới trốn thoát được. Nếu không,
thì hung thủ chỉ có thể là...
- Là ai?
- Là vợ người khách
lai!
Phong lườm tôi và gắt:
- Vợ Lường Duỳn? Không!
Một trăm, một nghìn, một vạn lần không! Người thiếu phụ, không những không là
hung thủ một li nào, cô ta lại là người thân yêu Đào Ngung hơn tình ruột thịt nữa.
- Thế nghĩa là?
- Nghĩa là yêu Đào Ngung
chứ gì! Là tình nhân của Đào Ngung, anh nghe chưa?
- Ồ, có lẽ nào!
- Có lẽ lắm chứ? Đào
Ngung không phải là em vợ Lường Duỳn. Việc gặp gỡ hắn và nhận ra hắn là con bà
dì, việc đưa hắn về nhà chơi để nhờ chồng tìm việc cho, đó chỉ là những cách để
cho hai người được gần nhau, gần nhau mà tránh được điều nghi kỵ. Điều đó tôi
đã ngờ thấy ngay từ lúc giáp mặt người thiếu phụ trong lúc xảy ra án mạng; đến
nay, sự ngờ đã thành ra sự thực rồi. Người thiếu phụ lúc ở nhà thương chiều hôm
nay, đã thú nhận riêng với tôi hết.
- Nhưng tại sao anh ngờ
được cái điều rắc rối ấy chóng đến thế?
- Đó là nhờ ở phép
"phân đoán" và nhất là cái trực giác riêng của tôi.
- Tôi không hiểu.
- Anh thì chẳng bao giờ
thèm hiểu gì hết. Mà có gì đâu? Tôi trông thấy người đàn bà trẻ tuổi kia, trước
hết tôi phải khen phục cái nhan sắc kỳ ảo mà anh đã được thấy... nhưng tôi cũng
chú ý đến cách trang điểm của cô ta. Một người đàn bà biết chồng đi vắng mà lại
đánh phấn thoa son để khâu vá trước mặt em trai?... Đó, là một điều bất thường...
Làm đỏm, vẫn là tính quen của đàn bà, nhưng không phải lúc nào cũng làm đỏm: đó
là đầu mối thứ nhất. Nếu các nhà chuyên trách cũng chú ý như tôi lúc xem xét
người bị giết, thì thế nào cũng thấy trên mình người ấy còn vướng một sợi tóc
nhỏ, dài, khác hẳn với thứ tóc đen lánh, ngắn và cứng của người đàn ông. Không
phải nghĩ nhiều cũng biết rằng đó là tóc của người thiếu phụ. Tôi quên không
nói cho anh biết rằng vợ Lường Duỳn đêm hôm qua vấn tóc trần. Vậy thì sợi tóc ấy
không nhưng nhảy sang cúc áo Đào Ngung được ư? Đó là đầu mối thứ hai. Lường Duỳn
đi vắng, đầy tớ ngủ cả dưới nhà, duy có con sen ngủ ở cái buồng chứa đồ trước cửa
phòng ngủ của người thiếu phụ. Cho nó uống thuốc ngủ làm gì? Chẳng là để cho
câu chuyện ân ái của hai người trong lúc đêm khuya không ai biết đến? Còn gì nữa?
Hai ly rượu mùi trên lò sưởi, cái giỏ đan áo để bên Đào Ngung trong lúc hai người
còn ở phòng khách, cùng với những điều tôi nhận xét lúc nãy cũng thừa chứng ra
rằng trước khi xảy ra án mạng, hai người đã sửa soạn đến những chuyện êm đềm
hơn. Nhưng có biết đâu trong lúc ấy có đôi mắt căm tức đang rình hai người từng
cử chỉ một?
- Ở đâu?
- Ở trên cây sấu trước
cái cửa sổ trông ra sau nhà.
- Nhưng cửa sổ đóng ở
bên trong kia mà?
- Cái khôn khéo của
hung thủ là ở chỗ đó. Vì người rình trên cây sấu tức là hung thủ. Lúc ấy, cửa
đóng, nhưng cái nắm cửa vẫn chưa vặn lại, hung thủ dùng một
cái móc sắt dài kéo hé ra một chút đủ để trông thấy cảnh bên trong. Tôi đã có
thì giờ xem xét lại cái cây ở phía ngoài tường và xem cả những vết đầu móc sắt
sướt trên cửa sổ. Vào khoảng mười giờ đêm là lúc đầy tớ trong nhà ngủ yên cả,
người thiếu phụ mới sang bên phòng ngủ trước, thì thừa lúc đó, hung thủ ở trên
cây kéo cánh cửa sổ, khiến Đào Ngung nghe tiếng động, kinh ngạc quay ra. Lưỡi
dao hung thủ giết Đào Ngung ngay lúc đó.
Tôi ngắt lời Phong và hỏi:
- Nhưng cái cây mà hung
thủ ẩn trên đó ở ngoài bức tường, có cách xa cửa sổ không?
- Cách hơn hai thước.
- Vậy làm thế nào hung
thủ giết được?
- Anh không xem xiếc
bao giờ ư?
- Thế ra hung thủ nhảy
từ cành cây bám lấy cửa sổ để đâm chết Đào Ngung?
- Không phải. Anh nên
nhớ rằng Đào Ngung mới quay ra thôi, mà từ chỗ vũng máu là chỗ Ngung gục xuống
chết cho đến cửa sổ cách nhau những một thước chín mươi. Mà cho rằng Ngung có
đi ra phía cửa sổ thì hung thủ cũng không đâm được: cửa sổ có chấn song sắt, mà
kề ngay đấy lại có cái bàn. Người chậm chạp đến đâu cũng tránh được... Nhưng
đây hung thủ không ra mặt, vẫn lẩn trong bóng lá mà giết Ngung một cách rất nhậy,
không tài nào kịp đề phòng.
- Bằng cách gì?
- Nói thế mà vẫn chưa
nghĩ ra. Bằng cách phóng con dao vào ngực Đào Ngung, phóng trúng tim; hung thủ
quả có con mắt tinh và có tài phóng dao hơn cả nhà nghề trong những phường xiếc...
Đây tôi cứ theo cách hành động của hung thủ kể nối cho anh nghe.
"Giết xong Ngung,
hung thủ lại lấy cái móc sắt đẩy mạnh cửa sổ vào, leo xuống đất, giấu cái móc
vào một chỗ kín mà chỉ riêng tôi tìm thấy vì tôi vẫn có ý tìm. Hung thủ chạy
theo cái ngõ nhỏ ở bên cạnh nhà ra đường cái, lúc ấy, trong nhà đầy tớ đã dậy
vì nghe tiếng kêu của Lường Duỳn. Hung thủ gọi cổng chạy lên gác, chực vào
phòng ngủ bên trái, rồi do lối cửa thông đi sang. Con dao đâm trúng tim, nhưng
không sâu lẳm, hung thủ muốn cho người ta ngờ là Đào Ngung bị đâm một nhát rất
mạnh, nên vực lấy tử thi, bảo người thiếu phụ sang phòng bên..."
Tôi giương mắt nhìn Lê
Phong, toan hỏi nhưng anh lắc đầu, vẫn giữ nguyên cái giọng bình tĩnh và nét mặt
thản nhiên nói tiếp:
- Anh đừng ngắt lời tôi
vội. "Hung thủ" bảo người thiếu phụ sang phòng bên để tìm... hung thủ.
Thừa lúc ấy, hắn ấn sâu con dao vào ngực người chết, nhưng không để lại vết tay
trên chuôi dao, vì tay hắn đeo găng; rồi nhanh như cắt, hắn chạy leo lên cái
bàn kê trước cửa sổ, vặn nắm cửa lại để cho câu chuyện thành rắc rối thêm. Hung
thủ thực là có tài, có mưu trí và lần đâu giết người đã có "nghệ thuật"
lắm. Nhưng hung thủ chỉ có một điều khờ là đi thú thực với tôi.
- Thú thực với anh?
Lê Phong chưa đáp vội,
mỉm cười để ngắm vẻ ngạc nhiên trên mặt tôi. Một lát anh mới thong thả nói:
- Phải, thú thực với
tôi rằng cái vết đầu gối in lên cái mặt bàn gỗ kê trước cửa sổ. Bàn
đánh xi dày nên cái vết in cứ chú ý một chút là thấy rõ. Giá Đào Ngung hay một
người nào vẫn ở trong nhà từ tối mà tì lên đó thì khó thấy vì quần áo họ khô.
Nhưng quần áo của hung thủ lại hơi ướt. Anh lại nên nhớ rằng tối
hôm qua, trời lâm râm mưa. Tôi lấy làm lạ rằng trong việc án mạng khôn khéo đến
thế, mà hung thủ tính việc vẫn chưa được chu đáo.
- Nhưng hung thủ là ai
mới được chứ?
- Câu hỏi của anh khó
chịu quá, tôi nói đến thế rồi mà anh còn chưa đoán ra ai?
- Lường Duỳn ư?
- Chứ còn ai nữa? Lường
Duỳn, người khách lai lanh lẹn, nhã nhặn mà anh với tôi gặp ở nhà thương vừa rồi.
Hung thủ đấy.
- Nhưng sao anh bảo
hung thủ bị bắt rồi?
- Đó là một cách nói.
Nhưng cũng là một sự thực. Lường Duỳn tin ở cái mưu của mình lắm nên không trốn
tránh. Thế thì muốn bắt hắn lúc nào nên lúc ấy, chỉ chờ có đủ chứng cớ nữa
thôi. Chứng cớ thì tôi đã cho các nhà chuyên trách thấy một vài điều rồi. Thí dụ
như bộ quần áo ướt của hắn. Hôm qua trời mưa, hắn khai rằng: ở Hà Nội về bằng
ô-tô, mà ô-tô của hắn thì kín như trong phòng ngủ. Vậy thì tại sao quần áo hắn
lại ướt như đã ở ngoài mưa ít ra là hai, ba giờ đồng hồ. Tôi chú ý đến điều ấy
ngay từ lúc các nhà chuyên trách khám xét tử thi Đào Ngung, nhưng mãi sau mới
thấy điều đó là rất quan trọng. Tôi đem ráp các việc xảy ra lại cho có liên lạc
và thấy "những tia sáng" cứ vùn vụt hiện ra... Ngay đêm hôm qua tôi
đã biết ba phần tư sự thực rồi, và có thể tố cáo ngay Lường Duỳn, nhưng tôi còn
một vài điều vẫn chưa cắt nghĩa ra được: là con dao giết người kia sao lại ở
trong tay người khách lai và bọn người buôn lậu có dính dáng đến vụ án mạng này
không? Tôi nghĩ đến hai điều đó suốt sáng hôm nay, nhưng chỉ thấy những lẽ rất
mập mờ chực hiện ra rồi lại biến mất. Bỗng cái tin anh đem ở nhà đoan về làm
tôi tỉnh ngộ ra... "Ánh sáng của sự thực", nói theo giọng văn chương,
nảy ra một cách rất rõ ràng, rất chói lọi: Lường Duỳn cũng là một tay buôn lậu,
hành động ở trong bóng tối và biết được các đường lối và ngày trở về của bọn
buôn súng với thuốc phiện lậu ở bên Tàu. Hồi đi điều tra, tôi có nghe nói đến mấy
tay đại phú thương đứng đầu cho bọn này, nhưng không ngờ rằng trong những tay ấy
Lường Duỳn đây chính là một tay trọng yếu. Con dao kia Duỳn thiếu gì cách lấy
được? Ngày, giờ của bọn đi rừng thì chỉ có người đã giao thiệp với chúng mới biết
được: nên Duỳn mới viết thư, hay nói cho đúng, mới cắt lời trong báo, làm một bức
thư nặc danh chỉ dẫn cho nhà đoan. Người khách lai tại sao tố cáo họ? Đó chỉ là
một lối lợi dụng các trường hợp một cách tinh khôn: Duỳn biết rằng Đào Ngung
trước cũng là một tay buôn lậu, nên có ý cho nhà chuyên trách ngờ rằng hắn bị
giết là vì bọn buôn lậu trả thù cho mấy người bạn bị Ngung tố cáo. Hắn tính việc
này có lẽ lâu lắm, vì có lẽ hắn chú ý giết Đào Ngung đã lâu... Giết vì ghen, vì
biết rằng Đào Ngung mà trước hắn tưởng là em vợ mình, nay chỉ là một người tình
địch của hẳn. Cái ghen như thế mới ghê gớm, không sôi nổi, không tăm tiếng,
khoan thai trầm tĩnh hơn cái ghen của Hoạn Thư. Duỳn muốn triệt một người được
vợ mình yêu, nhưng không muốn cho vợ biết chính mình là thủ phạm. Cái giận
trong lòng được hả, mà đối với vợ cũng như đối với pháp luật, hắn vẫn là người
tử tế như thường. Tôi thú thực rằng phải là một người thông minh, học thức lắm
mới có những thủ đoạn như thế".
Tôi hỏi:
- Bây giờ anh định ra
sao?
- Bây giờ ấy à? Về chỗ
trọ của tôi thu xếp va-li, rồi đến hiệu ảnh lấy mấy bức ảnh tôi chụp và đưa họ
rửa, rồi về Hà Nội với anh.
- Ồ! Về ngay à?
- Việc của mình thế là
xong, còn ở làm gì nữa?
- Thế còn Lường Duỳn?
- Hắn bị bắt hay không
là tùy theo cuộc điều tra thứ hai của các nhà chuyên trách. Mà theo ý tôi thì
cũng chỉ chiều nay hoặc sáng mai là xong. Tôi đã cho họ biết cả sự thực. Còn
mình thì chỉ có việc mau về nhà báo cắm đầu mà viết bài tường thuật... và... đợi
đến một vụ án ly kỳ hơn.
--------------------------------
Những điều ghi chép qua. |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét