12. 6. 1890: Kẻ nổi loạn Egon Schiele chào đời
Bop Lavender tổng hợp và biên dịch
Nguồn soi.today
Egon Schiele, “Tự họa”, 1912
Egon Schiele (1890 – 1918), người Áo, là một
trong những họa sĩ biểu hình quan trọng nhất của những năm đầu thế kỷ 20.
Hội họa của Schiele cực kỳ ấn tượng bởi lối
thể hiện vô cùng bạo liệt. Các dáng vẻ cơ thể xoắn vặn và những đường nét biểu
cảm là đặc điểm nổi bật trong tranh ông.
Schiele là nhân vật đầu đàn của chủ nghĩa biểu
hiện Áo, mặc dù hội họa của ông vẫn có sự kết nối với phong trào nghệ thuật mới
(Jugendstil).
Với cái nhìn độc đáo, lối miêu tả cơ thể tự
nhiên và kỹ thuật tạo hình cực kỳ điêu luyện, hội họa của Schiele đã có những
đóng góp vô cùng quan trọng cho sự phát triển của nghệ thuật hiện đại.
Bộ sưu tập quan trọng nhất của Schiele hiện nằm ở Bảo tàng Leopold, Vienna.
Tiểu sử của ông không hề xa lạ với những người yêu hội họa.
Nhưng 5 BÍ MẬT dưới đây của đời Egon Schiele
không phải ai cũng biết:
1. Egon Schiele là kẻ đã bỏ trường nghệ thuật
Là một tài năng sớm phát lộ, Schiele thi đỗ
vào Học viện Mỹ thuật Vienna ngay từ năm 16 tuổi. Tuy nhiên, ông không thích
lối đào tạo mỹ thuật cứng nhắc của học viện, mà luôn hướng tới những lối tiếp
cận tiên phong hơn, tìm kiếm cảm hứng trong các tác phẩm của Oskar Kokoschka và
Gustav Klimt – người sau này trở thành thầy dạy vẽ của ông. Schiele công khai
đả phá các nguyên tắc giảng dạy của các giáo sư và rời bỏ học viện vào năm
1909. Sau khi biết được quyết định bỏ học của Schiele, vị giáo viên dạy môn
hình họa của ông đã nói: “Cậu chớ có nói với bất kỳ ai là tôi từng dạy dỗ cậu
đấy, rõ chửa.”
Egon Schiele, “Mẹ và hai con”, 1915
2. Egon Schiele từng là một nhà thơ
Schiele đã sáng tác một số bài thơ trong cuộc
đời ngắn ngủi của mình; Tuy không có những bài tầm cỡ các thi phẩm xuất sắc của
các thi sĩ biểu hiện nổi tiếng thời bấy giờ như Georg Heym, Gottfried Benn,
song một số bài thơ của ông là những thi khúc thể hiện sinh động tầm nhìn của
người họa sĩ thiên tài. Nhiều thi khúc của ông có tiêu đề liên quan tới màu sắc
hoặc phương pháp tiếp cận của họa sĩ, chẳng hạn như “Phác thảo cho một bức chân
dung tự họa” hoặc “Chân dung tự họa”. Trong một bài thơ tên “Viễn cảnh” có
câu: “Những thiếu nữ xanh xao lộ ra những cẳng chân đen đúa đi vớ đỏ; họ ra
hiệu bằng những ngón tay thâm tím…” gợi lên một bức tranh sống động như thể
được ông vẽ ra trước mắt.
"Chân dung tự họa nam khỏa thân mặt nghiêng trái” 1910
3. Egon Schiele là kẻ trăng hoa
Schiele là một người đàn ông trăng hoa khét
tiếng; cách ông bố trí người mẫu và lối phục trang của họ cho thấy rõ niềm đam
mê và sự thèm khát thân hình đàn bà của ông. Ông ghi nhận có không dưới 180
“khách” nữ từng đến thăm xưởng họa của mình trong một khoảng thời gian tám
tháng.
Người mẫu của bức này là Wally Neuzil (sinh 1894, chết trẻ 1917), vốn là người mẫu của Klimt, sau thành người mẫu của Shiele và cũng là nàng thơ, người tình của ông
Không có gì ngạc nhiên khi ông kết hôn với
Edith Harms vào năm 1915, người vợ mới này đã luôn bày tỏ sự ghê rợn cái thói
quen “dùng” các cô người mẫu của chồng, và bản thân cô cũng cảm thấy khó xử khi
làm mẫu khỏa thân cho ông vẽ – bởi cô xuất thân là người theo đạo Tin lành.
Trong năm đầu tiên sau ngày cưới, Schiele vẫn trung thành với Edith, và trong
thời gian đó, họ đã “quấn chặt lấy nhau” (như cách Harms nói), “càng nhiều càng
ít để quên đi thế giới xung quanh”. Nhưng khi Harms bắt đầu tăng cân, không còn
phù hợp với mẫu người gầy gò mảnh mai của Schiele, họa sĩ đã quay lại với những
cô người mẫu khác.
“Nằm nghiêng với tất xanh, hay AdeleHarms”. Adele Harms chính là chị/em gái của Edith Harms, vợ Schiele, về sau cũng mê hoạ sĩ
4. Egon Schiele từng bị bỏ tù một thời gian
ngắn
Năm 1912, Schiele bị buộc tội dụ dỗ trẻ vị
thành niên. Mặc dù về sau được chứng minh là không phạm pháp, và sau đó được
giảm án, song Schiele vẫn bị tạm giam 24 ngày vì một “tội trạng” khác: “sỗ sàng
trưng bày tranh khiêu dâm trước mặt trẻ vị thành niên”. Trong lúc ở tù, Schiele
đã vẽ một loạt 12 bức tranh (màu và bút ở đâu ra ? sao lại cho tù nhân vẽ vời
tự do như ở nhà thế nhỉ?) mô tả những chấn thương tâm lý và sự bức bối của một
người sống trong cảnh giam cầm.
“Cô gái quỳ, chống hai khủy”, 1917
5. Egon Schiele là một họa sĩ phân tâm học
Schiele là người sống cùng thời với Sigmund
Freud và cũng là nhà phân tâm học, và, giống như Freud, ông đã tìm cách khai
quật cái vô thức – như là nguồn gốc của tâm lý và những tính khí bất thường của
con người: trong các bức chân dung của mình, Schiele khám phá những chiều sâu
tâm linh của các đối tượng thông qua cuộc đối đầu triền miên với thể xác, tình
dục và cái chết.
Egon Schiele, “Tình bạn”, 1913
Nhiều học giả cho rằng hội họa của Schiele,
đặc biệt là những bức chân dung tự họa, là những thực hành nghệ thuật hướng nội,
nhằm phản ánh một trạng thái tâm lý của đời sống. Những nhân vật gầy gò, hốc
hác, góc cạnh của ông thường có bộ dạng của những người có nội tâm luôn căng
thẳng, dằn vặt và như “bị tra tấn”.
**
Trong suốt cuộc đời ngắn ngủi vỏn vẹn 28 năm
bị cắt đứt thật bi kịch bởi dịch cúm Tây Ban Nha, Schiele đã từng gây nên nhiều
cơn bão dư luận bởi cách tiếp cận hội họa khỏa thân đầy thô ráp và phi lý tưởng
hóa. Những bức tranh mô tả cơ thể con người vô cùng chân thực, cấp tiến, biểu
cảm và hoàn toàn không khoan nhượng đã bộc lộ thật tuyệt mỹ, đầy bản năng và
hấp dẫn những yếu tố của sự tự biểu hiện, sự sinh sản, tình dục, sự khêu gợi và
cái chết – những mối quan tâm chính trong bầu không khí tâm lý và xã hội đầy
biến động, căng thẳng của thành Vienna trước cuộc chiến tranh thế giới lần thứ
nhất.
“Hai cô gái nằm quấn lấy nhau”, 1915
Dù Schiele đã từng có một tuyên bố rất nổi
tiếng rằng “nghệ thuật gợi tình cũng thiêng liêng lắm”, song nhiều bức tranh
của ông đã bị công chúng và giới phê bình la ó và gắn mác “rác rưởi”, “khiêu
dâm”.
Tuy nhiên, giờ đây, các bức tranh màu nước phi
phàm của ông với những hình thể nam nữ khỏa thân đã được cả thể giới ca ngợi là
những kiệt tác, còn sự nghiệp ngắn ngủi của ông được lịch sử nghệ thuật thế kỷ
20 ghi nhận là đã có những đóng góp vô song về lối mô tả sáng tạo các chủ thể,
nhất là CƠ THỂ CON NGƯỜI.
*
Một số bức… không phải vẽ người của Schiele:
Egon Schiele, “Cây cầu”
“Nhà giặt khô”, 1917
*
Nguồn: Từ FB của Bop Lavender
Tự họa với cây hoa lồng đèn Trung Quốc
Chân dung Arthur Rössler, 1910 |
Chân dung Anton Peschka 1909 |
Tự họa |
Edith Schiele 1915 |
Chân dung Wally , 1912 |
Self-portrait, 1910 |
Self-portrait grimacing, 1910 |
Self-portrait with black clay pot, 1911 |
/Tách
Lớp/ Chúng ta thấy gì trong ánh mắt ưu tư của Egon Schiele
Mỗi bức chân dung tự họa của Egon Schiele là một mảnh ghép tâm hồn thấu cảm, đưa người xem lang thang trong thế giới dị biệt của vô vàn cung bậc khác nhau.
Những bức chân dung tự họa vốn không còn xa lạ trong thế giới nghệ thuật, ngoài “trưng bày” cái tôi mà người nghệ sĩ nào cũng có, đây còn là cuộc tâm tình trực tiếp với bản ngã để họ thực sự biết bản thân mình là ai. Với Rembrantd, ông phô diễn kỹ thuật hội họa Impasto điêu luyện song song với đó là sự nghiền ngẫm về dòng chảy thời gian đã đi qua sau nhiều năm thực hành nghệ thuật. Trong khi đó, chúng ta nhìn thấy ở Van Gogh là hành trình du ngoạn trong thế giới sắc màu, đào sâu vào những cảm xúc lẩn khuất bên trong tâm hồn để khơi dậy những chất chứa dung dị.
Egon Schiele thì sao? 12 năm ngắn ngủi của sự nghiệp, họa sĩ người Áo đã cho ra đời hơn 300 tác phẩm sơn dầu và vài nghìn bức tranh màu nước, rất nhiều trong số đó là những bản vẽ chân dung tự họa. Không phải ngẫu nhiên mà Schiele lại thực hiện số lượng vô kể như vậy, chúng là những ghi chép chi tiết về “cuộc sống” tâm lí phức tạp; có khi là sự tự tin, đôi lúc lại u uất, giằng xé, thậm chí là cả khiêu gợi khiến người ta cảm thấy thô thiển.
Được xem là người đạt đến đỉnh cao trong chủ nghĩa Biểu Hiện ở Áo so với những nghệ sĩ cùng thời, Egon đã bác bỏ những quy ước điển hình về cái đẹp để đưa “cái xấu” và cảm xúc phóng đại vào trong nghệ thuật. Hôm nay chúng mình sẽ ghé thăm thế giới nhỏ bên trong cuộc sống nội tâm đầy phức tạp ấy của Schiele trong tác phẩm tự họa nổi tiếng nhất của ông – Bức tranh “Self-portrait with Chinese Lantern Plant” (tạm dịch: Chân dung tự họa với cây lồng đèn Trung Hoa).
“Self-portrait with Chinese Lantern Plant“, 1912 – Egon Schiele.
Kích thước: 32,2 x 39,8
cm. Chất liệu: Sơn dầu.
Nơi trưng bày: Bảo tàng
Leopold, Áo.
Nguồn ảnh: Wikipedia.
Bối cảnh nghệ thuật
Bức “Chân dung tự họa với cây lồng đèn
Trung Hoa” được xem là một trong số những tác phẩm khép lại thời kì
nổi loạn cực thịnh của Egon Schiele trong nghệ thuật từ năm
1909-1912. Nói qua một chút, đây là giai đoạn mà nghệ sĩ người Áo khẳng định
cái tôi mãnh liệt nhất trong sự nghiệp cầm cọ ngắn ngủi của mình. Tính dục và
sự thấu tâm cực độ luôn thường trực trong mỗi bức chân dung mà ông thể hiện.
Bức “Lưng trần với mũ đỏ” – 1910. Ảnh: Wikiart
Năm 1910 là thời điểm mà Schiele dần
thoát ly khỏi phong trào Ly khai Vienne khi trước đó nghệ sĩ
người Áo chịu ảnh hưởng rất nhiều từ danh họa đồng hương nổi tiếng Gustav
Klimt. Ông tiến gần đến chủ nghĩa Biểu Hiện mới nổi lúc bấy giờ, vẫn là
những bức tranh sơn dầu nhưng kỹ thuật điêu luyện hơn cho thấy sự tự nhiên trong
bút lực miêu tả và tạo hình nhân vật.
Đặc biệt, các bức chân dung tự họa bày tỏ sâu
sắc những dằn vặt nội tâm, nỗi thống khổ của cuộc sống, của tình dục và cái
chết trong vô thức. Schiele dành một tình yêu nồng cháy với cơ
thể trần tục của chính mình cũng như các người mẫu nữ. Để rồi, ông đưa “hình
ảnh khiêu gợi” ấy trở thành một lĩnh vực nghiên cứu nhằm lột tả sự “trần
trụi” trong đời sống tinh thần của con người thông qua các sáng tạo nghệ
thuật.
Chân dung tự họa – 1910. Ảnh: Wikiart
Với những tác phẩm khỏa thân táo bạo như vậy,
cuộc sống của Schiele luôn bị soi mói bởi xã hội bảo thủ ở Áo
ngày ấy và những người dân sống xung quanh ông. Năm 1912, ông cùng nàng
thơ Wally Neuzil trốn khỏi thành thị và chuyển về thị trấn
nhỏ Neulengbach, cách Vienna 30 dặm về phía tây sinh sống. Xưởng vẽ
của ông là nơi trẻ em trong làng thường xuyên lui tới và sự việc gây tranh cãi
nhất xảy ra khi Schiele bị tình nghi dụ dỗ và bắt cóc một cô
bé 13 tuổi.
Schiele nhanh chóng được xóa bỏ những tội danh đó sau 21 ngày tạm
giam, tuy nhiên, một cáo buộc khác nảy sinh khi cảnh sát thu giữ 125 bức
tranh khỏa thân trong xưởng vẽ của ông. Thẩm phán coi đây là văn hóa khiêu dâm
kích động trẻ em vị thành niên, kết án ông thêm 3 ngày tù nữa và đốt một vài
bức tranh trước mặt nghệ sĩ người Áo.
Chính sự kiện trên cùng khoảng thời gian sau
song sắt đã ảnh hưởng trực tiếp đến sự nghiệp cũng như tâm lí của Schiele.
Đây là tiền đề khiến ông hướng đến giai đoạn “Trưởng Thành” trong nghệ thuật
sau đó và “Bức chân dung tự họa với cây lồng đèn Trung Hoa” là
hình ảnh rõ nét nhất để thấy bước chuyển mình này.
Hiệu ứng thị giác
Có thể coi “Self-portrait with Chinese
Lantern Plant” là tác phẩm chân dung xuất sắc nhất của Egon
Schiele trong cả sự nghiệp. Kỹ thuật bút pháp hoàn hảo kết hợp cùng sự
hài hòa trong hình ảnh với màu sắc tinh tế đã tạo ra một ấn tượng khó có thể
rời mắt.
Về phần bố cục, dù trước đó ông khẳng định đã cố
gắng thoát ly khỏi nghệ thuật của Klimt, nhưng, dấu ấn ảnh hưởng vẫn tồn tại
đậm nét ở đây; tiêu biểu là “tính phẳng” trong biểu hiện thị giác khi được bố
cục bởi các mảng hình màu lớn. Tuy nhiên khác với Klimt, Schiele xây
dựng ít chi tiết nhỏ hơn để tập trung điểm nhìn vào biểu cảm của cơ thể và
gương mặt.
Bố cục chân dung 2/3.
Một tổng thể cân bằng được sắp đặt có chủ ý với
diện tích chân dung chiếm 2/3 bức tranh. Schiele miêu tả hình
ảnh bản thân với cầu vai nghiêng về bên trái, phần đầu hơi quay sang bên phải,
cằm đưa ra và mắt nhìn về hướng chính diện. Mái tóc và phần thân
cơ thể được cố tình cắt bớt trên dưới để phù hợp với nhịp điệu đặc tả cảm xúc
gương mặt trong bức chân dung.
Đặc biệt là cái nhìn rất tách biệt khi hướng
thẳng về phía người xem với đôi mắt đen to quá khổ phản ánh sự chuyển động
trong tâm hồn. “Schiele hững hờ” dường như đang tự miêu tả
mình là một chàng trai nhạy cảm và ông đắm mình trong chính những suy tư của
bản thân khi tìm kiếm sự thay đổi.
Bảng màu trong bức tranh.
Về phần màu sắc, Schiele sử
dụng cặp tương phản để nhấn mạnh hai đối tượng riêng biệt giữa “chân dung cùng
cây lồng đèn” có gam màu thuộc dải tối chủ đạo với nền trắng trung tính ở phía
sau. Không chỉ vậy, bên trong đối tượng chính là chân dung và cây lồng đèn cũng
có sự tương tác qua lại. Ngoài là hình dáng mảnh mai cho thấy sự đồng
điệu, Schiele sử dụng cặp màu bổ túc của Đỏ Vermilion (hoa) –
Lục Phthalo + Tím (áo Schiele) để tăng hiệu ứng thị giác cho bức tranh.
Thêm vào đó là sự xuất hiện sắc đỏ ở chân
dung Schiele (gương mặt, đôi môi, đồng tử) cho thấy tính kết
nối của hai chủ thể trong đối tượng chính với nhau. Với phong cách chấp nhận sự
bóp méo hình tượng và mạnh dạn thách thức các quy chuẩn thông thường về cái
đẹp. Mặc dù ở đây Schiele tạo ra ít biến dạng hơn so với các
bức chân dung tự họa khác, nhưng “Self-portrait with Chinese Lantern
Plant” vẫn có các đường nét gợi hình dứt khoát trong phong cách đồ họa
đặc trưng.
Một số chi tiết cận cảnh.
Nếu nhìn cận cảnh chúng ta sẽ thấy những vệt bút khá rõ ràng, Schiele đã sử dụng sơn loãng và cọ với độ cứng vừa phải để tạo chất cho bức tranh. Phương pháp này đem đến hai tác dụng chính: Một là tăng tính chi tiết hiển thị, giúp cho tổng thể không bị trơ trọi khi có nhiều mảng màu lớn – Hai là gợi khối ba chiều cho đối tượng, rõ ràng nhất với phần áo tạo cảm giác nếp gấp của vải và phần khuôn mặt gầy gò cho người xem cảm giác khối xương bên trong.
Ý nghĩa hình tượng
Người ta truyền tai nhau rằng chỉ khi có hình
ảnh “khỏa thân” thì Egon Schiele mới lột tả hết nội tâm trong
Biểu Hiện và nghệ sĩ người Áo đã chứng minh cho họ thấy rằng không cần đến sự
trần trụi kia, ông vẫn có một tác phẩm để đời khiến người xem phải suy tưởng
trong chiều sâu của những dòng tâm sự miên man.
Biên tập: Hoàng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét